Tiểu luận Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại Ngân hàng TMCP Đại Á

pdf 37 trang yenvu 22/06/2024 720
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại Ngân hàng TMCP Đại Á", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại Ngân hàng TMCP Đại Á

Tiểu luận Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại Ngân hàng TMCP Đại Á
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 1 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH 

TIỂU LUẬN MÔN HỌC: QUẢN TRỊ HỌC 
ĐỀ TÀI: 
TỔ CHỨC LAO ĐỘNG KHOA HỌC 
VÀ ỨNG DỤNG TẠI NGÂN HÀNG 
TMCP ĐẠI Á 
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 7 
 LỚP ĐÊM 10 – K20 
 GVHD: TS. HOÀNG LÂM TỊNH 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 2 
Mục lục:
Lời mở đầu ................................................................................................................................. 4 
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TỔ CHỨC LAO ĐỘNG KHOA HỌC ................ 5 
I. Khái niệm về tổ chức lao động khoa học ....................................................................... 5 
1. Khái niệm về lao động và tổ chức lao động .............................................................. 5 
2. Khái niệm về tổ chức lao động khoa học .................................................................. 6 
3. Phân biệt tổ chức lao động và tổ chức lao động khoa học ........................................ 7 
II. Nhiệm vụ, nội dung, nguyên tắc và ý nghĩa của tổ chức lao động khoa học .............. 7 
1. Nhiệm vụ của tổ chức lao động khoa học.................................................................. 7 
2. Nội dung công tác tổ chức lao động khoa học 2.1. Xây dựng các hình thức phân 
công và hiệp tác lao động hợp lý ................................................................................. 9 
2.1.1. Phân công lao động ....................................................................................... 9 
2.1.2. Hiệp tác lao động ......................................................................................... 11 
2.2. Hoàn thiện tổ chức phục vụ nơi làm việc .......................................................... 12 
2.2.1. Tổ chức nơi làm việc .................................................................................... 13 
2.2.2. Tổ chức phục vụ nơi làm việc ....................................................................... 14 
2.3. Nghiên cứu và phổ biến các phương pháp, thao tác lao động hợp lý nhằm đạt 
năng suất lao động cao bảo đảm an toàn lao động cho người lao động ................... 15 
2.4. Cải thiện điều kiện lao động giảm nhẹ sự nặng nhọc của công việc, giữ gìn tăng 
cường sức khoẻ cho người lao động, tạo ra những điều kiện lao động thuận lợi .... 15 
2.5. Hoàn thiện định mức lao động .......................................................................... 17 
2.6. Tổ chức trả lương phù hợp với số lượng và chất lượng lao động cũng như sử 
dụng có hiệu quả chế độ khuyến khích vật chất cho người lao động ....................... 18 
2.7. Đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề cho người lao động ........................... 18 
2.8. Tổ chức công tác thi đua, khen thưởng và củng cố kỷ luật lao động ................. 18 
2.8.1. Tổ chức thi đua, khen thưởng ....................................................................... 18 
2.8.2. Các biện pháp tăng cường kỷ luật lao động .................................................. 20 
3. Nguyên tắc, ý nghĩa của tổ chức lao động khoa học ............................................... 21 
3.1. Nguyên tắc ......................................................................................................... 21 
3.1.1.Tính khoa học ............................................................................................... 21 
3.1.2. Tính kế hoạch ............................................................................................... 22 
3.1.3. Tính hệ thống ............................................................................................... 22 
3.1.4. Tính kích thích vật chất, tinh thần ................................................................ 23 
3.2. Ý nghĩa ............................................................................................................... 23 
III. Một số hướng nghiên cứu của tổ chức lao động khoa học hiện đại trên thế giới .... 24 
1. Tối ưu hoá động tác của người lao động ................................................................. 24 
2. Kích thích lao động .................................................................................................. 25 
3. Sự phân công và hợp tác trong lao động ................................................................. 25 
CHƯƠNG II: ỨNG DỤNG TỔ CHỨC LAO ĐỘNG KHOA HỌC TẠI NGÂN HÀNG 
TMCP ĐẠI Á ...................................................................................................................... 27 
I. Giới thiệu Ngân hàng TMCP Đại Á ............................................................................ 27 
1. Sự hình thành và phát triển .................................................................................... 27 
2. Cơ cấu tổ chức ......................................................................................................... 27 
3. Đặc điểm lao động ngành ngân hàng ...................................................................... 28 
II. Thực hiện tổ chức lao động khoa học tại DAB .......................................................... 29 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 3 
1. Sự phân công và hiệp tác lao động .......................................................................... 29 
2. Tổ chức phục vụ nơi làm việc .................................................................................. 30 
3. Cơ chế lương thưởng phù hợp, công bằng và công khai minh bạch...................... 30 
3.1. Nguyên tắc sử dụng quỹ tiền lương của DAB ...................................................... 30 
3.2. Cách thức trả lương ............................................................................................ 30 
3.3. Tăng lương và điều chỉnh lương căn bản ............................................................ 33 
4. Quan tâm đến đời sống nhân viên ........................................................................... 33 
5. Thường xuyên tổ chức các lớp học về kỹ năng nghiệp vụ và kỹ năng mềm nhằm 
nâng cao trình độ cho nhân viên ................................................................................. 34 
6. Công tác thi đua khen thưởng ................................................................................. 34 
7. Thực hiện việc định mức lao động .......................................................................... 34 
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN ............................................................................................ 35 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 36 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 4 
Lời mở đầu 
Cùng với tiến trình hội nhập và phát triển, các Doanh nghiệp Việt Nam đang phải nỗ 
lực để cạnh tranh với các Doanh nghiệp, tập đoàn lớn nước ngoài. Được cho là có lợi thế 
về nguồn nguyên vật liệu và nguồn lực lao động, vấn đề các Doanh nghiệp Việt Nam 
đang quan tâm là làm thế nào để đưa được các lợi thế đó thành lợi thế cạnh tranh của 
Doanh nghiệp trong quá trình hoạt động một cách hiệu quả. Đây cũng là đề tài mà nhiều 
Doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng đang quan tâm bởi họ đang phải cạnh 
tranh trong môi trường rất khắc nghiệt. 
Các nhà quản trị học đều cho rằng, muốn nâng cao năng suất lao động thì điều quan 
trọng là phải tạo động lực thúc đẩy nhân viên làm việc, phải làm cho họ muốn lao động 
chứ không phải bị ép buộc lao động. Trang tin điện tử www.skills.vietnamlearning.vn đã 
nghiên cứu và đưa ra kết luận cho rằng trong các yếu tố làm thay đổi lực lượng lao động ở 
doanh nghiệp thì yếu tố các quyền lợi về tài chính chỉ chiếm 30%, 70% còn lại là các yếu 
tố về chất lượng công việc và các hỗ trợ tại nơi làm việc cụ thể như việc bố trí sắp xếp 
công việc hợp lý, quan hệ tại nơi làm việc Nghĩa là, vấn đề làm cho năng suất lao động 
của nhân viên tăng hay giảm, không phải phụ thuộc vào chế độ lương, thưởng, mà quan 
trọng hơn là tổ chức lao động khoa học trong môi trường làm việc. 
