Tiểu luận Tính quy luật hình thành kinh tế thị trường sự vận dụng vào nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay

doc 35 trang yenvu 15/06/2024 1190
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tính quy luật hình thành kinh tế thị trường sự vận dụng vào nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tính quy luật hình thành kinh tế thị trường sự vận dụng vào nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay

Tiểu luận Tính quy luật hình thành kinh tế thị trường sự vận dụng vào nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Phần A: Lời mở đầu
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Song hiện nay, mô hình kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế phổ biến và có hiệu quả nhất trong việc phát triển kinh tế của hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới. Mô hình này không chỉ được áp dụng ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà còn được áp dụng ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nó được vận dụng ở các nước phát triển và cả ở các nước đang phát triển. Việt Nam cũng mới sử dụng mô hình kinh tế này được khoảng hơn 15 năm nay. Và có những thành tựu mà chúng ta đã đạt được cũng như có những khó khăn, những vấn đề gặp phải cần được giải quyết trong quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế mới. Điều này rất đáng được quan tâm. 
Và hiện nay, chúng ta cần hiểu rõ về tình hình kinh tế nước ta và tình hình kinh tế của thế giới. Nhất là đối với sinh viên khi nghiên cứu về kinh tế thì đề tài này giúp cho chúng ta trả lời được những câu hỏi: "Phải chăng mỗi một quốc gia muốn có được tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động cao, muốn sản xuất ra nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội thì nhất thiết phải sử dụng mô hình kinh tế thị trường ?", "Vì sao mô hình kinh tế thị trường lại đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia?", "Kinh tế thị trường hình thành và phát triển như thế nào?", "Kinh tế thị trường bao gồm những nhân tố nào cấu thành nên và hoạt động của nó ra sao?", "Bối cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam ra đời và quá trình hoạt động của nó diễn ra như thế nào?", "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có đặc điểm gì giống và khác so với nền kinh tế thị trường của các nước khác trên thế giới?", "Cách thức mà chúng ta sử dụng kinh tế thị trường trong việc phát triển kinh tế?"
Hàng loạt những câu hỏi này sẽ luôn xuất hiện khi chúng ta nghiên cứu về kinh tế. Đề tài này sẽ giúp cho chúng ta hiểu được thêm về bản chất, tính chất cũng như nguồn gốc hình thành của nền kinh tế . Ngoài ra còn giúp cho chúng ta biết thêm được về thực tế, những nhân tố, những quy luật nào tác động đến kinh tế thị trường. Điều đó thực sự bổ ích và nó sẽ luôn hỗ trợ cho chúng ta trong quá trình học tập, nghiên cứu và nâng cao kiến thức, tích luỹ được của bản thân. Từ đó giúp cho chúng ta có được cái nhìn tổng quát hơn, thực tế hơn và nó dần hình thành cho chúng ta một tư duy phân tích lôgic về những hiện tượng kinh tế xã hội xẩy ra hiện nay. 
Đó chính là lý do mà em chọn đề tài này, đề tài: "Tính quy luật hình thành kinh tế thị trường sự vận dung vao nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay " .
Phần B: nội dung
I/ những vấn đề quy luận chung về nền kinh tế thị trường 
1. Khái niệm kinh tế thị trường là gì?
Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiện qua mua - bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường( người bán cần tiền, người mua cần hàng và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường 
Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội trong đó, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là hướng vào việc kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của thị trường
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình phát triển sản xuất xuất hiện đều được tiền tệ hoá, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm và dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng mua bán, là hàng hóa
Ngoài ra khi nói về khái niệm về kinh tế thị trường thì chúng ta còn có thêm hai quan điểm khác nhau nữa được đưa ra trong hội thảo về "kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa" do hội đồng lý luận trung ưng tổ chức:
Một là, xem "Kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hóa làm người phân phối các nguồn lực chủ yếu; lấy lợi ích vật chất, cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. Nó là phương thức tổ chức vận hành kinh tế - xã hội, không tốt mà cũng không xấu. Tốt hay xấu là do người sử dụng nó. Theo quan điểm này, kinh tế thị trường là vật "trung tính", là "công nghệ sản xuất" ai sử dụng cũng được
Hai là, xem "Kinh tế thị trường " là một loại kinh tế - xã hội - chính trị, nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ thị trường. Kinh tế thị trường là một phạm trù hoạt động, có chủ thể của quá trình hoạt động đó, có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động. Trong xã hội có giai cấp, chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không chỉ phải cá nhân riêng lẻ, đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai cấp. Sự tác động qua lại của các chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người này, tầng lớp hay giai cấp này; có hại cho tầng lớp, giai cấp khác
Tóm lại: Kinh tế thị trường là một trong những phương thức tồn tại (phương thức hoạt động) của nền kinh tế mà trong đó các quan hệ kinh tế đều được biểu hiện thông qua quan hệ hàng hoá - thị trường (tức là mọi vấn đề của sản xuất và tiêu dùng đều được thông qua việc mua bán trên thị trường). Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá và vì thế nó hoàn toàn khác với kinh tế tự nhiên - là nền kinh tế quan hệ dưới dạng hiện vật, chưa có trao đổi
