Tiểu luận Tổ chức tiền tệ thế giới IMF

pdf 34 trang yenvu 20/04/2024 1310
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tổ chức tiền tệ thế giới IMF", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tổ chức tiền tệ thế giới IMF

Tiểu luận Tổ chức tiền tệ thế giới IMF
1 
Tiểu luận 
Tổ chức tiền tệ thế giới IMF 
2 
Tổ chức tiền tệ thế giới IMF 
1. Tổng quan : 
a. Định nghĩa Wiky 
International Monetary Fund 
Biểu tượng của Quỹ tiền tệ quốc tế 
(IMF) 
Thành 
lập 
27 tháng 12 năm 
1945 (67 năm trước) 
Phân 
loại 
Tổ chức quốc tế 
Địa điểm Washington DC 
Thành 
viên 
187 quốc gia 
Giám 
đốc 
Christine Lagarde 
(acting) 
Website 
Tòa nhà trụ sở chính của Quỹ tiền tệ 
quốc tế tại Washington, D.C. 
Quỹ tiền tệ quốc tế (t iếng 
Anh: International Monetary Fund, viết 
tắt IMF) là một tổ chức quốc tế giám 
sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng 
theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân 
thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và 
giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu. Trụ sở 
chính của IMF đặt ở Washington, D.C., 
thủ đô của Hoa Kỳ. 
 B. Lịch sử hình thành : 
Vào thập kỷ 30, đã có nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức để giải quyết những 
vấn đề tiền tệ thế giới. Tuy nhiên điều đó không có kết quả. Những giải pháp bộ phận và 
3 
mang tính chất thăm dò đã hoàn toàn tỏ ra không đáp ứng được yêu cầu. Ðiều cần có là một 
sự hợp tác với quy mô lớn chưa từng có giữa tất cả các quốc gia để xây dựng nên một hệ 
thống tổ chức tiền tệ cách tân và một tổ chức để điều hành hệ thống này. 
Mùa hè năm 1940, một sự trùng hợp kỳ lạ đã xảy ra. Hai tư tưởng độc đáo và táo 
bạo của Harry Dester White - Người Mỹ và John Maynard Keynes - Người Anh đã gần 
như đồng thời đưa ra dự thảo xây dựng một tổ chức tiền tệ quốc tế mà hành động của nó 
được giám sát thường xuyên bởi một tổ chức hợp tác chứ không phải bằng những cuộc gặp 
gỡ quốc tế thoảng hoặc. Tuy nhiên, phải sau nhiều lần thương thuyết trong điều kiện khó 
khăn của thời chiến, cộng đồng quốc tế mới chấp nhận một hệ thống tiền tệ mới và một tổ 
chức để giám sát nó. Những thương thuyết cuối cùng về thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (viết 
tắt là IMF) đã diễn ra ở Bretton Woods, NewHams phire, Hoa kỳ vào tháng 7/1944 giữa 
44 quốc gia. Bắt đầu từ 1-3-1947 tổ chức IMF chính thức đi vào hoạt động như một cơ 
quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc (xem phụ lục 1). Khi đó IMF có 49 thành viên. 
Trụ sở chính của IMF ở Washington D.C và có hai chi nhánh tại Paris và 
Geneve. Một nước có thể trở thành thành viên của IMF nếu nó sẵn sàng gắn bó, trung thành 
với các chức năng và nguyên tắc chủ đạo của IMF (xem biểu đồ 1). Từ l945 đến nay con số 
thành viên của IMF lên tới 187 Quốc gia. Số lượng thành viên tăng đều đặn, không có biến 
động chứng tỏ uy tín của IMF theo năm tháng là không thay đổi và ngày càng được zcủng 
cố. 
Biểu đồ 1: 
 Sự phát triển về số lượng thành viên của IMF 1945-2002 
 ( số lượng nước) 
 (Năm) 
Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế là gì, Viện nghiên cứu IMF, Tháng 6. 
Theo nhận định chung thì IMF được coi là một tổ chức uy tín lớn có tính độc 
lập cao và cho rằng Quỹ đề ra những chính sách kinh tế tối ưu cho các nước thành viên theo 
đuổi và áp đặt các quyết định cho các nước thành viên và sau đó giám sát việc thực hiện. 
4 
Nhưng trái lại, chính các nước thành viên đã định ra các chính sách mà IMF phải thực hiện. 
Các mệnh lệnh đi từ Chính phủ các nước thành viên đến IMF mà không có lệnh ngược lại. 
Khi đưa ra các quy định về nghĩa vụ của từng thành viên đối với Quỹ hoặc đưa ra những 
điều mục của hợp đổng cho vay với một thành viên nào đó, IMF không tự hành động mà 
chỉ đóng vai trò trung gian giữa ý kiến đại đa số thành viên của quỹ đối với các nước 
thành viên đó. 
2. Sơ đồ bộ máy quản lý 
 Cơ quan lãnh đạo cao nhất của IMF là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị 
gồm đại diện của các nước thành viên và do mỗi nước bổ nhiệm, 5 năm 1 lần. Hiện nay 
IMF có 187 ủy viên ban quản trị, mỗi ủy viên đại diện cho 1 nước khác nhau. Hội đồng 
quản trị họp mỗi năm 1 lần. Trong kỳ họp, Hội đồng quản trị phê chuẩn báo cáo hàng năm 
về hoạt động của IMF, xem xét việc kết nạp thành viên mới và khai trừ thành viên ra khỏi tổ 
chức, xem xét việc thay đổi vốn pháp định...(xem phụ lục 2). 
 Cơ quan chấp hành của IMF là Hội đồng giám đốc (còn gọi là Hội đồng điều 
hành). Hội đồng giám đốc gồm 22 giám đốc chấp hành trong đó 6 giám đốc do 5 nước có 
mức đóng góp lớn nhất và Arập xêút bổ nhiệm; 16 giám đốc do Hội nghị toàn thể bầu ra 
có tính đến khu vực địa lý. 
 Ủy ban lâm thời (Imterm Committee) Hội đồng quản trị của IMF là cơ quan 
tư vấn về các vấn đề quan hệ tiền tệ được thành lập tháng 10 năm 1974. Thành viên của Ủy 
ban lâm thời là các Bộ trưởng Tài chính của 22 thành viên. Nhiệm vụ chính của Ủy ban lâm 
thời là kiểm tra việc quản lý hệ thống tiền tệ thế giới và kiến nghị với Hội đồng quản trị. 
Nếu Hội đồng quản trị thấy cần thiết, có thể cải tổ Ủy ban lâm thời thành cơ quan thường 
trực có quyền thông qua nghị quyết. 
 Một Ủy ban khác là Ủy ban phát triển (Development Committee), phối hợp 
giữa IMF và ngân hàng phát triển thế giới cố vấn cho Hội đồng quản trị về những nhu 
cầu đặc biệt của nước nghèo. 
 Bởi v ì các ủy viên của Hội đồng quản trị và các ủy viên của Hội đồng giám 
đốc đều bận bịu với công việc ở nước mình nên họ chỉ gặp mặt trong các cuộc họp định kỳ 
hàng năm để cùng giải quyết các vấn đề của IMF. 