Trong lĩnh vực Ngân hàng-tài chính ở Việt Nam hiện nay thì Ngân hàng TMCP Đại Á 
(Viết tắt DAB) được coi là một ngân hàng “em út” so với các ngân hàng “đàn anh, đàn 
chị” khác như Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank), Ngân hàng 
Đầu tư và phát triển (BIDV), hay Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank). Để có thể 
cạnh tranh với các ngân hàng lớn khác trong nước cũng như nước ngoài, ngoài việc nỗ lực 
đưa ra các sản phẩm phù hợp, nâng cao trình độ công nghệ thì công tác tổ chức lao 
động khoa học nhằm nâng cao năng lực sản xuất của người lao động ở DAB đã góp phần 
quan trọng trong việc giúp DAB đứng vững trên thị trường tài chính- ngân hàng. 
Do đó chúng tôi lựa chọn đề tài “Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại Ngân 
hàng TMCP Đại Á” làm đề tài thảo luận của nhóm. 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 5 
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TỔ CHỨC LAO ĐỘNG 
KHOA HỌC 
I. Khái niệm về tổ chức lao động khoa học 
1. Khái niệm về lao động và tổ chức lao động 
Lao động là một hành động diễn ra giữa người với tự nhiên, trong khi lao động con 
người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể mình, sử dụng công cụ lao động để tác 
động vào giới tự nhiên (tư liệu lao động) làm biến đổi vật chất trong tự nhiên làm cho 
chúng trở thành có ích trong đời sống con người, là phương thức giúp con người tồn tại, 
nó cung cấp mọi nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống. Thông qua lao động, con người được 
phát triển mọi mặt tư duy, nhận thức, kỹ năng sống, ngôn ngữ. Như vậy lao động là hoạt 
động sống còn đối với sự tồn vong và phát triển của xã hội loài người. Nó diễn ra theo 
một quá trình và nhằm hoàn thành một nhiệm vụ sản xuất nhất định. 
Quá trình lao động là tổng thể những hành động (hoạt động lao động) của con người để 
hoàn thành một nhiệm vụ sản xuất nhất định.Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử 
dụng sức lao động. Sức lao động là năng lực, là toàn bộ thể lực, trí lực của con người. Sức 
lao động là yếu tố tích cực nhất, quan trọng trong quá trình lao động, nó phát động và đưa 
ra các tư liệu lao động, các hoạt động để tạo sản phẩm. Sức lao động của con người trong 
sản xuất kinh doanh được coi như một yếu tố chi phí sẽ đưa vào giá thành sản phẩm thông 
qua tiền lãi, tiền thưởng, quyền lợi vật chất khác, đồng thời cũng là một yếu tố đem lại lợi 
ích kinh tế, nếu quản lý tốt sẽ đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. 
Dù cho quá trình lao động được diễn ra dưới những điều kiện kinh tế - xã hội như thế 
nào thì cũng phải tổ chức sự tác động giữa các yếu tố cơ bản của quá trình lao động và 
các mối quan hệ qua lại giữa những người lao động với nhau vào việc thực hiện mục đích 
của quá trình đó, tức là phải tổ chức lao động. 
Do đó, tổ chức lao động được hiểu là một hệ thống các biện pháp đề ra nhằm đảm bảo 
cho mọi hoạt động của con người đạt năng suất lao động cao và sử dụng đầy đủ, có hiệu 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 6 
quả nhất về tư liệu sản xuất. Như vậy tổ chức lao động mục đích của nó là tạo ra các điều 
kiện lao động tốt nhất, đảm bảo và nâng cao khả năng lao động của con người và tạo cho 
họ hứng thú , say mê trong lao động. 
2. Khái niệm về tổ chức lao động khoa học 
 Nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người hầu như là vô hạn. Trong khi đó, lực 
lượng sản xuất, tức là sức lao động và tư liệu lao động, lại là yếu tố có hạn trong từng thời 
kỳ. Vì vậy, con người phải tìm ra cách sử dụng hiệu quả nhất những nguồn tài nguyên hạn 
chế này. Đây chính là điều kiện để ra đời một ngành khoa học mới – khoa học về tổ chức 
lao động. 
Theo quan niệm của các nước phương Tây, tổ chức lao động khoa học là những nguyên 
tắc khoa học được thiết lập dựa trên hiểu biết về mối quan hệ tương tác giữa người lao 
động và các yếu tố còn lại trong một hệ thống sản xuất vật chất nhất định; là sự áp dụng 
các lý thuyết, cơ sở dữ liệu nhằm làm tối ưu hoá hoạt động của hệ thống nói chung và sự 
tiện nghi cho con người nói riêng. 
Còn theo định nghĩa của các nhà khoa học Liên Xô: “Tổ chức lao động khoa học là toàn 
bộ những biện pháp hoàn thiện không ngừng được được áp dụng trong việc tổ chức lao 
động trên cơ sở những thành tựu khoa học và kinh nghiệm tiên tiến. Những biện pháp 
hoàn thiện này tạo khả năng kết hợp một cách tốt nhất kỹ thuật và con người trong một 
quá trình sản xuất thống nhất, tạo khả năng tăng năng suất lao động, làm cho lao động có 
nội dung phong phú, góp phần bảo vệ sức khoẻ của con người, và dần dần biến lao động 
thành nhu cầu thiết thân hàng đầu của con người”. 
Khoa học tổ chức lao động lần đầu tiên được nghiên cứu một cách nghiêm túc vào thế kỷ 
19 bởi Frederick Winslow Taylor, cha đẻ của khoa học về động tác trong lao động. Xuất 
thân là kỹ sư cơ khí làm việc trong nhà máy thép Midvale, nhờ tư duy và đầu óc quan sát, 
Taylor đã tổng kết được các động tác cơ bản nhất của người công nhân, xây dựng quy 
trình làm việc tối ưu về mặt thời gian. Ông còn nghiên cứu và đưa ra những lý thuyết đầu 
tiên về khoa học quản lý. 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 7 
Ảnh hưởng của thuyết Taylor thật to lớn, nó làm thay đổi hẳn hiệu quả của nền công 
nghiệp nước Mỹ trong thời gian sau đó. Henry Ford dã ứng dụng thuyết quản lý sản xuất 
và dây chuyền của Taylor vào nhà máy Ford của mình. Kết quả là Ford Motors đã trở 
thành tập đoàn sản xuất ôtô lớn nhất trên thế giới hồi đầu thế kỷ 20. 
Sau Taylor, nhiều nhà khoa học trên thế giới cũng đã tham gia nghiên cứu các khía cạnh 
khác nhau của TCLĐKH, điển hình là Henry Fayol (1841 – 1925), Folet (1868 – 1933), 
Simon (1916 – 2001)... các công trình của họ làm phát triển môn khoa học này, mở rộng 
lĩnh vực nghiên cứu cả về mặt tổ chức, nhiều trong số đó còn được ứng dụng vô cùng 
hiệu quả tới ngày nay. 
3. Phân biệt tổ chức lao động và tổ chức lao động khoa học 
Tổ chức lao động khoa học và Tổ chức lao động giống nhau ở chỗ nó đều là sự tổ chức 
quá trình hoạt động của con người tác động lên đối tượng lao động. 