2. Tính quy luật và sự hình thành kinh tế thị trường
Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với quá trình xã hội hoá sản xuất thông qua các quá trình sau:
	a. Tổ chức phân công và phân công lại lao động xã hội 
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hoá lao động và theo đó là chuyên môn hóa sản xuất thành những ngành nghề khác nhau
Do có phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một thứ hoặc một vài thứ sản phẩm. Song nhu cầu của họ lại bao hàm nhiều thứ khác nhau, để thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi cần có sự trao đổi sản phẩm giữa họ với nhau
Tổ chức xã hội hoá của sản xuất thể hiện ở chỗ do phân công lao động xã hội, nên sản phẩm của người này trở nên cần thiết cho người khác, cầu cho xã hội 
Phân công xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành,các vùng ngày càng chặt chẽ. Từ đó xoá bỏ tính tự túc, tự cấp, bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất và lao động
Sự phân công lao động diễn ra trong nội bộ ngành; trong các ngành với nhau
Do sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, mối liên hệ giữa các phân xưởng, giữa các công đoạn trong nội bộ xí nghiệp ngày càng mật thiết, tinh vi hơn; hàng vạn công nhân, công trình sư, các nhà khoa học phải hiệp đồng thống nhất, cùng nhau nỗ lực mới làm cho hoạt động sản xuất tiến hành trôi chảy được, phạm vi phân công hợp tác đã vượt xa quá trình gia công trực tiếp đối tượng lao động, và trở thành quá trình toàn bộ bao gồm nghiên cứu khoa học phát minh sáng chế, thiết kế lập chương trình, tự động điều khiển, sử lý thông tin, chế tạo, bảo dưỡng thiết bị.Đồng thời tình hình đòi hỏi ngày càng nhiều những xí nghiệp khác nhau cung cấp máy móc thiết bị, linh kiện, nguyên liệu, còn sản phẩm sản xuất ra phải chuyển nhanh ngay đến những thị trường có lợi ngày càng xa hơn. Điều đó cho thấy tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng xã hội hoá
Cách mạng khoa học - công nghệ sau chiến tranh đã đẩy quá trình phân công xã hội tư bản và chuyên môn hoá lên đến trình độ sâu rộng chưa từng thấy. Hình thành sự phân công giữa các bộ phận lấy thành quả khoa học làm cơ sở, làm cho chuyên môn hoá sản phẩm ngày càng sâu sắc, hình thành chuyên môn hoá linh kiện, chuyên môn hoá công nghệ, chuyên môn hoá kỹ thuật, bảo dưỡng thiết bị và hậu cần sản xuất. Liên hệ kinh tế giữa các xí nghiệp ngày càng mật thiết, làm tăng cường tính phụ thuộc lẫn nhau, quá trình sản xuất của xí nghiệp cá biệt hoàn toàn dung hợp thành một quá trình sản xuất thống nhất
Chuyên môn hoá ngày càng phát triển thì quan hệ hợp tác giữa các xí nghiệp, các khu vực ngày càng mật thiết, hiệp tác trao đổi thương phẩm trên thị trường phát triển thành quan hệ hiệp tác ngày càng bền vững
Phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất trên thế giới cũng mở rộng nhanh. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, các nước ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhau, lệ thuộc vào nhau, sự giao lưu tư bản, trao đổi mậu dịch ngày càng phong phú
b. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất 
Sở hữu là hình thức xã hội lịch sử nhất định của sự chiếm hữu 
Các hình thức sở hữu: Hình thức đầu tiên là công hữu, sau đó do sự phát triển của lực lượng sản xuất, có sản phẩm dư thừa, có kẻ chiếm làm của riêng, xuất hiện tư hữu. Đó là hai hình thức sở hữu cơ bản thể hiện ở mức độ, quy mô và phạm vi sở hữu khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và lợi ích của chủ sở hữu chi phối. Chẳng hạn, công hữu thể hiện thông qua sở hữu của nhà nước, sở hữu toàn dân, sở hữu tư nhân thể hiện ở tư bản tư hữu lớn, tư hữu nhỏ. Ngoài ra còn có hình thức sở hữu hỗn hợp. Nó phát sinh tất yếu do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất cũng như quá trình xã hội hoá nói chung đòi hỏi. Đồng thời, nhằm thoả mãn nhu cầu, lợi ích ngày càng tăng và khắc phục sự bất lực, yếu kém của chủ thể kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sở hữu hỗn hợp hình thành thông qua hợp tác, liên doanh, liên kết tự nguyện, phát hành mua bán cổ phiếu
Sở hữu nhà nước: là hình thức sở hữu mà nhà nước là đại diện cho nhân dân sở hữu những tài nguyên, tài sản, những tư liệu sản xuất chủ yếu và những của cải của đất nước. Sở hữu nhà nước nghĩa là nhà nước là chủ sở hữu, còn quyền sử dụng giao cho các tổ chức, đơn vị kinh tế và các cá nhân để phát triển một cách hiệu quả nhất
Sở hữu tập thể: là sở hữu của những chủ thể kinh tế (cá nhân người lao động) tự nguyện tham gia. Sở hữu tập thể biểu hiện ở sở hữu tập thể các hợp tác xã trong nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, vận tải,. ở các nhóm, tổ, đội và các công ty cổ phần
Sở hữu hỗn hợp: là hình thức phù hợp, linh hoạt và hiệu quả trong thời kì quá độ. Mỗi chủ thể có thể tham gia một hoặc nhiều đơn vị tổ chức kinh tế, khi thấy có lợi
Sở hữu tư nhân của sản xuất nhỏ: là sở hữu về tư liệu sản xuất của bản thân người lao động. Chủ thể của sở hữu này là nông dân, cá thể, thợ thủ công, tiểu thương. Họ vừa là chủ sở hữu đồng thời là người lao động. ở quy mô và phạm vi rộng hơn là tư hữu của tiểu chủ, chủ trang trại có lao động
Sở hữu tư nhân tư bản: là hình thức sở hữu của các nhà tư bản vào các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế 
c. Quá trình tiến hành cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ làm xuất hiện các thị trường mới
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất là cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra vào nửa sau của thế kỉ XVIII. Cuộc cách mạng làm xuất hiện công cụ máy móc để thaythế công cụ thủ công. Đại công nghiệp máy móc đã dẫn đến sự biến đổi to lớn trong cơ cấu ngành nghề thúc đẩy sự phát triển to lớn của lực lượng sản xuất xã hội cũng như nền chính trị xã hội đã dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế giới