 IMF có khoảng 2600 nhân viên, đứng đầu là Giám đốc điều hành, đồng thời 
cũng là Chủ tịch Hội đồng điều hành (hội đồng tự bầu chủ tịch của mình). Theo truyền 
thống, Giám đốc điều hành là người Châu Âu, nếu không thì cũng phải là người Mỹ. Hiện 
nay, Tổng giám đốc IMF là bà Christine Lagarde quốc tịch Pháp, nhận chức tháng 
5/7/2013, phó tổng giám đốc là Zhumin người Trung Quốc. Nhân viên của IMF là người 
của khoảng 120 nước và đa phần là nhà kinh tế học, song cũng có cả các nhà thống kê, bác 
học, các chuyên gia về tài chính công cộng và thuế khoá, các nhà ngôn ngữ học, nhà văn và 
5 
các nhân viên phục vụ. Ða số các nhân viên đều hoạt động tại trụ sở nhỏ ở Paris, Geneve, 
Tokyo, tại trụ sở của Liên hợp quốc ở NewYork hoặc tại các văn phòng của IMF được 
thành lập tạm thời ở các nước thành viên. Khác với các giám đốc chấp hành là những đại 
diện của từng nước thành viên, các nhân viên của Quỹ chỉ là nhân viên quốc tế, họ có trách 
nhiệm thực thi chính sách của IMF chứ không đại diện cho lợi ích của bất cứ quốc gia nào. 
3. Mục đích và nguyên tắc hoạt động : 
a. Mục đích : 
 Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách 
nhiệm cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế. 
 Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc 
tế và nhờ đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế 
và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên, coi đó là mục tiêu quan 
trọng nhất của chính sách kinh tế. 
 Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt 
động giao dịch ngoại hối giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh. 
 Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các 
nước thành viên và xoá bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới sự tăng trưởng của 
mậu dịch quốc tế. 
 Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ 
nguồn lực dự trữ của quỹ được đảm bảo an toàn và tạo cơ hội cho họ sửa chữa mất cân đối 
trong cán cân thanh toán quốc tế. 
 Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh 
toán của các nước thành viên. 
b. Nguyên tắc 
IMF hoạt động theo nguyên tắc phiếu bầu. Mỗi nước hội viên góp với số vốn ban 
đầu tương đương 250 phiếu bầu. Nếu đóng thêm 100.000 SDR thì được cộng 
thêm một phiếu bầu. Nếu rút ra 400.000 SDR thì rút ra một phiếu 
c. Nguồn vốn hoạt động 
• Vốn điều lệ: Là nguồn vốn hoạt động chủ yếu của quỹ, được hình thành từ tiền 
đóng 
góp của các nước thành viên theo Điều lệ thành lập quỹ. 
• Vốn đi vay: Để bổ sung vốn hoạt động của mình, IMF có thể đi vay của chính 
phủ các 
nước thành viên. 
• Vốn tích luỹ: Hàng năm, số lãi ròng thu được từ hoạt động cho vay được IMF 
bổ sung 
vào nguồn vốn hoạt động 
 Vốn hoạt động: 
6 
Khi gia nhập IMF, mỗi nước thành viên đều phải đóng một khoản tiền nhất định 
được coi là một khoản lệ phí hội viên. Tuy nhiên khoản đóng này chỉ thực hiện khi quỹ có 
nhu cầu: khi có ai cần vay tiền của quốc gia đó thì quốc gia đó mới phải đóng. Chẳng hạn, 
nếu một nước muốn vay Bảng Anh thì khi đó IMF mới yêu cầu Anh phải đóng. Số tiền này 
được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: 
+ Thứ nhất, nó tạo thành một khoản vốn IMF có thể trích ra cho các thành viên vay 
mỗi khi họ gặp khó khăn về tài chính. 
+ Thứ hai, nó là căn cứ để quyết định số lượng tiền mà nước thành viên được vay và 
là cơ sở để phân bổ rút vốn lớn đặc biệt (SDR) theo từng thời kỳ cho các nước thành 
viên. Dĩ nhiên, nước thành viên nào càng đóng góp nhiều thì khi cần nó càng được 
vay nhiều. 
+ Thứ ba, số tiền ký quỹ này còn có vai trò quyết định quyền bỏ phiếu của nước 
thành viên. 
Bản thân IMF là người quyết định số tiền mỗi nước thành viên phải nộp vào quỹ sau 
khi phân tích đánh giá mức độ giàu có và tình hình kinh tế của nước đó. Nước càng giàu, lệ 
phí càng cao (xem phụ lục 3). Mức đóng góp của mỗi nước thành viên vào IMF rất khác 
nhau. Năm 1985, Mỹ đóng 20,l%, khối EEC đóng 27,9%, còn các nước đang phát triển 
đóng 32,4%. Mức lệ phí này cứ 5 năm lại được xem xét lại, có thể tăng lên hoặc giảm đi tùy 
theo nhu cầu của IMF và mức độ phát đạt của nước thành viên. Tuy nhiên từ l/4/1978, với 
sự sửa đổi điều lệ lần thứ hai, việc xem xét và điều chỉnh phần đóng góp của mỗi nước 
thành viên được quy định 3 năm một lần. Năm 1945, 35 thành viên khi đó đóng góp vào 
IMF 7,6 tỷ USD, năm 1977 con số đó khoảng 200 tỷ USD. Ngày 6/2/1998 Hội đồng quản 
trị của IMF đã phê chuẩn kế hoạch tăng 45% ngân quỹ của tổ chức này, từ 199 tỷ USD lên 
288 tỷ USD. Cho đến nay, Mỹ là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, đóng góp nhiều nhất 
cho IMF, chiếm khoảng 19% tổng số (40 tỷ USD); Marshall Island, một nước cộng hoà đảo 
ở Thái Bình Dương đóng ít nhất khoảng 3,6 triệu USD (xem biểu đồ 2). 
Biểu đồ 2: 
Những thành viên lớn nhất của IMF tính theo cổ phần, 1997 (tính theo triệu 
SDR và % tổng số cổ phần) 
7 
Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế là gì, Viện nghiên cứu IMF, Trang 6 
Khoản tiền đóng góp của các nước thành viên tạo nên nguồn tài chính cho IMF sử 
dụng. Tổng số tiền đóng góp các nước thành viên cho đến nay khoảng 210 tỷ USD, mặc dù 
trên thực tế số tiền sử dụng được không thể coi là lớn bởi vì các nước thành viên nộp 75% 
số lệ phí của họ bằng tiền nội địa và bởi vì hầu hết đồng tiền quốc gia của nhiều nước không 
phổ biến trong thanh toán quốc tế. 