Nó khác nhau ở phương pháp, cách giải quyết và mức độ phân tích khoa học các vấn đề, 
Tổ chức lao động khoa học chính là quá trình đưa vào Tổ chức lao động những thành tựu 
đạt được của khoa học và những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến để làm tăng hiệu suất 
chung của lao động. Tổ chức lao động khoa học chính là Tổ chức lao động ở trình độ cao 
hơn tổ chức lao động hiện hành. Tổ chức lao động khoa học cần phải được áp dụng ở mọi 
nơi có hoạt động lao động của con người như quá rình lao động sản xuất, lĩnh vực lãnh 
đạo và quản lý sản xuất, trong thiết kế, vận chuyển, sửa chữa,  
II. Nhiệm vụ, nội dung, nguyên tắc và ý nghĩa của tổ chức lao động khoa học 
1. Nhiệm vụ của tổ chức lao động khoa học 
Trong điều kiện xã hội phát triển, tổ chức lao động khoa học thực hiện 3 nhóm nhiệm 
vụ: Kinh tế - Tâm sinh lý - Xã hội. 
- Kinh tế: Phải kết hợp một cách tốt nhất kỹ thuật và con người trong quá trình sản xuất 
để ứng dụng có hiệu quả nhất những tiềm năng lao động và vật chất với mục đích không 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 8 
ngừng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng lao động, giảm giá thành sản phẩm. 
- Tâm sinh lý: Tạo điều kiện lao động bình thường, nâng cao sức hấp dẫn và nội dung 
phong phú của lao động với mục đích đem lại khả năng lao động cao của con người và 
giữ gìn sức khoẻ của họ. 
- Xã hội: Tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, biến lao động thành nhu cầu 
sống đầu tiên trên cơ sở dung hoà giáo dục chính trị với giáo dục lao động. 
Nhiệm vụ tổng quan của công tác tổ chức lao động khoa học là phân bổ, sử dụng và bồi 
dưỡng tốt sức lao động làm tăng năng suất lao động, tiết kiệm sức lao động. 
Với nhiệm vụ đó việc tổ chức lao động phải bố trí lao động cho các ngành, các bộ phận 
sản xuất trong nội bộ cơ sở, doanh nghiệp đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng để hoàn 
thành kế hoạch sản xuất công tác. 
Nền sản xuất xã hội ngày càng mở rộng, nhiệm vụ sản xuất ngày càng tăng, quy mô cơ 
sở hợp lý với kỹ thuật ngày càng tinh xảo đòi hỏi việc cung cấp lực lượng lao động phải 
đáp ứng với nhiệm vụ sản xuất và yêu cầu của tiến bộ khoa học công nghệ, phục vụ kịp 
thời cho sản xuất phát triển. 
Như vậy, từ ba nhóm nhiệm vụ trên có thể đưa ra một số nhiệm vụ cụ thể như sau để sử 
dụng sức lao động ở các đơn vị, doanh nghiệp có hiệu quả cao: 
- Xác định nội dung vấn đề tổ chức lao động khoa học, ý nghĩa và mối quan hệ của nó 
với các môn khoa học khác. 
- Tổ chức giải quyết đảm bảo đầy đủ việc làm cho người lao động để người lao động 
luôn gắn bó với doanh nghiệp. 
- Nghiên cứu thực hiện các biện pháp tổ chức nơi làm việc bảo đảm an toàn lao động, 
tạo điều kiện thuận lợi nhất về vệ sinh tâm lý và thẩm mỹ cho người lao động. 
- Chọn hình thức tổ chức các tổ, nhóm, đội, dây chuyền hợp lý về số lượng và chất lượng 
bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ tránh lao động sản xuất, cơ sở phân bổ khối lượng công 
việc cho những người lao động cụ thể, chính xác. 
- Áp dụng các thao tác lao động có năng suất cao bằng cách nghiên cứu, chọn lọc, cải 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 9 
tiến, áp dụng các kinh nghiệm sản xuất của những người đi trước, loại trừ các động tác, 
thao tác thừa, nặng nhọc không cần thiết. 
- Xây dựng chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý. 
- Áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu suất lao động và giảm mệt nhọc 
cho người lao động. 
- Quan tâm đúng mức tới công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ, chính trị, văn hoá, kỹ 
thuật cho người lao động đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển sản xuất. Công 
tác bồi dưỡng cán bộ, nâng cao trình độ về mọi mặt cho người lao động trước hết là trình 
độ nghề nghiệp phải phát triển phù hợp với nhịp độ phát triển chung của sản xuất đáp ứng 
yêu cầu trước mắt và lâu dài, chú trọng nâng cao tay nghề cho người lao động bằng hình 
thức kết hợp kèm cặp ngay tại doanh nghiệp, tại cơ sở sản xuất. Tổ chức tiến hành đào tạo 
lại trình độ lao động cho từng lao động. 
- Thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua để củng cố và tăng cường kỹ thuật lao 
động, học hỏi trao đổi lẫn nhau, để thúc đẩy sản xuất phát triển đạt hiệu quả kinh tế cao. 
2. Nội dung công tác tổ chức lao động khoa học 
2.1. Xây dựng các hình thức phân công và hiệp tác lao động hợp lý 
Phân công và hiệp tác lao động là nội dung cơ bản nhất của tổ chức lao động. Do phân 
công lao động mà tất cả các cơ cấu về lao động trong doanh nghiệp được hình thành, tạo 
nên một bộ máy với tất cả các bộ phận, chức năng cần thiết, với những tỉ lệ tương ứng 
theo yêu cầu của sản xuất. Hiệp tác lao động là sự vận hành của cơ cấu ấy trong không 
gian và thời gian. Hai nội dung này liên hệ với nhau một cách mật thiết và tác động qua 
lại lẫn nhau, củng cố và thúc đẩy nhau một cách biện chứng. Phân công lao động càng sâu 
thì hiệp tác lao động càng rộng. 
2.1.1. Phân công lao động 
Phân công lao động trong doanh nghiệp là sự chia nhỏ toàn bộ các công việc của doanh 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 10 
nghiệp để giao cho từng người hoặc nhóm người lao động thực hiện. Đó chính là quá 
trình gắn từng người lao động với những nhiệm vụ phù hợp với khả năng của họ. Theo 
C.Mác thì phân công lao động: “là sự tách rẽ các hoạt động lao động hoặc là lao động 
song song, tức là tồn tại các dạng lao động khác nhau”. 
Trong nội bộ doanh nghiệp, phân công lao động bao gồm các nội dung sau: 
- Xác định những yêu cầu kỹ thuật của công việc và con người phải đáp ứng. 
- Xây dựng danh mục những nghề nghiệp của xí nghiệp, thực hiện việc tuyên truyền, 
hướng nghiệp và tuyển chọn cán bộ, công nhân một cách khách quan theo những yêu cầu 
của sản xuất. 
- Thực hiện sự bố trí cán bộ, công nhân theo đúng những yêu cầu của công việc, áp 
dụng những phương pháp huấn luyện có hiệu quả. Sử dụng hợp lý những người đã được 
đào tạo, bồi dưỡng tiếp những người có khả năng phát triển, chuyển và đào tạo lại những 
người không phù hợp với công việc. 