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai nổ ra vào nửa sau thế kỉ XIX. Cuộc cách mạng lần này có tiêu chí chủ yếu là vận dụng rộng rãi sức điện và sự phát minh ra động cơ đốt trong, khiến cho loài người bước vào thời đại điện khí hoá. Mở ra con đường tự động hoá sản xuất. Cuộc cách mạng đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất của các nước tư bản chủ nghĩa lên trình độ cao hơn, quan hệ kinh tế quốc tế mở rộng nhanh chóng
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ ba nổ ra sau chiến tranh thế giới II. Tiêu chí chủ yếu của cuộc cách mạng nàylà sự phát triển và áp dụng rộng rãi kỹ thuật nguyên tử và điện tử. Khoa học - công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mở đầu thời đại tự động hoá toàn bộ
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thúc đẩy sự xã hội hàng loạt ngành nghề mới và làm cho những ngành nghề cũ được cải tạo. Cuộc cách mạng làm cho cơ cấu ngành nghề của các nước có sự thay đổi lớn. Trong thời kì kinh tế tăng trưởng nhanh sau chiến tranh, công nghiệp hoá dầu là tổ hợp ngành nghề mới, có tác dụng quan trọng. Ngày nay những ngành nghề mới xuất hiện nhờ có sự phát triển sâu sắc của cách mạng khoa học - công nghệ đã không chỉ có một hai ngành mà xuất hiện hàng loạt ngành công nghiệp mới như công nghiệp điện tử, công nghiệp quang học, công nghiệp nguyên tử, công nghiệp sinh vật, công nghiệp chế biến, công nghiệp tầu vũ trụ.. phát triển mạnh mẽ. Sự xuất hiện các tổ hợp ngành nghề mới, các ngành nghề cũ không bị xoá bỏ, mà được cải tạo một cách triệt để. Việc sử dụng rộng rãi máy dệt không có thoi, đầu máy hơi nước, sự phát triển rộng rãi của lò luyện thép điện và đúc gang thép liên hoàn, sự tăng vọt của hệ thống máy công cụ điều khiển và người máy công nghiệp .Tất cả những cái đó khiến cho các ngành công nghiệp cũ như: dệt, xe lửa, gang thép, máy công cụ đều đổi mới về chất lượng. Sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ giúp cho các ngành nghề mới và các ngành nghề cũ ngày càng kết hợp chặt chẽ với nhau. Các ngành mới lấy công nghiệp truyền thống làm chỗ dựa và thị trường chủ yếu cho sự phát triển của mình, các ngành cũ thì dựa vào các ngành cải tạo kỹ thuật mà tăng thêm sức mạnh mới
Mặt khác cách mạng khoa học - công nghệ còn tạo ra một loạt thị trường mới như: thị trường công nghệ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường tài chính tiền tệTất cả những thị trường này đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, và sự phát triển của chúng đều phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học - công nghệ
d. Sự phát triển phân công và trao đổi ở phạm vi quốc tế
Do phân công lao động nên mỗi người chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm nhất định. Song nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mỗi người cần có nhiều loại sản phẩm. Vì vậy, đòi hỏi họ phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau, phụ thuộc vào nhau. Khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân công lao động được mở rộng thì dần dần xuất hiện trao đổi hàng hoá
Quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm cho họ tách biệt với nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó, người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau
Từ 1980 đến nay, xu hướng toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn nhiều nước ở khắp các châu lục trên thế giới vào thị trường quốc tế. Đặc trưng của hiện tượng này là sự chuyển động nguồn tư bản quốc tế khổng lồ, sự hình thành các công ty xuyên quốc gia và làn sóng người di cư. Sự tác động của toàn cầu hoá sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị, xã hội, tư pháp hoạt động mang tính khu vực và quốc tế ra đời
Khi cách mạng công cụ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển thì sẽ tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp mới ra đời thúc đẩy các ngành, lĩnh vực kinh tế và hệ thống giao thông vận tải phát triển đồng bộ. Sự phát triển đó phá vỡ tính tự cấp,tự túc, mở rộng thị trường giao lưu, trao đổi hàng hoá không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn diễn ra trên thị trường khu vực và thế giới. Lúc này nhu cầu tiêu dùng của dân cư không chỉ được đáp ứng bằng năng lực sản xuất của từng quốc gia riêng lẻ, mà còn được cung cấp từ các nước khác trên thế giới và khu vực
Sự phân bố không đều về tài nguyên, khí hậu và môi trường dẫn đến sự khác nhau về trình độ phát triển, thu nhập, mức sống vật chất và tinh thần. Đây là nguyên nhân của những làn sóng di dân từ vùng có mật độ dân số cao, điều kiện kiếm việc làm khó khăn, thu nhập thấp, đời sống khó khăn đến nơi có dân cư thưa thớt, dễ kiếm việc làm, thu nhập cao, môi trường sống tốt hơn. Điều đó diễn ra thường xuyên trong quá trình phát triển của xã hội loài người
Mặt khác con người phải tìm các biện pháp khắc phục tình trạng khan hiếm tài nguyên bằng cách giao thương, trao đổi, mua bán hàng hoá tiêu dùng và các loại tài nguyên khoáng sản nhằm khai thác nguồn lực dư thừa của các nước để khắc phục tình trạng khan hiếm, thiếu hụt nguồn lực của nước mình. Những yếu tố này tạo nên xu thế tất yếu phục vụ cho nhu cầu phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới. Bởi vì trên thế giới không có một quốc gia nào có đầy đủ các yếu tố nguồn lực để tự mình xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững
Như vậy toàn cầu hoá kinh tế nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm và phân bố tài nguyên không đều, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng cao và số lượng dân cư ngày một nhiều. Nhưng nhiệm vụ đó chỉ được diễn ra khi mà khoa học - công nghệ và lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao
Do thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật, sự bùng nổ thông tin và tự động hoá ở trình độ cao, xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất đã tạo điều kiện hình thành các công ty xuyên quốc gia và xu hướng sáp nhập các công ty nhỏ thành các công ty có quy mô khổng lồ để tăng khả năng cạnh tranh, nhằm độc chiếm vai trò chi phối thị trường quốc tế và khu vực đang ngày một tăng nhanh
3. Các bước phát triển của kinh tế thị trường 
a. Từ nền kinh tế tự nhiên chuyển sang nền kinh tế hàng hoá giản đơn
Mặc dù có những đặc điểm riêng, nhưng tất cả các phương thức sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa đều có nét chung là nền kinh tế tự nhiên. Trong nền kinh tế tự nhiên, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế. Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất hợp thành và mỗi đơn vị kinh tế ấy làm đủ việc để tạo ra những sản phẩm cuối cùng
Trong các nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, nông nghiệp là ngành sản xuất cơ bản, công cụ và kỹ thuật canh tác lạc hậu, dựa vào lao động chân tay là chủ yếu, chỉ có trong một số trang trại của địa chủ hoặc phường hội mới có hiệp tác lao động giản đơn. Trong nền kinh tế dưới chế độ phong kiến, phân công lao động kém phát triển, cơ cấu ngành đơn điệu, mới chỉ có một số ngành nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp, sản xuất chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng, có tính chất tự cung, tự cấp
Bước đi tất yếu của sản xuất tự cung, tự cấp là tiến lên sản xuất hàng giản đơn. điều kiện cho quá trình chuyển hoá này là sự phát triển của phân công xã hội. Phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá. Xu hướng phát triển của phân công xã hội là biến việc sản xuất không những từng sản phẩm riêng biệt, mà việc sản xuất từng bộ phận của sản phẩm, từng thao tác trong chế biến sản phẩm thành những ngành công nghiệp riêng biệt. Công nghiệp chế biến tách khỏi công nghiệp khai thác và mỗi ngành công nghiệp đó lại chia thành nhiều loại và phân loại nhỏ. Chúng sản xuất ra dưới hình thức hàng hoá - những sản phẩm riêng biệt và đem trao đổi với những sản phẩm của các ngành sản xuất khác. Chính sự phát triển ngày càng sâu rộng đó của phân công xã hội là nhân tố chủ yếu dẫn đến hình thành thị trường trong nước. Hình thành nên những khu vực nhà nước chuyên môn hoá và dẫn đến sự trao đổi không những giữa sản phẩm với sản phẩm công nghệ, mà cả giữa các sản phẩm nhà nước với nhau
Sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp, sự hình thành trung tâm công nghiệp, sức hút của chúng đối với dân cư ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nông thôn, thúc đẩy nông nghiệp hàng hoá phát triển
Những người sản xuất ở những vùng khác nhau có những điều kiện tự nhiên khác nhau, có khả năng và ưu thế trong sản xuất những sản phẩm khác nhau có hiệu quả hơn. ngay trong một vùng, một địa phương, những người sản xuất cũng có những khả năng, điều kiện và kinh nghiệm sản xuất khác nhau. Mỗi người sản xuất chỉ tập trung sản xuất sản phẩm nào mà mình có ưu thế, đem sản phẩm của mình trao đổi (mua và bán) lấy những sản phẩm cần thiết cho sản xuất và đời sống của mình. Họ trở thành những người sản xuất hàng hoá. Trao đổi, mua bán, thị trường, tiền tệ ra đời và phát triển 
Sản xuất hàng hoá ra đời, lúc đầu dưới hình thức sản xuất hàng hoá nhỏ, giản đơn, nhưng là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại
b. Từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển sang nền kinh tế tự do cổ điển
Quá trình chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế tự do cổ điển được thực hiện qua ba giai đoạn phát triển cả về lực lượng sản xuất, cả về quan hệ sản xuất mới thích ứng với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất 
Kỹ thuật thủ công dựa trên lao động hiệp tác giản đơn:
Hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công, với quy mô lớn hơn so với tổ chức sản xuất phường hội và sản xuất nhỏ cá thể. Trong giai đoạn hiệp tác giản đơn, công nhân phụ thuộc vào nhà tư bản về kinh tế nhưng vẫn còn độc lập về mặt kỹ thuật. Để tổ chức hiệp tác lao động, bước đầu tiên phải tập trung tư liệu sản xuất, trên cơ sở đó tập trung sức lao động.Tập trung hiệp tác lao động đòi hỏi phải có sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân, bảo đảm sự nhịp nhàng trong hoạt động sản xuất đạt đến mục đích chung. Với sản xuất quy mô lớn, trong hiệp tác giản đơn, phải mua cả đống nguyên liệu và buôn bán hàng hoá, do đó đã làm xuất hiện một mạng lưới mua gom nguyên liệu và bán lẻ hàng hoá, từ đó thúc đẩy việc sản xuất và trao đổi sâu rộng trong xã hội. Hiệp tác giản đơn đã bước đầu làm xuất hiện sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, nâng cao năng suất lao động xã hội lên rất nhiều. Việc hiệp tác giản đơn làm xuất hiện sản xuất lớn về mặt quy mô là một bước ngoặt rất quan trọng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
Phân công công trường thủ công Tư bản chủ nghĩa:
Sự phát triển của hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa tất yếu dẫn tới hiệp tác có phân công, làm xuất hiện các công trường thủ công tư bản chủ nghĩa. Công trường thủ công là hình thức xí nghiệp tư bản thực hiện sự hiệp tác có phân công dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công. Công trường thủ công hình thành bằng cách tập hợp những thợ thủ công khác nghề, hoặc những thợ thủ công cùng nghề vào trong một xưởng để cùng sản xuất ra một loại hàng hoá
Đặc điểm về tổ chức và kỹ thuật của công trường thủ công là: Quá trình sản xuất được phân chia thành những giai đoạn, những công việc bộ phận để có sản phẩm hoàn chỉnh, trên cơ sở đó mỗi công nhân chỉ chuyên làm một công việc bộ phận. Đặc điểm của sự phân công này là chuyên môn hoá hẹp.