 Bảng 1: 
 10 nước góp vốn nhiều nhất từ cuối 1991 đến cuối 1992 
Tên nước SDR (tỷ) Tỉ lệ vốn (% ) Tỉ lệ quyền bỏ 
phiếu (% ) 
Mỹ 7,918 19,66 18,88 
Anh 6,194 6,80 6,54 
Đức 5,404 5,93 5,71 
Pháp 4,483 4,92 4,74 
Nhật 4,223 4,63 4,47 
Arập Xêút 3,202 3,51 3,40 
Canađa 2,941 3,23 3,12 
Ý 2,909 3,19 3,09 
Trung Quốc 2,314 2,62 2,54 
Hà Lan 2,265 2,48 2,41 
8 
 Nguồn : Kinh tế đốí ngoại, Võ Thanh Thu, tr 289 
Các nước thành lập IMF hồi 1944 lập luận rằng Quỹ sẽ hoạt động hiệu quả nhất và 
các quyết định sẽ được đề ra một cách trách nhiệm nhất nếu gắn liền trực tiếp quyền bỏ 
phiếu của các thành viên với số lượng tiền đóng vào Quỹ của họ (xem bảng l). Nước nào 
đóng góp nhiều nhất đương nhiên tiếng nói sẽ có trọng lượng nhất khi quyết định chính sách 
của Quỹ. Mỹ, Anh, Pháp là những nước khi mới thành lập đóng nhiều hơn hết và cũng là 
những nước có ảnh hưởng nhiều hơn hết đối với các quyết định của IMF. Mỗi nước có 250 
phiếu và cộng thêm l phiếu cho mỗi 100.000 SDR của phần đóng góp. Bởi vậy Mỹ hiện nay 
có 265.000 phiếu, hay 18% tổng số phiếu, Marshall Islands có 275 phiếu. 
 Quyền rút vốn đặc biệt (SDR): 
Ðó là loại tiền đặc biệt mà IMF tạo ra để bổ sung vào tài sản dự trữ mà hầu hết các 
nước thành viên dùng để đảm bảo nhu cầu thanh toán ngoại tệ và giao dịch với nước ngoài. 
Việc này đã giải quyết được nguy cơ khan hiếm những phương tiện thanh toán quốc tế. 
Như đã trình bày trong phần chức năng hỗ trợ tín dụng, giá trị của mỗi đơn vị SDR 
lúc đầu được ấn định là 0,888671 gr vàng tương đương với hàm lượng vàng của l USD. 
Năm 1973, do sự thả nổi của đồng USD, giá trị của 16 loại tiền tệ có cân nhắc tỷ trọng tuỳ 
theo tầm quan trọng của mỗi đơn vị tiền tệ thể hiện qua phần giá trị xuất khẩu của mỗi quốc 
gia Hội viên trong tổng giá trị xuất khẩu của thế giới. Năm 1981 giá trị tổng hợp đó chỉ còn 
căn cứ vào 5 đơn vị tiền tệ của 5 nước có khối lượng xuất khẩu lớn nhất thế giới từ 1975 - 
1979 là USD, FRF, GBP, JPY, DEM (xem biểu đồ 3). 
 Biểu đồ 3: 
Sự định giá đồng SDR (tính theo phần trăm) 
Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế là gì, Viện nghiện cứu IMF, Trang 12. 
Quyền vay đặc biệt này có 2 điểm cần chú ý. Thứ nhất, vay đặc biệt cũng cần lý do 
cán cân thanh toán thiếu hụt như vay thông thường. Tuy nhiên trong khi vay thông thường 
phải làm đơn và IMF cử phái đoàn tới kiểm tra, nếu được vay thì phải thực hiện những biện 
pháp mà IMF yêu cầu, còn vay đặc biệt không cần phải có phái đoàn IMF tới nghiên cứu 
9 
mới cho vay. Thứ hai, vay thông thường chịu lãi suất 3% còn vay đặc biệt chỉ chịu lãi suất 
15%. 
Hội nghị thường niên IMF ngày 3/10/1969 đã biểu quyết chấp thuận dự án cấu tạo 
9,5 tỷ SDR, lần phân phối SDR đầu tiên là 3,5 tỷ SDR thi hành ngày l/1/1970, hai lần phân 
phối sau đó mỗi lần 3 tỷ vào đầu năm 1971 và 1972. Ðến năm 1979 thêm 3 đợt phân phối 
nữa vào đầu năm 1979, 1980, 1981. Tính chung, từ 1970 đến 1986 Quỹ đã tạo ra và phân 
phối tổng cộng 21,4 tỷ SDR, trị giá gần 29 tỷ USD, chiếm khoảng 2% tổng dự trữ thế giới. 
 3.2. Những thỏa thuận về trao đổi các đồng tiền 
Theo quy định của ban điều lệ đầu tiên của IMF, các nước thành viên đều áp dụng hệ 
thống ngang giá tiền tệ và TGHÐ cố định. 
Khi hệ thống ngang giá hối đoái chấm dứt, theo điều khoản IV của điều lệ mới của 
IMF, toàn thể hội viên của IMF đã đồng ý cho mỗi nước thành viên được lựa chọn phương 
pháp xác định giá trị đồng tiền của mình. Chỉ có một yêu cầu duy nhất, đặt ra cho họ là 
không được tiếp tục lấy vàng làm thước đo giá trị đồng tiền của mình nữa(1) và phải thông 
báo một cách xác thực phương pháp định giá cho đồng tiền của mình. 
 3.3. Việc giám sát 
Sự chuyển đổi từ hệ thống ngang giá hối đoái sang hệ thống tỷ giá hối đoái mới hiện 
nay không làm cho ảnh hưởng của IMF đến hệ thống mất đi mà còn mạnh lên. Trên thực tế, 
toàn thể hội viên đã yêu cầu IMF xem xét, nghiên cứu tỉ mỉ tất cả các khía cạnh của nền 
kinh tế có ảnh hưởng đến TGHÐ, đánh giá thành tựu kinh tế của các nước thành viên một 
cách hữu hiệu. 
----------------------------------------------------------------- 
(1) Ðiều III, khoản 3 của Hiệp định thành lập IMF quy định mỗi nước, khi gia nhập IMF 
phải đóng góp 25% tổng số tiền đóng góp bằng vàng của 10% quỹ dự trữ vàng - đô 
la chính thức của nước đó, tuỳ theo loại nào ít hơn. 75% còn lại được đóng bằng tiền quốc 
gia. 
 Từ 1/4/1978 vàng bị phế bỏ chính thức 6 hoạt động của IMF ; đình chỉ việc công bố hàm 
lượng vàng của tiền tệ, phần đóng góp = vàng được thay bằng đóng ngoại tệ dự trữ và đơn 
vị SDR, không dùng vàng để thanh toán giữa IMF và các nước thành viên. Trong thời gian 
1976 - 1979, 1/6 số vàng dự trữ của IMF được hoàn trả lại cho các nước thành viên để đổi 
lấy tiền quốc gia theo giá 35 SDR/ ounce ; 1/6 được bán đấu giá theo giá thị trường; 2/3 còn 
lại được thanh toán theo giá công bố chính thức hoặc theo giá thị trường. 