Phân công lao động hợp lý chính là điều kiện để nâng cao năng suất lao động và hiệu 
quả của sản xuất. Do phân công lao động mà có thể chuyên môn hoá được công nhân, 
chuyên môn hoá được công cụ lao động, cho phép tạo ra được những công cụ chuyên 
dụng có năng suất lao động cao, người công nhân có thể làm một loạt bước công việc, 
không mất thời gian vào việc điều chỉnh lại thiết bị, thay dụng cụ để làm các thiết bị khác 
nhau. 
Phân công lao động trong doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu sau: 
- Đảm bảo phù hợp giữa nội dung và hình thức của phân công lao động với trình độ 
phát triển của lực lượng sản xuất. 
- Để đảm bảo sự phù hợp giữa những khả năng sản xuất và phẩm chất của con người, 
phải lấy yêu cầu công việc làm tiêu chuẩn để lựa chọn người lao động. 
- Đảm bảo sự phù hợp giữa công việc phân công với đặc điểm và khả năng của lao 
động, phát huy được tính sáng tạo của họ. 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 11 
Các hình thức phân công lao động trong doanh nghiệp bao gồm: 
- Phân công lao động theo chức năng: Là hình thức phân công lao động trong đó tách 
riêng các công việc khác nhau thành những chức năng lao động nhất định. 
- Phân công lao động theo công nghệ: Là hình thức phân công lao động trong trong đó 
tách riêng các loại công việc khác nhau theo tính chất, quy trình công nghệ thực hiện 
chúng. 
- Phân công lao động theo mức độ phức tạp của công việc: Là hình thức phân công lao 
động trong trong đó tách riêng các công việc khác nhau tuỳ theo tính chất phức tạp của 
nó. 
Phân công lao động hợp lý còn thể hiện qua việc thiết kế công việc, bao gồm hai nội 
dung: 
- Bố trí người đúng việc: 
+ Giới thiệu công việc bắt đầu một cách thực tế, giới thiệu cả những điểm tốt và không 
tốt của công việc. 
+ Luân phiên thay đổi công việc. 
+ Vứt bỏ đi một số giới hạn. 
- Bố trí việc đúng người: 
+ Đa dạng hóa công việc: gắn hai hay nhiều công việc chuyên môn hóa vào một việc. 
+ Thú vị hóa công việc: tạo thêm công việc đòi hỏi sử dụng nhiều kỹ năng , thiết kế 
công việc giúp người lao động được thực hiện thống nhất công việc từ đầu đến cuối , giải 
thích cho người lao động ý nghĩa của nhiệm vụ, giúp họ sự tự chủ tự do nhiều hơn trong 
việc lên kế hoạch, xác định các quy trình, lựa chọn phương pháp trong thực hiện công 
việc. 
+ Phản hồi kết quả công việc một cách nhanh chóng. 
2.1.2. Hiệp tác lao động 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 12 
C. Mác đã định nghĩa hiệp tác lao động như sau: “hình thức làm việc mà trong đó nhiều 
người làm việc bên cạnh nhau một cách có kế hoạch và trong sự tác động qua lại lẫn nhau 
trong một quá trình sản xuất nào đó, hoặc là trong những quá trình sản xuất khác nhau 
nhưng lại liên hệ với nhau gọi là hiệp tác lao động”. 
Cũng có thể hiểu hiệp tác lao động là sự chuyển từ lao động cá nhân sang dạng lao 
động kết hợp của nhiều người trong cùng một quá trình hoặc trong những quá trình lao 
động khác nhau. 
Hiệu quả mà hiệp tác lao động mang lại là những thay đổi có tính chất cách mạng điều 
kiện vật chất của quá trình lao động, nó mang lại những kết quả lao động cao hơn hẳn so 
với lao động riêng lẻ, đặc biệt là với những lao động phức tạp. Nó cũng làm tăng khả 
năng làm việc cá nhân của từng người lao động do sự xuất hiện tự phát tinh thần thi đua 
giữa những người cùng tham gia quá trình sản xuất . 
Trong các doanh nghiệp thường sử dụng các hình thức hiệp tác lao động sau: 
- Hiệp tác về mặt không gian : Gồm các hình thức hiệp tác giữa các phân xưởng 
chuyên môn hoá, hiệp tác giữa các ngành, các bộ phận chuyên môn trong cùng một doanh 
nghiệp, giữa các lao động trong một tổ sản xuất. 
- Hiệp tác về mặt thời gian: Là việc tổ chức các ca làm việc trong ngày và đêm. Do yêu 
cầu của sản xuất và tận dụng năng lực của thiết bị máy móc nên phải bố trí các ca làm 
việc một cách hợp lý, đảm bảo sức khoẻ cho người lao động. 
Hiệp tác lao động chặt chẽ tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. kích thích tinh 
thần thi đua trong sản xuất, tiết kiệm được lao động sống và lao động vật hoá. 
Ngoài ra, để động viên người lao động, nhà quản trị có thể thu hút họ tham gia các 
công việc quản trị như việc xác định mục tiêu, ra quyết định, tham gia giải quyết vấn đề, 
thiết kế và thực hiện đổi mới tổ chức,  
2.2. Hoàn thiện tổ chức phục vụ nơi làm việc 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 13 
Nơi làm việc là một phần diện tích và không gian sản xuất được trang bị thiết bị các 
phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất đã xác định. 
Trong điều kiện sản xuất hiện đại, giữa các nơi làm việc trong doanh nghiệp có mối 
quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Nhịp độ sản xuất của từng bộ phận của phân xưởng hoặc 
toàn doanh nghiệp là do nhịp độ sản xuất của từng nơi làm việc quyết định. Vì vậy, muốn 
nâng cao năng suất lao động, muốn tiến hành sản xuất với hiệu quả cao và đào tạo lớp 
người lao động mới thì phải tổ chức và phục vụ nơi làm việc. Trình độ tổ chức và phục vụ 
nơi làm việc cũng có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ và hứng thú của người lao động. 
Nhiệm vụ của tổ chức và phục vụ nơi làm việc là: 
- Tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết để tiến hành các nhiệm vụ sản xuất 
với năng suất cao . 
- Bảo đảm cho quá trình sản xuất được thực hiện liên tục và nhịp nhàng . 
- Bảo đảm những điều kiện thuận lợi nhất để tiến hành quá trình lao động và tạo sự 
hứng thú tích cực cho người lao động . 
- Bảo đảm khả năng thực hiện các động tác lao động trong tư thế thoải mái, cho phép 
áp dụng các phương pháp và thao tác lao động tiên tiến . 
2.2.1. Tổ chức nơi làm việc 
Tổ chức nơi làm việc là một hệ thống các biện pháp nhằm thiết kế nơi làm việc, trang 
bị cho nơi làm việc những công cụ thiết bị cần thiết và sắp xếp bố trí chúng theo một trật 
tự nhất định. 
Tổ chức nơi làm việc gồm có ba nội dung chủ yếu: 
- Thiết kế nơi làm việc: Là việc xây dựng các thiết kế mẫu cho các nơi làm việc nhằm 
nâng cao hiệu quả lao động của công nhân. 
- Trang bị nơi làm việc: Là đảm bảo đầy đủ các loại máy móc, thiết bị, dụng cụ cần 
thiết cho nơi làm việc theo yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất và chức năng lao động . Nơi 
làm việc thường được trang bị các thiết bị chính (thiết bị công nghệ) và thiết bị phụ. 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 14 
- Bố trí nơi làm việc: Là việc sắp xếp một cách hợp lý trong không gian tất cả các 
phương tiện vật chất của sản xuất tại nơi làm việc. 