Cơ sở kỹ thuật vẫn là thủ công với công cụ chuyên dùng, phân phối sản xuất theo kinh nghiệm cổ truyền nên chủ yếu dựa vào tay nghề khéo léo của công nhân. Cơ cấu tổ chức của công trường thủ công là những người lao động bộ phận, sử dụng công cụ chuyên dùng thích ứng, hợp thành lao động tập thể
Đại công nghiệp cơ khí:
Trên cơ sở kỹ thuật thủ công, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể được xác lập một cách hoàn chỉnh và phát triển vững chắc. Do đó, trong quá trình phát triển, chủ nghĩa tư bản tự tạo cho nó một cơ sở kỹ thuật tương ứng là máy móc, đưa chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đoạn đại công nghiệp cơ khí. Máy móc được sử dụng phổ biến trong xã hội thông qua cuộc cách mạng công nghiệp. Đó là cuộc các mạng kỹ thuật thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Công cuộc cơ khí hoá ở một ngành dẫn đến việc thúc đẩy quá trình cơ khí hoá ở một ngành có liên quan. Cơ khí hoá trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ở các ngành liên quan. Cơ khí hoá trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ngành giao thông vận tải cơ khí hoá bắt đầu từ ngành công nghiệp nhẹ đến các ngành công nghiệp nặng. Máy móc và đại công nghiệp có tác dụng chủ yếu làm năng suất lao động xã hội tăng vọt, xã hội hoá lao động và sản xuất ngày càng cao, mở rộng thị trường, thúc đẩy sự ra đời của các trung tâm công nghiệp và những thành thị lớn; đồng thời, tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật 
c. Từ nền kinh tế thị trường tự do chuyển sang nền kinh tế thị trường hỗn hợp
Xuất phát từ những khuyết tật của cơ chế thị trường:
Do chạy theo lợi nhuận cho nên các doanh nghiệp thường gây ô nhiễm môi trường, thường khai thác tài nguyên một cách bừa bãi dẫn tới làm mất cân bằng sinh thái mà doanh nghiệp không phải đền bù một khoản thiệt hại nào
Cơ chế thị trường dễ làm xuất hiện căn bệnh: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát và suy thoái
Cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo, dễ phát sinh những tiêu cực xã hội 
Kinh tế thị trường là một bước phát triển sau của kinh tế tự nhiên và khi kinh tế hàng hoá phát triển tới trình độ cao thì đó chính là kinh tế thị trường. Trong cơ chế thị trường thì do những khuyết tật của nó dẫn đến phá vỡ cân đối của nền kinh tế, gây lãng phí nhiều nguồn lực: tư liệu sản xuất, lao động, tạo ra sự phân hóa xã hội. Vì vậy nhà nước phải có vai trò nhất định để khắc phục những nhược điểm trên
Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kì tự do cạnh tranh thì kinh tế thị trường phát triển theo tư tưởng lý thuyết bàn tay vô hình thì nhà nước không can thiệp kinh tế. điều đó dẫn đến việc khủng hoảng kinh tế sau này (1929 - 1933). Vì vậy đã xuất hiện lý thuyết kinh tế của Keyes yêu cầu nhà nước phải can thiệp kinh tế và đến năm 1948 đã xuất hiện lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp trong đó có sự kết hợp của hai nhân tố: sự điều tiết của thị trường (Bàn tay vô hình) và sự can thiệp của chính phủ (Bàn tay hữu hình) và cả hai nhân tố này đều tác động vào nền kinh tế
Nhà nước có chức năng:
Định hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật 
Thiết lập về một khuôn khổ về pháp luật, xây dựng hệ thống cơ sở nhất quán tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho kinh tế phát triển 
Hạn chế và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường 
Trực tiếp đầu tư một số lĩnh vực của nền kinh tế: những ngành kinh tế công cộng, năng lượng, cầu nhiều vốn.
Quản lý và bảo vệ tài sản công, kiểm kê, kiểm soát hoạt động kinh tế - xã hội 
Phân phối hợp lý các nguồn lực sản xuất 
4. Các nhân tố của cơ chế thị trường 
Một nền kinh tế muốn vận hành được thì trước tiên phải dựa vào cơ chế thị trường có nghĩa là phải dựa vào bộ máy tự động của cả cung, cầu, giá cả hàng hoá, với môi trường cạnh tranh, động lực là lợi nhuận. Các bộ phận hợp thành cơ chế thị trường này có mối quan hệ mật thiết với nhau, như là những khâu trong guồng máy. Giá cả là cái nhân của thị trường, cung cầu là trung tâm và cạnh tranh là linh hồn là sức mạnh của thị trường 
a. Cung - cầu hàng hoá:
Cầu hàng hóa: là số lượng hàng hoá hay dịch vụ mà người mua có khả năng và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong cùng một thời gian
Cung hàng hoá: là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người bán có khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định
Như vậy để có cầu hàng hoá phải có ba điều kiện: mong muốn mua, có khả năng mua và mức giá
Để có cung hàng hoá cũng phải có ba điều kiện: mong muốn sản xuất, có khả năng sản xuất và mức giá
Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả của hàng hoá giảm. Và ngược lại khi cầu lớn hơn cung thì giá cả của hàng hóa sẽ tăng. Và đến khi cung về hàng hoá nào đó trên thị trường vừa đúng bằng cầu của hàng hoá thì lúc đó cung - cầu ở trạng thái cân bằng, xác định mức giá cả là giá cả cân bằng. Song vì cung và cầu luôn biến động nên cân bằng cung - cầu luôn biến động theo. Giá cả thị trường của hàng hoá là do tương quan của cung và cầu trên thị trường quyết định. Nhưng đồng thời khi giá cả biến động thì nó cũng tác động tới việc thu hẹp hay mở rộng quy mô sản xuất. 