IMF thực hiện các mục giám sát của mình thông qua các cuộc hội thảo song phương 
với từng nước được tổ chức hàng năm theo điều khoản IV và giám sát đa phương một năm 2 
lần trên cơ sở hoạt động xuất bản ấn phẩm ''triển vọng kinh tế thế giới'' (World Economic 
10 
Outlook - WEO). Bên cạnh đó IMF còn tiến hành các kế hoạch thận trọng, theo dõi và giám 
sát chặt chẽ chương trình đối với các nước thành viên sử dụng nguồn tín dụng của IMF. Các 
kế hoạch thận trọng này nhằm nâng cao lòng tin của cộng đồng quốc tế đổi mới chính sách 
của nước thành viên. Công tác theo dõi chương trình có thể bao gồm việc đề ra các tiêu 
chuẩn đã được xây dựng sẵn chứ có không thành lập nên quy định chính thức của IMF. 
 3.4. Các cuộc hội thảo 
Bên cạnh các cuộc thảo luận định kỳ, IMF cũng tổ chức các cuộc hội thảo với những 
nước có chính sách ảnh hưởng lớn đến kinh tế thế giới. Các cuộc hội thảo đặc biệt này đánh 
giá tình hình kinh tế thế giới và những bước phát triển sắp tới: IMF công bố kết quả đánh 
giá này l năm 2 lần trong tạp chí ''Triển vọng kinh tế thế giới''. Ấn phẩm này bao gồm nhiều 
thông tin có giá trị và nhiều dự đoán về kinh tế thế giới. Hơn nữa, bằng cách nhấn mạnh tới 
các khả năng lựa chọn chính sách khác nhau ấn phẩm này còn giúp cho các nước thành viên 
kết hợp các chính sách kinh tế của chính nước mình với những thay đổi chính sách ở các 
nước thành viên khác. 
 3.5. Trợ giúp tài chính và trợ giúp kỹ thuật 
 Trợ giúp tài chính: 
IMF chỉ cho vay đối với các nước thành viên đang gặp phải các vấn đề về thanh toán, 
tức là các nước không có đủ ngoại tệ để trả cho số hàng nhập khẩu, khi đó các nước phải đối 
mặt với nhiều thực tế khó khăn nổi bật là việc giảm sức mua tiền tệ và giảm nhập khẩu từ 
các nước khác, kéo theo tình trạng sản xuất ngưng trệ. 
Một nước thành viên gặp khó khăn thanh toán có thể ngay lập tức rút từ IMF 25% 
lượng mà nước này đóng góp bằng vàng hoặc bằng tiền có thể chuyển đổi. Nếu 25% này 
không đủ cho nhu cầu của nước đó, nước đó có thể yêu cầu IMF cho vay thêm. Khi cho một 
nước thành viên vay hơn 25% ban đầu, IMF phải tuân thủ theo 2 nguyên tắc. 
Thứ nhất, khoản tiền mà các nước đóng cho IMF sử dụng phải tồn tại phục vụ cho lợi 
ích của tất cả các thành viên. Mỗi nước thành viên khi vay đồng tiền của thành viên khác từ 
Quỹ phải trả lại ngay sau khi khó khăn về thanh toán của nước mình được giải quyết. Bằng 
cách này, vốn của quỹ có thể quay vòng cho tất cả các thành viên và lúc nào cần cũng có. 
Thứ hai, trước khi IMF rút tiền ra khỏi Quỹ, nước thành viên muốn vay phải cho biết 
kế hoạch giải quyết vấn đề thanh toán để có thể trả lại IMF trong thời hạn thông thường là 3 
đến 5 năm. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định, thời hạn này được kéo dài đến 10 
năm. 
IMF cho các nước gặp khó khăn về thanh toán vay tiền dưới nhiều cơ chế khác nhau 
tuỳ theo những vấn đề cụ thể được báo cáo. IMF có 8 loại tín dụng cho vay bằng tiền mặt 
với các điều kiện khác nhau: 
11 
1. Tín dụng thông thường (Ordinaryfacility) 
Cho vay theo chương trình điều chỉnh kinh tế ngắn hạn. 
- Mức vay tối đa : 100% cổ phần của nước thành viên tại Quỹ. 
- Cho vay làm 4 đợt (mỗi đợt 25% tổng mức được vay). Ðợt l có thể rút luôn 1 lần 
25% tổng mức được vay. Các đợt 2,3,4 vay theo từng quý, thực hiện chương trình đến đâu 
vay đến đó. 
- Thời gian vay trả : 5 năm, thời gian ân hạn 3 năm. 
- Lãi suất : 6 - 7,5%/năm. 
2. Tín dụng tài chính bổ sung (Supplementar Financing facitity STF) 
Khi bắt đầu vay đợt 2 tín dụng thông thường thì có thể được vay tín dụng bổ sung để 
bù đắp thiều hụt cán cân thanh toán. 
- Có thể từ 100 - 350% cổ phần của nước thành viên (mức thiếu hụt tùy thuộc cán 
cân thanh toán). 
- Ðiều kiện vay trả, ân hạn, lãi suất như tín dụng thông thường. 
3. Tín dụng chuyển đổi hệ thống (Systemic Transformation Facility STF) 
Ðây là hình thức trợ giúp các nước thành viên gặp khó khăn trong cán cân thanh toán 
do chuyển đổi từ kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường. 
4. Tín dụng điều chỉnh mở rộng ( Extended fund facility EFF) 
Cho các nước thành viên vay để thực hiện chương trình kinh tế trung hạn. Các khoản 
vay được cấp theo tiến độ thực hiện chương trình cam kết. 
- Mức vay tối đa : 140% cổ phần của nước thành viên 
- Thời hạn vay trả : 10 nă m, thời hạn ân hạn : 4 năm 
- Lãi suất : 6 - 7,5%/năm 
5. Tín dụng bù đắp thất thu xuất khẩu 
(Compensatory & Contingencyfnancing Facility CACF) 
Cho các nước đang phát triển vay, khi nước này có đột biến thiếu hụt cán cân thương 
mại trong một năm. 
- Mức vay tối đa : 100% cổ phần của nước thành viên 
- Thời hạn, lãi suất . . . như vay tín dụng thông thường 
6. Tín dụng duy trì dự trữ điều hoà 
12 
(còn gọi là tín dụng kho đệm - Buffer stock Facility) 
Trong trường hợp các nước tham gia các hiệp hội xuất khẩu có sản phẩm xuất khẩu 
do sản phẩm đó mang lại, nhằm giữ lại sản phẩm chờ thanh toán lên mới bán. Ðiều kiện này 
như tín dụng thông thường. 
7. Tín dụng điều chỉnh cơ cấu (Structural Adjustment Credit SAC) 
Cho các nước đang phát triển (có thu nhập < 600 USD/NĂM) vay để thực hiện 
chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế được quỹ chấp nhận. 
- Mức tối đa : 62,5% cổ phần của nước thành viên 
- Rút vốn trong 3 năm : năm thứ nhất 12,5%, năm thứ hai 20%; thứ ba 30% cổ phần. 