- Chỉ tiêu đánh giá trình độ tổ chức nơi làm việc . 
2.2.2. Tổ chức phục vụ nơi làm việc 
Tổ chức phục vụ nơi làm việc là cung cấp cho nơi làm việc các loại phương tiện vật 
chất kỹ thuật cần thiết và tạo các điều kiện thuận lợi để tiến hành quá trình lao động. Nói 
khác đi, tổ chức phục vụ nơi làm việc là tổ chức đáp ứng đầy đủ các nhu cầu cho các nơi 
làm việc để quá trình lao động diễn ra một cách liên tục và có hiệu quả. 
Nếu việc tổ chức phục vụ nơi làm việc mà không tốt thì sẽ dẫn đến lãng phí thời gian 
lao động rất lớn. Vì vậy, tổ chức phục vụ nơi làm việc là điều kiện không thể thiếu được 
của bất kỳ quá trình sản xuất nào. 
Để phục vụ nơi làm việc một cách đồng bộ và có hiệu quả thì việc tổ chức phục vụ nơi 
làm việc trong doanh nghiệp cần phải tuân theo các nguyên tắc sau đây: 
- Phục vụ theo chức năng nghĩa là việc xây dựng hệ thống phục vụ nơi làm việc phải 
theo các chức năng phục vụ riêng biệt, phải căn cứ vào nhu cầu của sản xuất về số lượng, 
chất lượng và tính quy luật của từng chức năng để tổ chức phục vụ được đầy đủ và chu 
đáo. 
- Phục vụ theo kế hoạch nghĩa là phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất để xây dựng kế 
hoạch phục vụ sao cho việc phục vụ phù hợp với tình hình sản xuất, sử dụng một cách có 
hiệu quả lao động và thiết bị, giảm bớt thời gian lãng phí do chờ đợi phục vụ. 
- Phục vụ phải mang tính dự phòng, nghĩa là hệ thống phục vụ phải chủ động đề phòng 
những hỏng hóc thiết bị để đảm bảo sản xuất được liên tục trong mọi tình huống. 
- Phục vụ phải mang tính đồng bộ, nghĩa là cần phải cần có sự phối hợp giữa các chức 
năng phục vụ khác nhau trên quy mô toàn doanh nghiệp để đáp ứng mọi nhu cầu phục vụ, 
không để thiếu một nhu cầu nào. 
- Phục vụ phải mang tính linh hoạt, nghĩa là hệ thống phục vụ phải nhanh chóng loại 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 15 
trừ các hỏng hóc, thiếu sót không để sản xuất chính bị ngừng trệ. 
- Đảm bảo chất lượng và độ tin cậy cao. 
- Phục vụ phải mang tính kinh tế, nghĩa là phục vụ tốt cho sản xuất với chi phí về lao 
động và tiền vốn ít nhất. 
Trong một doanh nghiệp thường áp dụng một trong các hình thức phục vụ là: phục vụ 
tập trung, phục vụ phân tán hoặc phục vụ hỗn hợp. 
2.3. Nghiên cứu và phổ biến các phương pháp, thao tác lao động hợp lý nhằm đạt năng 
suất lao động cao bảo đảm an toàn lao động cho người lao động 
Nhằm tiết kiệm hao phí lao động , với trình tự thực hiện các thao tác sản xuất hợp lý 
nhất. 
Trước hết cần phân tích các thao tác và phương pháp làm việc của bộ phận , đơn vị . 
Phát hiện những người thực hiện tốt nhất các phương pháp hay thao tác lao động cụ thể , 
rồi phổ biến kinh nghiệm cho các công nhân cùng nghề . Hoặc có thể so sánh các phương 
pháp và thao tác lao động của một số công nhân , phát hiện phát hiện những phương pháp 
và thao tác hợp lý nhất , làm cho chúng trở thành của riêng đối với các công nhân khác . 
Lựa chọn hình thức nào là tuỳ thuộc vào mức độ lặp lại , mức phổ thông và mức phức 
tạp của từng công việc sản xuất nhất định . Vấn đề quan trọng là sau khi phát hiện phương 
pháp và thao tác làm việc hợp lý , các nhà quản lý cần lập phương án áp dụng các thao tác 
và phương pháp đó váo sản xuất của bộ phận, đơn vị. 
2.4. Cải thiện điều kiện lao động giảm nhẹ sự nặng nhọc của công việc, giữ gìn tăng 
cường sức khoẻ cho người lao động, tạo ra những điều kiện lao động thuận lợi 
Chế độ làm việc và nghỉ ngơi là trật tự luân phiên và độ dài thời gian của các giai đoạn 
làm việc và nghỉ giải lao được thành nhịp đối với mỗi dạng lao động. Chế độ làm việc và 
nghỉ ngơi trong doanh nghiệp bao gồm: chế độ làm việc và nghỉ ngơi trong ca. Chế độ 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 16 
làm việc và nghỉ ngơi trong tuần trong tháng, chế độ làm việc và nghỉ ngơi trong năm. 
Trong nền sản xuất hiện đại có đặc trưng là trình độ phân công và hiệp tác lao động 
phát triển ở mức cao, quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm phức tạp, vì thế càng đòi hỏi 
phải xây dựng chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý. Vì chế độ làm việc và nghỉ ngơi có 
ảnh hưởng đến tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất, ảnh hưởng đến tính liên tục của cả 
quá trình sản xuất. Mặt khác chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý là một phương tiện để 
khắc phục sự mệt mỏi, là một biện pháp để tăng năng suất lao động và bảo vệ sức khoẻ 
người lao động. 
Theo Mác, mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là làm thoả mãn ngày càng đầy 
đủ hơn những nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của bản thân người lao động. 
Muốn đạt được mục đích đó thì phải không ngừng nâng cao năng suất lao động và hiệu 
quả sản xuất kinh doanh. Một trong những nhân tố quan trọng để tăng năng suất lao động, 
nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả của sản xuất là thường 
xuyên áp dụng và hoàn thiện các biện pháp khuyến khích vật chất và tinh thần đối với 
người lao động, tức là thoả mãn các nhu cầu của họ. 
Nhu cầu cuộc sống của người lao động rất phong phú và đa dạng. Nó có tính lịch sử và 
tính giai cấp rõ rệt. Nhu cầu và sự thoả mãn nhu cầu đều gắn liền với sự phát triển của nền 
sản xuất xã hội và sự phân phối các giá trị vật chất và tinh thần trong điều kiện xã hội đó. 
Trong các nhu cầu của người lao động, nhu cầu về vật chất là nhu cầu hàng đầu đảm 
bảo đời sống cho họ làm việc tạo ra các của cải vật chất và làm nên lịch sử. Cùng với sự 
phát triển của lịch sử, các nhu cầu vật chất của con người ngày càng tăng lên cả về số 
lượng và chất lượng. Trình độ phát triển của xã hội ngày càng cao thì nhu cầu càng nhiều, 
càng phức tạp hơn, thậm chí những nhu cầu đơn giản nhất cũng không ngừng thay đổi . 
Nhu cầu về tinh thần của người lao động cũng rất phong phú và đa dạng. 