Những tác động của cung - cầu đối với thị trường:
Quan hệ cung cầu góp phần đính chính giá cả thị trường và lập lại, khôi phục lại sự cân đối của nền kinh tế 
Quan hệ cung - cầu còn trực tiếp làm ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của người sản xuất và người tiêu dùng; người bán và người mua
b. Giá cả
Giá cả trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu về một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó, sự biến động của giá cả sẽ tác động đến người bán và người mua: Cụ thể khi cầu cao hơn cung thì người bán sẽ tăng giá, điều đó sẽ thúc đẩy cho người sản xuất mở rộng quy mô để làm tăng cung. Trong trường hợp ngược lại cung lớn hơn cầu thì người bán phải giảm giá xuống. Khi đó người sản xuất sẽ giảm quy mô để giảm cung và cuối cùng cân đối giữa quan hệ cung - cầu được tái lập để lập lại cân bằng mới
Chức năng của giá cả: 
Giá cả có chức năng thông tin (nghĩa là các tin tức về giá cả trên thị trường sẽ giúp cho các đơn vị kinh tế, các cá nhân người lao động đưa ra những quyết định về sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của mình
Giá cả có chức năng phân bố các nguồn lực: khi giá biến động tăng giảm thì các nguồn lực của sản xuất sẽ dịch chuyển giữa các ngành
Giá cả có chức năng thúc đẩy đổi mới những tiến bộ kỹ thuật công nghệ. Trong sản xuất, người ta luôn luôn tìm cách giảm bớt hao phí lao động xã hội cần thiết. Để từ đó dẫn tới giảm giá thành để thu được lợi nhuận siêu ngạch (là phần giá người sản xuất thu được nhiều hơn người sản xuất khác nhờ tiến bộ khoa học - kỹ thuật)
Giá cả có chức năng thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân cũng như thu nhập cá nhân thông qua chính sách giá cả
Giá cả có chức năng thực hiện việc lưu thông hàng hoá. Khi giá cả biến động thì sẽ tác động tới hành vi người tiêu dùng và qua đó tác động vào lưu thông hàng hoá làm thay đổi nhu cầu người tiêu dùng
c. Cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các xí nghiệp, các tổ chức kinh tế trong việc tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Cạnh tranh là một tất yếu của nền kinh tế thị trường 
Các chức năng của cạnh tranh:
Cạnh tranh có thể điều chỉnh một cách nhanh chóng các hành vi sản xuất tiêu dùng của xã hội 
Cạnh tranh thúc đẩy sự tiến bộ của kỹ thuật 
Cạnh tranh thoả mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng
Cạnh tranh tạo chính sách cho việc phân phối thu nhập ban đầu nghĩa là các doanh nghiệp nào thắng trong cạnh tranh thì sẽ thu được lợi nhuận hơn đối phương
Các loại cạnh tranh gồm có:
Cạnh tranh trong nước và cạnh tranh trên thị trường nước ngoài
Cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau theo ba hướng: giá cả, chất lượng hàng hoá và thực hiện các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng
Cạnh tranh giữa một bên là những người bán và một bên là những người mua
Cạnh tranh giữa những người mua với nhau. Trên thương trường không có chuyện "đơn phương độc mã" mà là "buôn có bạn, bán có phường"
Cạnh tranh kích thích tính năng động, tính tự chủ của các doanh nghiệp, vì thế nó làm cho kinh tế thị trường phát triển rất năng động (hoàn toàn khác với nền kinh tế tự nhiên, nền kinh tế trong thời kì bao cấp)
Cạnh tranh huy động được mọi nguồn lực của xã hội vào việc phát triển kinh tế 
Cạnh tranh thúc đẩy được cải tiến kỹ thuật và sử dụng công nghệ mới
Cạnh tranh hiệu quả là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo sự phân bổ tối ưu các nguồn lực và hệ quả mà nó mang lại là năng suất tối ưu.Cạnh tranh thúc đẩy các nguồn lực di chuyển tới nơi nào có hiệu quả nhất bởi người sản xuất muốn sử dụng chúng để đem lại lợi nhuận càng nhiều, càng tốt
d. Tiền tệ
Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho các loại hàng hóa khác. Nó biểu hiện chung của giá trị, nó biểu hiện tính chất xã hội của lao động và là quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá
Chức năng của tiền tệ:
Là thước đo giá trị (đây là chức năng cơ bản của tiền tệ): tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hoá, mọi hàng hoá đều được biểu hiện giá trị của nó bằng tiền. Tiền tệ được coi như là sản phẩm của lao động
Là phương tiện lưu thông: tiền là vật môi giới trong quan hệ lưu thông hàng hoá
Là phương tịên cất giữ giá trị: tiền được rút khỏi lĩnh vực lưu thông và mang vào cất trữ. Khi cần lại đem mua hàng và tiền được xem như một thứ của cải của xã hội 
Là phương tiện thanh toán: tiền được dùng để chi trả sau khi một công việc đã hoàn thành hoặc dùng để trả nợ
Chức năng tiền tệ thế giới: trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia với nhau và tiền lúc này phải là vàng, bạc, ngoại tệ mạnh.
e. Lợi nhuận
Trong kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất các hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ qua các khu vực có ít người tiêu dùng. Lợi nhuận cũng đưa các nhà doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất hiệu quả nhất. Như vậy, hệ thống thị trường luôn phải dùng lãi và lỗ để quyết định ba vấn để: sản xuất cái gì?, sản xuất như thế nào?, sản xuất cho ai?
Lợi nhuận chính là mục tiêu kinh tế cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. để cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho thị trường, các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong muốn chi phí cho các đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường 
Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình kinh doanh kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị và tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, đến khâu tổ chức bán hàng và dịch vụ cho thị trường. Nó phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh
Lợi nhuận là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí
Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh
5. Các quy luật của kinh tế thị trường 
a. Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật chi phối cơ chế thị trường và chi phối các quy luật kinh tế khác, các quy luật kinh tế khác là biểu hiện yêu cầu của quy luật giá trị mà thôi
Quy luật giá trị quyết định giá cả hàng hoá, dịch vụ, mà giá cả là tín hiệu nhạy bén nhất của cơ chế thị trường 
Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở của việc hao phí lao động xã hội cần thiết: 	Trong sản xuất nó đòi hỏi người sản xuất luôn luôn có ý thức tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết
Trong lĩnh vực sản xuất :Đối với việc sản xuất một thứ hàng hóa riêng biệt thì yêu cầu của quy luật giá trị được biểu hiện ở chỗ: hàng hoá của người sản xuất muốn bán được trên thị trường, muốn được xã hội thừa nhận thì lượng giá trị của một hàng hoá cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết. Đối với một loại hàng hoá thì yêu cầu quy luật giá trị thể hiện là tổng giá trị của hàng hóa phải phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội 