- Thời hạn vay trả : 10 nă m, thời hạn ân hạn : 5,5 năm 
8. Tín dụng điều chỉnh cơ cấu mở rộng 
(Extentive Structural Adjustment Facility ESAF) 
Các nước vay SAF cũng được vay ESAF (khi rút vốn đợt 2 của SAF thì được vay ESAF) 
- Mức tối đa : 110 - 255 cổ phần nước thành viên 
- Rút vốn 6 lần trong 3 năm. 
- Thời hạn vay trả : 10 nă m, thời hạn ân hạn : 5,5 năm 
- Lãi suất : 0,5%/năm . 
Hai cơ chế thường được sử dụng là các kế hoạch dự phòng và các kế hoạch mở rộng. 
Hai cơ chế này cung cấp một tín dụng cho thành viên gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ 
nước ngoài để hỗ trợ cho một chương trình kéo dài l đến 2 năm (tín dụng dự phòng, áp dụng 
từ năm 1952), hoặc kéo dài 3 đến 4 năm (tín dụng mở rộng, áp dụng từ 1974 cho 1 nước gặp 
phải sự rối loạn nghiêm trọng trong cán cân thanh toán) nhằm giúp nước đó có thời gian tổ 
chức lại nền tài chính và tiến hành các biện pháp duy trì tăng trưởng kinh tế. Trong suốt quá 
trình thực hiện chương trình nước đó có thể vay từ IMF theo định kỳ cho hết giá trị tín dụng 
để thanh toán nước ngoài, với điều kiện nước đó tiếp tục chương trình điều chỉnh chính 
sách. 
Trợ giúp về tài chính bao gồm các khoản vay và tín dụng mà IMF cho các nước 
thành viên gặp khó khăn về cán cân thanh toán vay nhằm hỗ trợ cho các chính sách điều 
chỉnh và cải cách. Ngày 31/7/97, IMF đã có thỏa thuận tài chính trên với 50 nước thành viên 
với 1 khoản tiền là 16,831 tỷ SDR (khoảng 22,865 tỷ USD). 
Bởi vì mỗi nước thành viên đều có quyền vay của quỹ lương tiền gấp mấy lần khoản 
lệ phí đóng góp nên IMF có thể không đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu vay của nhiều nước 
13 
thành viên trong cùng một thời điểm. Ðể đối phó tình huống có thể xảy ra này. Từ năm 
1962 IMF đã có được “ mức tín dụng” trị giá 24 tỷ USD với nhiều Chính phủ và ngân hàng 
trên khắp thế giới. Mức tín dụng này được gọi là “ hiệp định chung về cho vay“ General 
Agreement to Borrow - GAB, cứ 5 năm lại sửa đổi một lần. Theo hiệp định này, các nước 
trả lãi vay và hoàn trả vốn trong 5 năm. Thỏa thuận này được củng cố thêm bởi quyết định 
về “những thỏa thuận mới về vay” New Agreement to Borrow - NAB mà khi có hiệu lực sẽ 
tập hợp được 40 - 45 tỷ USD. 
Ngoài ra, IMF còn vay tiền Chính phủ các nước thành viên hoặc các cơ quan tiền tệ 
để tài trợ cho một số chương trình cụ thể vì lợi ích các thành viên. Trong thập kỷ qua, nhờ 
việc sử dụng chế độ “đánh giá mức tín nhiệm” (credit rating) có hiệu quả, IMF đã vay tiền 
để cung cấp cho thành viên đang túng quẫn của mình nhiều hơn, dài hạn hơn và với nhiều 
điều kiện ưu đãi hơn mà nếu họ tự đi vay thì không thể nào đạt được 
 Trợ giúp kỹ thuật: 
Bên cạnh công việc giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế và hỗ trợ tài chính cho các nước 
thành viên, IMF còn giúp đỡ các nước thành viên bằng việc thiết lập 1 học viện giáo dục tại 
Washington, hỗ trợ về kỹ thuật cho các nước thành viên trong một số lĩnh vực chuyên môn 
nhất định mà IMF có thể và bằng cách phát hành nhiều ấn phẩm liên quan tới các vấn đề 
tiền tệ quốc tế 
Do nắm bắt được những thông tin về tài chính, tiền tệ và nợ nước ngoài của từng 
nước thành viên nên IMF là một tổ chức duy nhất có thể chuyển các thông tin như vậy tới 
tất cả các nước thành viên. IMF coi việc trao đổi số liệu thống kê là điều tối cần thiết đối với 
quan điểm hợp tác của tổ chức này. Do vậy ngay từ đầu, IMF đã phát hành các ấn phẩm tài 
chính hàng tháng và hàng năm như cuốn “thống kê tài chính quốc tế ” 
Ngoài những ấn phẩm thống kê và ấn phẩm ''triển vọng kinh tế thế giới'' xuất bản 6 
tháng/1lần IMF còn ấn hành một báo cáo thường niên với các thông tin toàn diện về hoạt 
động của IMF trong năm: sách, tài liệu chuyên đề về các khía cạnh kinh tế, thể chế và pháp 
luật của hệ thống tiền tệ quốc tế, bản điều tra của IMF (bán nguyệt san) tập hợp các bài báo 
về hoạt động của IMF của từng quốc gia của tài chính quốc tế... Ngoài việc truyền thông 
bằng các tài liệu trên mạng World wide web, IMF sẵn sàng cung cấp nhiều bài viết trong 
các ấn phẩm của IMF cũng như nhiều bài viết đầy đủ trong tất cả các công văn ra đời từ đầu 
năm 1977. 
Quan hệ với Việt Nam: 
Hiện nay cổ phần của Việt Nam tại quỹ chiếm 0,155% tổng khối lượng cổ phần và 
có tỷ lệ phiếu bầu là 0,17% tổng số quyền bỏ phiếu. 
Việt Nam thuộc nhóm nước Đông Nam Á gồm các nước: Singapore, Tonga, 
Nepal, Myanmar, Malaysia, Lao, Indonexia, Fiji, Campuchia, Brunây. 
14 
Chính quyền Sài Gòn tham gia Quỹ tiền tệ quốc tế từ ngày 18/08/1956, sau giải 
phóng Miền Nam tháng 5/1976 Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính 
thức thừa kế t ư cách hội viên IMF từ chính quyền Sài Gòn và được quyền hưởng các 
khoản vay từ IMF. Giai đoạn 1976- 1981 IMF đã cho Việt Nam vay 7 khoản với tổng số 
205,7 triệu SDR (Quyền rút vốn đặc biệt) để giải quyết khó khăn trong cán cân thanh 
toán quốc tế. Đến ngày 15/01/1985 Việt Nam đã trả được 74 triệu SDR. Nhưng sau đó 
không trả được nợ cho Quỹ tiền tệ quốc tế. Từ năm 
1984 Việt Nam đã bắt đầu phát sinh nợ quá hạn đối với IMF. Ngày 15/10 năm 1985 
IMF đã quyết định đ ình chỉ quyền vay vốn của Việt Nam với lý do không trả đ ược nợ 
quá hạn. Tính đến ngày 03/10/1993 tổng nợ qúa hạn của Việt Nam với IMF là 
100.179.340 SDR. Tháng 7/1993 
Chính phủ Mỹ nới lỏng lệnh cấm vận với Việt Nam, cho phép Việt Nam đ ược tái gia 
nhập các tổ 
chức tài chính tiền tệ quốc tế và để có thể tiếp tục được vay tiền của Quỹ tiền tệ quốc 
tế, ngày 
05/10/1993 Việt Nam đã thanh toán xong công nợ với Quỹ tiền tệ 
quốc tế. 