- Thứ nhất: Họ có nhu cầu lao động, nhu cầu làm việc có ích, có hiệu quả cho bản thân 
và xã hội. Bởi vì , lao động là hoạt động quan trọng của con người, là nguồn gốc của mọi 
sáng tạo của con người, là nơi phát sinh mọi kinh nghiệm và tri thức khoa học nhằm làm 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 17 
giàu cho xã hội và thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng của con người. 
- Thứ hai: Nhu cầu học tập để nâng cao trình độ chuyên môn và nhận thức. Khi trình 
độ khoa học kỹ thuật ngày càng cao thì nhu cầu học tập của người lao động càng lớn và 
nhờ đó họ nhận thức thế giới xung quanh đúng đắn hơn. Mọi biện pháp nhằm thoả mãn 
nhu cầu học tập và nâng cao nhận thức cho người lao động, thực chất là khuyến khích họ 
học tập để vươn tới những kiến thức chuyên môn cao hơn, những khả năng sáng tạo mới 
hiệu quả hơn. 
- Thứ ba: Nhu cầu thẩm mỹ và giao tiếp xã hội. Đây là nhu cầu tinh thần đặc biệt và tất 
yếu của con người đòi hỏi người lãnh đạo doanh nghiệp cần phải quan tâm. 
- Thứ tư: Nhu cầu công bằng xã hội, trong lao động cũng như trong cuộc sống ngày 
nay mọi người đều muốn sự công bằng. Công bằng xã hội là nhu cầu vừa cấp bách vừa 
lâu dài, mỗi người và mỗi tập thể cần phấn đấu được thoả mãn, đồng thời đấu tranh chống 
lại mọi bất công, tiêu cực để giành lấy sự công bằng cao hơn đầy đủ hơn. 
2.5. Hoàn thiện định mức lao động 
Định mức lao động chịu tác động của các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật. 
Mặt khác, trong nền sản xuất xã hội, định mức lao động cũng thực hiện nhiều chức 
năng quan trọng khác nhau. Hiệu quả của nó tuỳ thuộc vào mức độ và tính chất tiên tiến, 
có căn cứ khoa học của các mức lao động cụ thể. 
Định mức lao động tạo khả năng kế hoạch hoá tốt hơn, đảm bảo thực hiện có hiệu quả 
nhất việc tính toán xác định số lượng máy móc thiết bị và số lượng lao động cần thiết, 
khuyến khích nguồn dự trữ trong sản xuất vv 
Mức thời gian là số lượng thời gian cần thiết được quy định để một công nhân hoặc 
một nhóm công nhân có trình độ lành nghề nhất định hoàn thành một đơn vị công việc 
trong những điều kiện tổ chức – kỹ thuật nhất định. Mức sản lượng là số lượng sản phẩm 
được quy định để công nhân hay một nhóm công nhân có trình độ thành thạo nhất định 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 18 
phải hoàn thành trong một đơn vị thời gian với những điều kiện tổ chức – kỹ thuật nhất 
định. Mức thời gian và mức sản lượng có liên quan mật thiết với nhau, tuỳ điều kiện và 
đặc điểm của sản xuất mà người ta tính mức thời gian hay là mức sản lượng. 
Tổ chức lao động khoa học trong doanh nghiệp có nhiệm vụ hoàn thiện các phương 
pháp định mức lao động, mở rộng định mức có căn cứ khoa học. Nghiên cứu thời gian lao 
động, kết cấu mức thời gian, phương pháp định mức lao động, phân tích khảo sát xây 
dựng mức mới nếu có thời gian. 
2.6. Tổ chức trả lương phù hợp với số lượng và chất lượng lao động cũng như sử dụng 
có hiệu quả chế độ khuyến khích vật chất cho người lao động 
Có thể động viên người lao động thông qua phần thưởng. 
Phần thưởng phải thỏa mãn ba điều kiện: 
- Phải thỏa mãn nhu cầu cá nhân của người lao động. 
- Phải công bằng (công bằng cá nhân và công bằng xã hội). 
- Phải gắn với việc thực hiện nhiệm vụ. 
2.7. Đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề cho người lao động 
Ngành nghề tài chính- ngân hàng luôn đòi hỏi phải cập nhật trình độ công nghệ hiện 
đại, nhanh chóng và các kỹ năng mềm cho nhân viên. Việc thường xuyên mở các lớp đào 
tạo thêm kỹ năng và chuyên môn giúp nhân viên cập nhật với các công nghệ hiện đại theo 
kịp sự phát triển trong giới tài chính ngân hàng là rất cần thiết. 
2.8. Tổ chức công tác thi đua, khen thưởng và củng cố kỷ luật lao động 
2.8.1. Tổ chức thi đua, khen thưởng 
Khác với cạnh tranh, không chỉ là thi đua của những người sản xuất riêng lẻ, bị áp bức 
bóc lột, hoạt động cho lợi ích của những người dân sở hữu riêng, mà là thi đua của những 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 19 
thành viên trong tập thể sản xuất, thoát khỏi sự áp bức bóc lột hoạt động cho lợi ích 
chung. 
Mục đích của thi đua trong doanh nghiệp là nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều 
sản phẩm có chất lượng , hợp thị hiếu ,nâng cao tính tổ chức và kỷ luật, tiết kiệm các 
nguồn vật chất và lao động, và cuối cùng là phục vụ cho quyền lợi chung của quần chúng 
lao động . 
Thi đua trong doanh nghiệp có các hình thức sau: 
- Thi đua cá nhân: Hình thức thi đua này được tổ chức giữa cá nhân những người lao 
động. Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp. Thi đua cá nhân có 
thể được tổ chức trong phạm vi một tổ, một đội sản xuất, một bộ phận sản xuất, một phân 
xưởng nhưng có khi ở phạm vi một doanh nghiệp. 
-Thi đua tập thể: Hình thức thi đua này được được tổ chức giữa các tổ, đội , các bộ 
phận sản xuất, các phân xưởng phòng ban với nhau. Hình thức thi đua này tạo ra sự gắn 
bó tinh thần và trách nhiệm để cùng hoàn thành một nhiệm vụ chung. 
Nó có tác dụng rất to lớn trong việc xây dựng thái độ lao động mới, xây dựng con 
người mới, lối sống mới và góp phần đưa năng suất lao động chung của doanh nghiệp 
tăng lên, hoàn thành kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp, làm cho sản xuất kinh doanh 
đạt hiệu quả cao hơn. 
Thi đua trong doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc chính sau đây thì mới đạt 
được hiệu quả cao: 
- Thứ nhất: Thi đua phải thực hiện tốt quy chế dân chủ ,tiến hành công khai, tức là các 
tập thể sản xuất đưa ra và thảo luận công khai trước toàn thể cán bộ công nhân viên 
những kinh nghiệm và phương pháp lao động tốt nhất của mình, kết quả lao động của 
mình trong thi đua. Lãnh đạo đơn vị phải không ngừng cung cấp thông tin cho cán bộ 
công nhân viên về quá trình thi đua và kết quả cụ thể của nó. 
- Thứ hai: Phải so sánh kết quả của những người tham gia thi đua. Nguyên tắc này đòi 
hỏi phải biết và so sánh được thành tích của người này, tập thể này với người khác tập thể 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 20 
khác, giữa thời kỳ này với thời kỳ trước về các chỉ tiêu thi đua. 