Trong lĩnh vực trao đổi : Việc trao đổi phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá. Quy luật giá trị biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua sự vận động của giá cả xung quanh giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá trị, giá trị là cơ sở của giá cả, những hàng hoá có hao phí lao động lớn thì giá trị của nó lớn dẫn đến giá cả cao và ngược lại. Đối với mỗi hàng hoá thì giá cả hàng hoá có thể bằng hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá trị nhưng đối với toàn bộ hàng hóa của xã hội thì chúng ta luôn luôn có tổng giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị
Tác dụng của quy luật giá trị: quy luật giá trị tự phát điều tiết việc sản xuất và lưu thông hàng hóa thông qua sự biến động của cung - cầu thể hiện qua giá cả trên thị trường
b. Quy luật cung cầu 
Cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hoá được sản xuất và đưa ra thị trường để thực hiện (để bán). cung do sản xuất quyết định, nó không đồng nhất với sản xuất 
Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của xã hội. Do đó, cầu không đồng nhất với tiêu dùng, vì nó không phải là nhu cầu tự nhiên, nhu cầu bất kì theo nguyện vọng tiêu dùng chủ quan của con người, mà phụ thuộc vào khả năng thanh toán
Cung - Cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau trên thị trường, ở đâu có thị trường thì ở đó có quy luật cung - cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan. Cung - cầu tác động lẫn nhau:
Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu. Cầu xác định khối lượng, chất lượng và chủng loại cung về hàng hoá. những hàng hoá nào được tiêu thụ thì mới được tái sản xuất. Ngược lại, cung tạo ra cầu, kích thích tăng cầu thông qua phát triển số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá, hình thức, quy cách và giá cả của nó
Cung - cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau
Quy luật cung - cầu tác động khách quan và rất quan trọng. Nếu nhận thức được chúng thì chúng ta vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh theo chiều hướng có lợi cho quá trình tái sản xuất xã hội. Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như: giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng. Để tác động vào các hoạt động kinh tế theo quy luật cung - cầu, duy trì những tỷ lệ cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và hợp lý
c. Quy luật canh tranh
Cạnh tranh là sự tác động lẫn nhau giữa các nhóm người, giữa người mua và người bán hay giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Hai nhóm này tác động lẫn nhau với tư cách là một thể thống nhất, một hợp lực. ở đây cá nhân chỉ tác động với tư cách là một bộ phận, một lực lượng xã hội, là một nguyên tử của một khối. Chính dưới hình thái đó mà cạnh tranh đã vạch rõ cái tính chất xã hội của sản xuất và tiêu dùng
Bên canh tranh yếu hơn cả cũng đồng thời là cái bên mà ở đó mỗi cá nhân đều hoạt động một cách độc lập với đông đảo những người cạnh tranh với mình và thường thường là trực tiếp chống lại những người đó. Chính vì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa một người cạnh tranh cá biệt với những người khác lại càng thêm rõ ràng. Trái lại bên mạnh hơn bao giờ cũng đương đầu với đối phương với tư cách là một chỉnh thể ít nhiều thống nhất
Người mua làm cho giá thị trường càng thấp, càng tốt. Mỗi người chỉ quan tâm đến đồng nghiệp trong chừng mực thấy đi với họ có lợi hơn việc chống lại họ
Khi một bên yếu hơn bên kia thì hành động chung sẽ chấm dứt, mỗi người sẽ tự lực xoay sở lấy. Nếu một bên chiếm ưu thế thì mỗi người bên đó đều sẽ được lợi, tất cả diễn ra như là họ cùng nhau thực hiện độc quyền chung vậy
Cạnh tranh như một tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh có tác dụng san bằng các giá cả mấp mô để có giá cả trung bình, giá trị thị trường và giá cả sản xuất đều hình thành từ cạnh tranh trong nội bộ ngành và giữa các ngành
Tóm lại: Trong cơ chế thị trường, quy luật cạnh tranh như một công cụ, phương tiện gây áp lực cực mạnh thực hiện yêu cầu của quy luật giá trị, cạnh tranh trong một cơ chế vận động chứ không phải cạnh tranh nói chung
d. Quy luật lưu thông tiền tệ 
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật xác định lượng tiền cần cho lưu thông. Lượng tiền cần cho lưu thông chính bằng tỷ số giữa tổng giá cả hàng hoá với tốc độ lưu thông tư bản 
Trong thực tế: lượng tiền cần cho lưu thông bằng tỷ số giữa tổng giá cả hàng hóa trừ đi tổng tiền khấu trừ, trừ đi tổng giá cả bán chịu cộng với tổng tiền thanh toán với tốc độ lưu thông tư bản
Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau: 
Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hoá quyết định
Tiền đại diện cho người mua, hàng đại diện cho người bán. Lưu thông tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với tiền - hàng, mua - bán, giá cả - tiền tệ
Kinh tế hàng hoá trên một ý nghĩa nhất định có thể gọi là kinh tế tiền tệ, quyết định cơ chế lưu thông tiền tệ
Mặt khác cơ chế lưu thông tiền tệ còn phụ thuộc vào cơ chế xuất nhập khẩu, cơ chế quản lý kim loại quý, cơ chế kinh doanh tiền của ngân hàng
Nếu quy luật canh tranh, quy luật cung - cầu làm giá hàng hoá vận động, san bằng thì quy luật lưu thông tiền tệ giữa mối liên hệ cân bằng giữa hàng và tiền
Ngoài ra còn một số loại quy luật khác như: quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm, quy luật khủng hoảng kinh tế , quy luật tâm lý cũng ảnh hưởng đến cơ chế thị trường 
II/ sự vận dụngvào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
1. Sự cần thiết khách quan chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
a. Cơ chế cũ và những hạn chế:
Trước hết cần nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của cơ chế kế hoạch hoá tập trung - cơ chế quản lý kinh tế đã tồn tại ở nước ta trước đổi mới và hậu quả của nó
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp có những đặc trưng chủ yếu sau đây: 
Nhà nước quản lý kinh tế bằng vận mệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do trung ưng giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm
Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình
Bỏ qua quan hệ hàng hoá tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn
Từ những đặc điểm trên đã dẫn đến bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền
Và đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế hiện vật là nền kinh tế bị hiện vật hoá, tư duy hiện vật, chỉ có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là phổ biến, nền kinh tế khép kín với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ. Trên thực tế, yếu tố kế hoạch hoá tập trung đã loại bỏ yếu tố thị trường, quan hệ hàng hoá tiền tệ chỉ còn là hình thức. Sự điều tiết theo chiều dọc đã lấn át các quan hệ kinh tế theo chiều ngang. Vai trò người tiêu dùng bị hạ thấp. Hệ thống quản lý quan liêu tỏ ra không có khả năng gắn sản xuất với nhu cầu