Để thanh toán được nợ 140 triệu USD, Chính phủ Việt Nam đã huy động vốn t ừ 
ha i ngu ồn: 
Nguồn viện trợ không hoàn lại 56 triệu USD (40%) do Pháp, Nhật, mỗi nước viện trợ 17,5 
triệu USD,17,5 triệu USD, khối Bắc Âu 10 triệu, Thuỵ Sỹ 7 triệu, Úc 3 triệu, Phần Lan, 
Canada mỗi nước 1 triệu 
Nguồn vốn vay bắc cầu 84 triệu USD (60%) với lãi suất 2,7 % /năm do liên kết 
18 ngân hàng của các nước thực hiện. 
Ngay sau khi thanh toán xong nợ 06/10/1993, Quỹ tiền tệ tuyên bố sẽ cho Việt 
Nam vay ngay khoản tiền 233 triệu USD và hàng năm sẽ cho vay khoản 360 triệu USD 
với lãi suất ưu đãi 
5%/năm. 
Ngoài việc cho Việt Nam vay, Quỹ tiền tệ quốc tế còn hỗ trợ cho phát triển kinh 
tế Việt 
Nam dưới 3 h ình thức sau: 
+ Giúp Việt Nam hoạch định chính sách kinh tế và quản lý vĩ mô 
+ Giúp đào tạo cán bộ ngân hàng, tài chính, thống kê 
+ Tác động đến các chủ nợ là các thành viên của Câu lạc bộ Paris hoãn và giảm 
nợ cho 
Việt Nam. 
Hiện nay, IMF cùng với Ngân hàng thế giới hỗ trợ Việt Nam thực hiện cải cách 
nền kinh tế, tạo ra môi tr ường pháp lý kinh doanh thuận lợi, mang tính hội nhập để các 
thành phần kinh tế phát triển dưới tác động của cơ chế thị trường. 
15 
NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WB) 
I. KHÁI QUÁT CHUNG 
1. Hoàn cảnh ra đời 
Ngân hàng Thế giới (WB) được thành lập vào năm 1944, trụ sở chính đặt tại 
Washington, D.C. WB hiện có hơn 9000 nhân viên làm việc tại hơn 100 văn phòng đại diện 
trên toàn thế giới. 
WB là một tổ chức quốc tế gồm có 5 cơ quan hoạt động tương đối độc lập với nhau 
gồm: (i) Hiệp hội Phát triển Quốc Tế (IDA); (ii) Ngân hàng Quốc tế về Tái Thiết và Phát 
triển (IBRD); (iii) Công ty Tài chính Quốc Tế (IFC); (iv) Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa biên 
(MIGA); và (v) Trung tâm Quốc tế về xử lý tranh chấp Đầu tư (ICSID). Tuy nhiên, nói đến 
WB là nói đến hai tổ chức IBRD và IDA. Mỗi tổ chức đều có vai trò riêng biệt trong cuộc 
đấu tranh xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân các nước đang phát 
triển. 
2. Mục đích và nguyên tắc hoạt động 
16 
1.1. Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) là tổ chức trực thuộc nhóm WB, được thành 
lập năm 1960. IDA chuyên cung cấp các khoản hỗ trợ tài chính cho các quốc gia nghèo nhất 
thế giới với mục tiêu nhằm xóa đói giảm nghèo thông qua việc cung cấp các khoản cho vay 
không có lãi suất (còn gọi là khoản tín dụng) cũng như các khoản viện trợ không hoàn lại 
cho các chương trình/dự án để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa bỏ bất bình đẳng cũng như 
cải thiện đời sống. 
IDA được tài trợ từ nguồn đóng góp của các quốc gia giàu có trên thế giới và nguồn 
IBRD và IFC. Ba năm một lần, WB, các nhà tài trợ và một số các quốc gia đi vay sẽ nhóm 
họp để quyết định bổ sung nguồn vốn cho IDA. Kể từ khi thành lập tới nay, IDA đã tổ chức 
16 phiên họp để kêu gọi các nhà tài trợ góp vốn bổ sung cho hoạt động của IDA. 
Tiêu chuẩn để được vay IDA tùy thuộc vào mức độ đói nghèo tương đối của quốc gia 
đó, được xác định theo tỷ lệ Tổng thu nhập Quốc dân (GNI) theo đầu người dưới ngưỡng 
quy định của WB và được cập nhật hàng năm (hiện nay ngưỡng này là 1.305 USD). 
1.2. Ngân hàng Quốc Tế về Tái Thiết và Phát triển (IBRD) là một tổ chức trực thuộc 
WB, được thành lập năm 1945. Mục tiêu hoạt động của IBRD nhằm xóa đói và duy trì sự 
phát triển bền vững cho các nước đang phát triển có thu nhập đầu người tương đối cao 
thông qua các khoản vay, bảo lãnh và các dịch vụ nghiên cứu và tư vấn. Lãi suất của các 
khoản vay được tính theo LIBOR và được điều chỉnh 6 tháng một lần. Thời hạn vay từ 15- 
20 năm, có 5 năm ân hạn. 
1.3. Công ty Tài chính quốc tế (IFC) là tổ chức được thành lập năm 1956. Mục tiêu 
hoạt động của IFC là hỗ trợ khu vực tư nhân bằng cách cung cấp các khoản vay dài hạn, đầu 
tư cổ phần, bảo lãnh, quản lý rủi ro và các dịch vụ tư vấn. Lãi suất tính theo lãi suất thị 
trường, thay đổi theo từng nước và từng dự án. Thời hạn vay từ 3- 13 năm, có 8 năm ân hạn. 
1.4. Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa biên (MIGA) là tổ chức được thành lập năm 1988. 
Mục tiêu hoạt động của MIGA nhằm giúp các nước đang phát triển thu hút đầu tư nước 
ngoài bằng việc cung cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài những bảo lãnh đầu tư đối với “ rủi 
ro phi thị trường”. Ngoài ra, MIGA còn cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật để phổ biến 
thông tin về cơ hội đầu tư 
17 
1.5. Trung tâm Quốc Tế về xử lý tranh chấp Đầu tư (ICSID) là đơn vị được thành lập 
năm 1966. Mục tiêu hoạt động của ICSID nhằm thúc đẩy nguồn đầu tư quốc tế ngày càng 
tăng bằng cách cung cấp phương tiện cho việc hòa giải và trọng tài về những tranh chấp 
giữa các Chính phủ và các nhà đầu tư, đồng thời tiến hành nghiên cứu, xuất bản ấn phẩm 
trong lĩnh vực luật đầu tư nước ngoài của các nước. 
II. QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM 
Ngày 18/8/1956, chính quyền Sài gòn Nam Việt Nam đã gia nhập WB. Ngày 
21/9/1976, nước CHXHCN Việt Nam tiếp quản tư cách hội viên tại WB của Chính quyền 
Sài Gòn cũ. Cổ phần của Việt nam tại WB được phân bổ như sau: 
+ IBRD là 968 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 1218, chiếm 0,07%; 
+ IDA là 14.778 cổ phần với tổng số phiếu bầu là 61.168, chiếm 0,3%; 
+ IFC là 446 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 696, chiếm 0,03%; 
+ MIGA là 388 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 629, chiếm 0,29%; 
Trong WB, Việt Nam thuộc Nhóm nước Đông Nam Á gồm 11 nước là Brunây, Fiji, 
Inđônêxia, Lào, Malaysia, Myanma, Nêpan, Singapore, Thái lan, Tông ga và Việt Nam 
Sau một thời gian dài gián đoạn (tư 1978-1993), Việt Nam chính thức nối lại quan hệ 
với WB vào tháng 10/1993. Từ đó đến nay, mối quan hệ Việt Nam – WB ngày càng được 
tăng cường và phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian này, nhiều Đoàn cán bộ cấp cao của WB 
đã sang thăm và làm việc tại Việt Nam để trao đổi với Chính phủ về tình hình phát triển kinh 
tế xã hội của Việt Nam và tìm hiểu nhu cầu hỗ trợ giúp của Chính phủ. Ban Giám đốc Điều 
hành của WB cũng cam kết sẽ tiếp tục cung cấp những hỗ trợ cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu 
của Chính phủ, góp phần hỗ trợ Việt nam thực hiện thành công Chương trình Xoá đói Giảm 
nghèo và Phát triển Kinh tế Xã hội. Kể từ năm 1993 đến nay, mức cam kết cho Việt Nam 
ngày càng tăng. Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước vay ưu đãi lớn nhất từ IDA. 
Bên cạnh nguồn vốn vay ưu đãi IDA, Việt Nam bắt đầu triển khai vay vốn từ nguồn 
Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD) từ năm 2009. Như vậy, kể từ năm 2009, 
18 
Việt Nam đã trở thành nước vay hỗn hợp từ WB (tức là vừa vay từ nguồn IBRD và từ 
nguồn IDA). 
Vừa qua, WB đã thông qua Nghị quyết về điều chỉnh thời hạn vay IDA của các nước 
vay hỗn hợp, trong đó có Việt Nam, theo đó, thời hạn vay sẽ giảm từ 35 năm với 10 năm ân 
hạn, không có lãi suất, phí dịch vụ 0,75%/năm tính trên số vốn đã rút và phí cam kết tối đa 
là 0,5%/năm tính trên số vốn chưa rút xuống còn 25 năm với 5 năm ân hạn, lãi suất 1,25% 
(phí dịch vụ và phí cam kết vẫn giữ nguyên). 
Văn phòng đại diện của WB tại Việt Nam: Ngày 14/09/1994, WB chính thức mở 
Văn phòng tại Hà nội. Từ năm 1993 đến nay, WB đã bổ nhiệm nhiều cán bộ giữ chức vụ 
Giám đốc Văn phòng WB tại Việt nam: ông Bradley Babson (1993-1997), ông Andrew 
Steer (1997-2002), ông Klaus Rohland (2002 – 2007), ông Ajay Chibber (2007 – 2009) và 
hiện nay là Bà Victoria Kwakwa. 
III. TIN HOẠT ĐỘNG 
1. Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia (CPS) 
Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia (CPS) giai đoạn 2012 – 2016 là Chiến lược hỗ trợ đầu 
tiên của WB dành cho Việt Nam kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành quốc gia có thu 
nhập trung bình thấp. Đây là Chiến lược được WB xây dựng để hỗ trợ Chính phủ Việt Nam 
thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 – 2015. Nội dung CPS lần này 
của WB tập trung chủ yếu vào hỗ trợ Chính phủ thực hiện các nội dung bao gồm: (i) 
tăng khả năng cạnh tranh của Việt Nam; (ii) tăng tính bền vững của quá trình phát triển; và 
(iii) mở rộng điều kiện tiếp cận các cơ hội kinh tế và xã hội. Đây là những nội dung mà 
Chính phủ Việt Nam cho rằng là phù hợp với các nội dung đột phá của Kế hoạch Phát triển 
kinh tế xã hội 2011 – 2015 của Việt Nam (Tăng cường nền tảng thể chế, phát triển cơ sở hạ 
tầng và con người). 
2. Tài trợ cho các chương trình/dự án: 
Tính đến tháng 2 năm 2012, các khoản cam kết tài chính của Ngân hàng Thế giới cho 
Việt Nam (bao gồm cả IBRD và IDA) trị g iá gần 15 tỷ USD cho 111 dự án.Các khoản tín 
dụng này tập trung vàolĩnh vực cơ sở hạ tầng, bao gồm giao thông và phát triển đô thị, phát 
19 
triển nông thôn, năng lượng, quản lý tài nguyên nước, cải cách hành chính công, tài chính, 
giáo dục, y tế và dịch vụ xã hội, và môi trường. 
Chỉ tính riêng trong tài khoá năm 2011 (tính từ tháng 7/2010 đến 30/6/2011), WB tài 
trợ cho Việt Nam tổng số tiền là 2.348 tỷ USD cho 13 chương trình/dự án (trong đó: vay từ 
nguồn IBRD là 1,081 IBRD; vay từ nguồn IDA là 1,267). 
Đối với tài khoá 2012 (bắt đầu từ 01/7/2011 đến 30-6/2012), WB đã cam kết tài trợ 
cho Việt Nam tổng số tiền 2,197 tỷ USD (trong đó: 1,597 tỷ USD từ nguồn IDA; và 600 triệu 
USD từ nguồn IBRD) (trong Tài khoá 2012 này, Việt Nam vẫn tiếp tục là một trong những 
nước được phân bổ nhiều nguồn vốn vay từ IDA). Trong tổng số vốn cam kết này, tính đến 
tháng 11/2011, ta đã đàm phán với WB 02 dự án với tổng trị giá 307 triệu USD. Dự kiến, số 
vốn còn lại sẽ được đàm phán với WB trong thời gian từ nay đến tháng 6/2012. 
3. Hỗ trợ kỹ thuật và các báo cáo: 
Các hỗ trợ kỹ thuật của WB dành cho Việt Nam tập trung vào các lĩnh vực như: hỗ trợ 
chuẩn bị và xây dựng các dự án do WB tài trợ, phát triển thể chế nhằm xây dựng và nâng cao 
năng lực quản lý điều hành của một số ngành và cơ quan liên quan đến dự án, xây dựng và phát 
triển chính sách nhằm nâng cao khuôn khổ chính sách, pháp lý cho các dự án hạ tầng cơ sở... 