Do vậy, Khi tiến hành thi đua doanh nghiệp phải có một hệ thống các chỉ tiêu và điều 
kiện thống nhất cho phép có thể so sánh được kết quả của các cá nhân và tập thể tham gia 
thi đua về số lượng và chất lượng. 
- Thứ ba: Thi đua phải phổ biến được những kinh nghiệm tiên tiến. 
- Thứ tư: Nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa khuyến khích vật chất và khuyến khích tinh 
thần trong thi đua. 
Các nguyên tắc trên có một mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì thế, khi tổ chức thi đua 
doanh nghiệp phải tuân thủ tất cả các nguyên tắc đó, không được bỏ sót hoặc coi nhẹ một 
nguyên tắc nào. 
2.8.2. Các biện pháp tăng cường kỷ luật lao động 
Kỷ luật là nền tảng để xây dựng xã hội. Không có kỷ luật thì không thể điều chỉnh 
được mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất và các hoạt động của họ trong các 
tổ chức xã hội. Kỷ luật là những tiêu chuẩn quy định hành vi của con người trong xã hội, 
nó được xây dựng trên cơ sở pháp lý hiện hành và những chuẩn mực đạo đức xã hội . 
Kỷ luật lao động là sự tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm túc tự nguyện, tự giác 
của những người lao động đối với các nội quy lao động trong các cơ quan, doanh nghiệp 
và tổ chức, đồng thời đó cũng là thước đo đạo đức và lối sống của người lao động. Kỷ 
luật lao động là một khái niệm rộng, được xem xét ở nhiều góc độ. 
- Về mặt lao động: Kỷ luật lao động là sự chấp hành và thực hiện một cách tự nguyện, 
tự giác các chế độ ngày làm việc của công nhân viên (thời gian bắt đầu và kết thúc ca làm 
việc, thời gian nghỉ ngơi, sử dụng triệt để thời gian làm việc vào mục đích sản xuất sản 
phẩm, quỹ thời gian làm việc trong tuần, tháng, năm vv). 
- Về mặt công nghệ: Kỷ luật lao động là sự chấp hành một cách chính xác các quy trình 
công nghệ các chế độ làm việc của máy móc thiết bị, các quy trình vận hành 
- Về mặt sản xuất: Kỷ luật lao động là việc thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ sản xuất 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 21 
được giao, có ý thức bảo quản giữ gìn máy móc, thiết bị, dụng cụ vật tư , là sự chấp 
hành một cách vô điều kiện các chỉ thị, mệnh lệnh về sản xuất, tuân theo các chế độ bảo 
hộ lao động kỹ thuật an toàn và vệ sinh trong sản xuất. 
Kỷ luật lao động có một vai trò rất to lớn trong sản xuất. Bất kỳ một nền sản xuất nào 
cũng không thể thiếu được kỷ luật lao động. Bởi vì, để đạt được mục đích cuối cùng của 
sản xuất thì phải thống nhất mọi cố gắng của công nhân, phải tạo ra một trật tự cần thiết 
và phối hợp hành động của mọi người tham gia vào quá trình sản xuất. Chấp hành tốt kỷ 
luật lao động sẽ làm cho thời gian lao động hữu ích tăng lên, các quy trình công nghệ 
được đảm bảo, máy móc thiết bị, vật tư nguyên vật liệu được sử dụng tốt hơn vào mục 
đích sản xuất. Tất cả những điều đó làm tăng số lượng và chất lượng sản phẩm. 
Có nhiều biện pháp để tăng cường kỷ luật lao động: các biện pháp tác động đến người 
lao động vi phạm kỷ luật lao động (Giáo dục thuyết phục đối với những người vi phạm 
nhẹ. Biện pháp hành chính cưỡng bức như: phê bình, cảnh cáo, hạ tầng công tác, hạ cấp 
bậc kỹ thuật, chuyển sang làm việc khác, buộc thôi việc ). Tổ chức lao động khoa học 
để nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động đối với công việc mình làm, xoá bỏ 
các điều kiện có thể dẫn tới vi phạm kỷ luật lao động, hạn chế các vụ vi phạm kỷ luật lao 
động. 
3. Nguyên tắc, ý nghĩa của tổ chức lao động khoa học 
3.1. Nguyên tắc 
3.1.1.Tính khoa học 
Các đơn vị, các doanh nghiệp muốn hoàn thiện công tác lao động cần phải quán triệt 
các chủ trương chính sách của Đảng và của nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế - 
xã hội của đất nước, đồng thời các biện pháp phải tuân theo, đáp ứng yêu cầu khách quan 
của nền kinh tế thị trường, chỉ trên cơ sở đó mới có khả năng giải quyết đầy đủ và khách 
quan nhiệm vụ của tổ chức lao động khoa học. 
Tính khoa học của tổ chức lao động khoa học được thể hiện về đánh giá đề ra những 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 22 
biện pháp phù hợp với thực tiễn lao động sản xuất tình hình kỹ thuật công nghệ và trình 
độ công nghệ của đất nước, trên cơ sở đó mới có khả năng chính tư tưởng xa rời thực tế, 
dập khuôn máy móc công tác tổ chức lao động. 
Ngoài ra tính khoa học còn được thể hiện ở việc đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến 
lao động, lựa chọn các phương án tối ưu để giải quyết các vấn đề sản xuất của đơn vị, 
doanh nghiệp, phát triển khai thác khả năng tiềm tàng để nâng cao năng suất lao động. Để 
giải quyết tốt yêu cầu đó, tổ chức lao động cần phải dựa vào kết quả của các ngành khoa 
học khác mà chủ yếu là khoa học tính toán, tâm lý lao động, sinh lý lao động thống kê. 
Tổ chức lao động tuân thủ theo nguyên tắc này còn cho phép loại bỏ được tính chủ quan 
giải quyết các vấn đề tổ chức lao động thiếu khoa học, đồng thời ngăn ngừa tư tưởng hành 
chính đơn thuần và thiếu trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao. 
3.1.2. Tính kế hoạch 
Tính kế hoạch của tổ chức lao động được bắt đầu từ yêu cầu sản xuất và thị trường. Kế 
hoạch các biện pháp về tổ chức lao động là vấn đề rất quan trọng, dựa trên cơ sở kế hoạch 
đó mà có tiến độ thực hiện rõ ràng, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong khi thực hiện các 
biện pháp tổ chức lao động đề ra, khắc phục được hiện tượng đại khái tuỳ tiện hoặc trì trệ 
trong việc áp dụng các biện pháp. 
Các đơn vị, doanh nghiệp cần phải lập kế hoạch lao động theo thành quý, năm dựa trên kế 
hoạch giao cho phân xưởng, bộ phận có kế hoạch thực hiện cụ thể. Có lập kế hoạch tổ 
chức lao động thì mới có phương án tác chiến và đánh giá thực hiện các chỉ tiêu năng suất 
lao động, năng lực sản xuất, quỹ thời gian lao động, trình độ cơ giới hoá và tự động hoá 
của đơn vị, doanh nghiệp. 