Kinh tế hiện vật gắn liền với quan niệm truyền thống về kinh tế xã hội chủ nghĩa tuy đã có tác dụng trong chiến tranh, góp phần mang lại chiến thắng vẻ vang cho dân tộc ta. Song khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật: nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất kinh doanh, sản xuất không gắn liền với nhu cầu, ý chí chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế, đã làm cho nền kinh tế suy thoái, thiếu hụt, hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không được thực hiện
Trong thực tiễn kinh tế hiện vật với cơ chế quản lý tập trung quan liêu đã bộc lộ nhiều tiêu cực: sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân sa sút, trong quản lý đã tỏ rõ sự bất lực. Trong nhà nước khoán chui trở thành phổ biến ở nhiều địa phương. Trong công, thương nghiệp các nhà máy, xí nghiệp không thể bằng lòng với cơ chế "Cấp phát giao nộp" đã tự động "xé rào" do thiếu vật tư nguyên liệu, vốn liếng, do sự bất lực của công cụ kế hoạch hoá kiểu cũ. Sự phát triển của thị trường tự do chen lấn thị trường có tổ chức. Sự lẳng lặng vi phạm các quy tắc, chuẩn mực lúc bấy giờ, là những phản ứng kinh tế - xã hội phản ánh sự bất lực và bất cập của một cơ chế quản lý cứng nhắc
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nẩy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã được Đại Hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại Hội VII của Đảng khẳng định "Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước "
b. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Và đến Đại hội VIII của Đảng đã thống nhất "Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lýcủa Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa"; ".phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ". Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta lấy việc giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu. Trong nền kinh tế thị trường nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình đẳng
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta, kinh tế Nhà nước là nhân tố quy định và bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Kinh tế Nhà nước tạo cơ sở kinh tế cho xã hội mới, nó là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Xây dựng hệ thống kinh tế Nhà nước mạnh chính là tăng cường thực lực kinh tế của Nhà nước để làm chỗ dựa, bảo đảm ổn định kinh tế và định hướng cho thị trường xã hội chủ nghĩa. Buông lỏng khu vực kinh tế Nhà nước là buông lỏng định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường 
Kinh tế Nhà nước là nơi thực hiện đầy đủ nhất tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tất cả phục vụ con người trên tầm vĩ mô. Nhà nước vừa là đại biểu cho toàn bộ nền kinh tế, vừa là chủ thể của kinh tế Nhà nước. Do đó Nhà nước phải vừa tôn trọng tính bình đẳng của các chủ thể kinh tế, vừa phải có ý thức đầy đủ tới sự phát triển kinh tế Nhà nước để nó thực sự có vai trò chủ đạo. Để giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước phải nắm những khâu, những lĩnh vực then chốt của nền Kinh tế quốc dân. Kinh tế Nhà nước phải là kiểu mẫu về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật để lôi cuốn các thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Kinh tế Nhà nước phải có giá trị tổng sản lượng hàng hoá ngày càng tăng, đóng góp tỷ lệ cao trong ngân sách Nhà nước, không ngừng nâng cao trình độ và đời sống của mọi người lao động
2. Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta
a. Trước năm 1886:
Thời kì 1955 - 1964: Đây là thời kì khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa. ở thời kì này sự phát triển kinh tế được thiết kế trên cơ sở xác định ba đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Từ nền sản xuất nhỏ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có hệ thống xã hội chủ nghĩa vững mạnh, đất nước bị chia cắt. Đây là thời kì phát triển nhanh về các lĩnh kinh tế - xã hội, cơ sở vật chất trong nông nghiệp, công nghiệp, cơ sở hạ tầng được xây dựng. Tốc độ phát triển kinh tế cao, giáo dục, y tế phát triển khá nhanh, xã hội miền Bắc trở thành xã hội do người lao động làm chủ, đời sống tinh thần lành mạnh. chính nhờ những điểm này mà miền Bắc trở thành hậu phương lớn, căn cứ địa vững chắc để nhân dân cả nước có thể đánh thắng đế quốc Mỹ
Thời kì 1964 -1975: Đây là thời kì cả nước có chiến tranh. Nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế, tăng cường quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới. Kinh tế ở thời kì này có những đặc điểm nhất định của mô hình kinh tế " Cộng sản thời chiến". Mô hình kinh tế này là mô hình có tính tập trung cao nên đã động viên được lực lượng để dành thắng lợi trong cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt bằng sự chỉ đạo tập trung nghiêm ngặt, bằng chế độ phân phối bình quân, bao cấp. Tuy nhiên Đảng và Nhà nước ta đã dần thấy được những nhược điểm của mô hình kinh tế đó và bắt đầu có chủ trương cải tiến một phần cơ chế quản lý kinh tế 
Thời kì 1976 - 1986: Đây là thời kì cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước chịu đựng những đảo lộn kinh tế - xã hội với quy mô lớn sau chiến tranh ác liệt lâu dài, với những diễn biến trong tình hình có những mặt không thuận lợi. Đây là thời kì mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp bọc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà hậu quả của tập trung là khủng hoảng kinh tế - chính trị sâu sắc vào cuối những năm 70 đầu những năm 1980. nền kinh tế ở trạng thái trì trệ, mất cân đối nghiêm trọng, sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa đảm bảo được tiêu dùng xã hội, một phần tiêu dùng xã hội phải dựa vào vay và viện trợ, nền kinh tế chưa tạo được tích luỹ. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Tình hình cung ứng vật tư, tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng. Nhiều xí nghiệp sử dụng công suất ở mức thấp. Chênh lệch giữa thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Thị trường và vật giá không ổn định. Số người lao động chưa được sử dụng còn đông. Đời sống nhân dân lao động gặp nhiều khó khăn
Trước tình hình đó của đất nước Đảng ta đã phải suy nghĩ, phân tích tình hình và nguyên nhân, tìm tòi các giải pháp, từ đó thực hiện đổi mới ở các cơ sở, địa phương, đề ra những chính sách cụ thể, có tính chất đổi mới từng phần
b. Từ năm 1986 đến nay: 
Đại hội lần thứ VI của Đảng được đánh dấu như một cái mốc quan trọng trong sự chuyển đổi cơ chế. Trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những hậu quả của nó, nhất quán chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cũng từ đó tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển sang kinh tế thị trường. Tổng kết hai năm thực hiện Đ

File đính kèm:

  • doctieu_luan_tinh_quy_luat_hinh_thanh_kinh_te_thi_truong_su_van.doc