3.1.3. Tính hệ thống 
Những biện pháp đơn lẻ không được hiệu quả lao động cao trong tổ chức lao động, 
không đảm bảo cải tiến được tổ chức lao động một cách toàn diện, khoa học. Chỉ có thể 
đạt được hiệu quả lớn nhất trên cơ sở hoàn thiện tổ chức lao động theo một hệ thống bao 
gồm tất cả các hướng và đối với mọi lao động (trực tiếp, gián tiếp) nghĩa là cần xem xét 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 23 
từng mặt của vấn đề tổ chức lao động như bộ phận của một thể thống nhất và phải giải 
quyết các vấn đề riêng biệt đó theo nhiệm vụ đề ra cho toàn hệ thống. 
Tính hệ thống của tổ chức lao động xuất phát từ mối quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn 
nhau của từng yếu tố như : tính chất tiên tiến của các phương pháp thao tác lao động chặt 
chẽ với tổ chức quy hoạch, trang bị, bố trí và phục vụ nơi làm việc, những hình thức hiệp 
tác Như vậy chỉ thực hiện tốt những vấn đề của hệ thống mới đảm bảo hoàn thiện tổ 
chức lao động một cách toàn diện, tránh tình trạng phát sinh những chỗ mất cân đối giữa 
các yếu tố và bộ phận của chúng. 
3.1.4. Tính kích thích vật chất, tinh thần 
Tổ chức lao động khoa học là phải thực hiện đầy đủ tính kích thích vật chất, tinh thần 
đối với người lao động. Có như vậy mới tạo động lực thúc đẩy sản xuất, phát triển và tạo 
năng suất lao động, hiệu quả lao động ngày càng cao. 
Nội dung chủ yếu trong việc khuyến khích vật chất là tổ chức các chế độ tiền lương, tiền 
thưởng phải gắn với năng suất lao động và tiến bộ kỹ thuật. 
Bên cạnh việc tổ chức tiền lương, tiền thưởng thì việc mở rộng và tăng cường phúc lợi tập 
thể cũng tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích người lao động yên tâm, phấn khởi, tích 
cực lao động sản xuất hơn, luôn luôn quan tâm đến việc tổ chức các vấn đề liên quan đến 
đời sống người lao động như : Nhà trẻ, mẫu giáo, bệnh xá, câu lạc bộ. 
Đi đôi với khuyến khích vật chất cần phải coi trọng bồi dưỡng nêu cao tinh thần cho 
người lao động bằng cách tổ chức giáo dục, xây dựng thái độ lao động mới, phát động 
phong trào thi đua lao động sản xuất, phát minh sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tổ chức cho 
người lao động được đi tham quan du lịch và có các hình thức khen thưởng thích hợp 
như : Tặng danh hiệu cao quý lao động giỏi, giấy khen, huân, huy chương. 
3.2. Ý nghĩa 
Trước khi thực hiện bất kỳ hoạt động nào cũng cần tiến hành xây dựng một kế hoạch 
chặt chẽ thống nhất, khoa học có tính thực tiễn cao vì vậy nếu không có hoạt động này 
quá trình thực hiện công việc sẽ gặp phải những khó khăn nhất định. 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 24 
Nếu không tổ chức lao động khoa học sẽ không thể thực hiện tốt việc phối hợp trong hoạt 
động một cách thống nhất do đó có thể sẽ gặp phải những cản trở nhất định trong quá 
trình thực hiện nhiệm vụ của từng cá nhân bộ phận. 
Tổ chức lao động khoa học là cơ sở cho việc khai thác khả năng tiềm lực hiện có và sẽ 
có trong mỗi doanh nghiệp. 
Tổ chức lao động khoa học sẽ góp phần tiết kiệm những nguồn lực và từ đó nâng cao 
hiệu quả của những hoạt động. 
Tổ chức lao động khoa học giúp cho những cán bộ quản lý chủ động điều hành chỉ đạo 
sự hoạt động của toàn bộ cá nhân và bộ phận đã được giao nhiệm vụ. 
Như vậy chất lượng của công tác tổ chức lao động khoa học cũng được xem như là một 
trong những tiêu chí để đánh giá trình độ tổ chức sản xuất, tổ chức lao động năng lực 
quản lý của những cán bộ lãnh đạo cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ của từng lao 
động cụ thể. 
III. Một số hướng nghiên cứu của tổ chức lao động khoa học hiện đại trên thế 
giới 
1. Tối ưu hoá động tác của người lao động 
Khi đó, năng suất lao động tăng cao, giá thành sản phẩm hạ và người lao động thực sự 
vui thích khi làm việc. Muốn vậy, trong quy trình động tác lao động, cần loại bỏ tất cả các 
động tác thừa, các động tác tiềm ẩn nguy cơ tai nạn lao động; không những thế còn phải 
sắp xếp trình tự các động tác hợp lý, xây dựng thành tiêu chuẩn và đào tạo cho công nhân. 
Hướng nghiên cứu thứ hai là cải thiện điều kiện lao động. Điều kiện lao động ảnh hưởng 
trực tiếp đến năng suất lao động và tâm sinh lý của người lao động. Điều kiện lao động 
bao gồm nhiều yếu tố: nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ, gió... Đối với mỗi yếu tố, con người chỉ có 
thể hoạt động bình thường trong một ngưỡng nào đó. Theo nghiên cứu của Đại học công 
nghệ Helsinki – Phần Lan, nhiệt độ môi trường tiêu chuẩn của người công nhân là từ 18 – 
310C, khoảng hiệu quả nhất là từ 21 – 230C. Ngoài ngưỡng này, năng suất lao động giảm 
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB 
 Trang 25 
nhanh. Độ ẩm cũng vậy, độ ẩm cao cản trở sự bay hơi của mồ hôi, làm tăng thân nhiệt, là 
môi trường cho vi khuẩn phát triển, độ ẩm thấp gây khô mũi, nứt nẻ da... Độ ẩm môi 
trường lý tưởng cho công nhân là 40 – 60%. 
2. Kích thích lao động 
Trong những năm gần đây rất được các nhà quản lý quan tâm tìm hiểu và đẩy mạnh áp 
dụng, nó tìm ra những nhu cầu thiết yếu về vật chất và tinh thần của người lao động và 
cách thoả mãn chúng. Từ năm 1914, Henry Ford đã thực hiện hai chính sách: trả công “5 
đôla một ngày” và tuần làm việc 40h; hiệu quả từ chất lượng sản phẩm và năng suất đáng 
kinh ngạc của công nhân đã chững minh cho luận điểm đúng đắn của ông, vốn bị hoài 
nghi và chỉ trích rất nhiều. Như vậy trong nhiều trường hợp, những đầu tư để kích thích 
người lao động đem lại hiệu quả lớn hơn nhiều so với chi phí đã bỏ ra. 
3. Sự phân công và hợp tác trong lao động 
Nếu hai hướng nghiên cứu trên quan tâm chủ yếu tới cá thể người lao động thì hướng 
nghiên cứu về sự phân công và hợp tác trong lao động lại chú trọng về mặt tổ chức tập thể 
lao động. Chẳng hạn trong công trường xây dựng, có rất nhiều loại công việc, từng loại 
công việc lại được phân chia nhỏ: công tác chính và công tác phụ, công tác có kỹ thuật 
cao và công tác đơn giản. Do đó, mỗi tổ thợ đều có cơ cấu với nhiều bậc thợ hỗ trợ nhau. 
Ngoài ra, sự 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_to_chuc_lao_dong_khoa_hoc_va_ung_dung_tai_ngan_han.pdf