Ngoài ra, hàng năm WB còn cử các đoàn vào Việt Nam phối hợp với các Bộ/ngành 
soạn thảo và phát hành các báo cáo kinh tế, báo cáo ngành, xây dựng Chiến lược Đối tác 
Quốc gia (CPS). Đặc biệt, trong thời gian qua WB đã phối hợp với các quan hữu quan của 
Việt Nam hoàn thành dự thảo Chiến lược Đối tác Quốc gia, làm cơ sở cho các hoạt động 
hợp tác cho giai đoạn (2011-2015). Theo dự kiến văn bản này sẽ được Ban Lãnh đạo WB 
thông qua vào ngày 15/12/2011. 
Ngoài ra, vừa qua, WB đã cam kết sẽ phối phối hợp với IMF để hỗ trợ Việt Nam 
thực hiện Chương trình Đánh giá Khu vực Tài chính (FSAP) để giúp Việt Nam đánh giá 
tổng thể khu vực tài chính, từ đó có kế hoạch tăng cường năng lực nhằm đáp ứng với nhu 
cầu của sự phát triển kinh tế. Trong thời gian tới, WB/IMF sẽ phối hợp với Việt Nam tiến 
hành các công việc cần thiết để xây dựng Chương trình và chuẩn bị cho quá trình thực hiện 
(dự kiến triển khai vào cuối năm 2012). 
20 
4. Tư vấn chính sách: 
Trong thời gian qua WB còn hỗ trợ Việt Nam trong việc đưa ra tư vấn về chính sách 
giúp Việt Nam hoàn thiện khuôn khổ thể chế trên mọi lĩnh vực và giúp Việt Nam ổn định 
kinh tế vĩ mô, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. 
5. Điều phối các nhà tài trợ: 
Hàng năm, Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) do WB đồng chủ tọa 
được tổ chức nhằm vận động các nhà tài trợ cung cấp hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và điều phối 
viện trợ giữa các nhà tài trợ cho Việt Nam. Đây là một diễn đàn giữa Chính phủ Việt Nam 
và đại diện của khoảng 50 các nhà tài trợ song phương và đa phương cho Việt nam. Các tổ 
chức phi chính phủ Việt Nam và quốc tế, các đại diện của Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam 
tham gia Hội nghị với tư cách quan sát viên. Hội nghị CG được tổ chức 2 lần/năm: Hội nghị 
chính thức thường được tổ chức vào tháng 12 hàng năm tại Hà nội. Hội nghị không chính 
thức giữa kỳ được tổ chức vào tháng 5 hoặc tháng 6 hàng năm. 
6. Hài hoà hoá thủ tục: 
WB là một trong những nhà tài trợ đi tiên phong trong việc thực hiện Cam kết Hà 
Nội bằng cách tăng cường tài trợ thông qua các phương thức tiếp cận chương trình, ngành, 
quốc gia. Cách tiếp cận chương trình có những đặc tính sau: (i) Vai trò lãnh đạo của nước 
tiếp nhận, (ii) Chương trình tổng hợp và khung ngân sách duy nhất, (iii) Quá trình phối hợp 
tài trợ và hài hoà thủ tục và (iv) Nỗ lực sử dụng nhiều hơn quy trình và quy định của Chính 
phủ trong toàn bộ chu trình. Các phương thức cung cấp hỗ trợ của WB ở Việt Nam trong 
tương lai sẽ bao gồm dự án, chương trình, hỗ trợ ngân sách chung và hỗ trợ ngân sách có 
mục tiêu nhằm khuyến khích nâng cao hiệu quả và hiệu lực của việc cung cấp vốn vay. 
Trong thời gian qua, WB cũng tích cực phối hợp với Chính phủ và 5 Ngân hàng 
trong việc rà soát, đánh giá và triển khai các sáng kiến hài hoà, đơn giản hoá thủ tục nhằm 
hướng tới việc đẩy nhanh giải ngân và hiệu quả sử dụng vốn của các dự án ODA. 
7. Các chương trình hỗ trợ ngân sách trực tiếp của WB cho Việt Nam: 
21 
Trong thời gian qua, WB đã tài trợ cho Việt Nam một số các chương trình hỗ trợ ngân 
sách lớn như Chương trình Tín dụng Hỗ trợ Giảm nghèo (PRSC) và Chương trình Cải cách 
Đầu tư công (PIR). Cụ thể: 
- Về Chương trình PRSC: là chương trình hỗ trợ ngân sách trực tiếp hàng năm của 
WB cho Việt Nam. Chương trình này được bắt đầu thực hiện từ năm 2011 và tập trung vào 
các hành động cải cách chính sách trên diện rộng đối với toàn bộ nền kinh tế. Cho tới nay, 
WB đã hỗ trợ cho Việt Nam 10 Chương trình PRSC với tổng vốn vay ưu đãi gần 2 tỷ USD; 
tổng số vốn đồng tài trợ từ các nhà tài trợ là hơn 1 tỷ USD. Toàn bộ số vốn này đã được giải 
ngân và chuyển vào ngân sách nhà nước để thực hiện đầu tư theo quy trình thủ tục trong 
nước. Chương trình PRSC sẽ kết thúc sau khi hoàn tất Chương trình PRSC 10 (vào cuối 
năm 2011). 
- Về Chương trình Hậu PRSC (Chương trình EMCC): Ngày 27/12/2010, Văn phòng 
Chính phủ đã có công văn số 9392/VPCP-QHQT về việc đồng ý về chủ trương các Bộ, 
ngành phối hợp với WB để thiết kế và xây dựng Chương trình Hậu PRSC theo phương án 
“Mô hình Chương trình Chính sách phát triển đa ngành với phạm vi hẹp hơn” để triển khai 
sau khi kết thúc Chương trình PRSC 10. T rong thời gian qua, NHNN đã phối hợp với các 
Bộ, ngành hữu quan để thảo luận với WB về các nội dung liên quan đến Chương trình 
(gồm: mục tiêu, thiết kế Chương trình, cơ chế tổ chức thực hiện...). 
- Về Chương trình Cải cách Đầu tư công (PIR): Chương trình PIR gồm 02 khoản vay 
với tổng trị giá 850 triệu USD có mục tiêu hỗ trợ Chính phủ cải thiện chất lượng và hiệu quả 
hoạt động đầu tư, đặc biệt là đầu tư công ở Việt Nam, qua đó góp phần đẩy nhanh tiến độ 
thực hiện các chương trình dự án vay vốn các nhà tài trợ. Khoản vay này còn đặc biệt quan 
trọng vì đây là khoản vay khẩn cấp được WB cung cấp trong bối cảnh khung hoảng tài 
chính toàn cầu nhằm giúp Việt Nam đối phó với khủng hoảng và chống suy giảm kinh tế. 
Đến nay, Chính phủ đã hoàn thành các điều kiện của Chương trình và rút toàn bộ số vốn trị 
giá 850 triệu USD. 
Ngoài các chương trình lớn nói trên, WB còn hỗ trợ Việt Nam nhiều chương trình hỗ 
trợ ngân sách trực tiếp khác nhằm hỗ trợ Việt Nam thực hiện các Chương trình Mục tiêu 
22 
Quốc gia như: Chương trình 135 giai đoạn 2, Chương trình Mục tiêu Quốc gia Giáo dục cho 
mọi người, Chương trình cải cách ngành điện..... 
Nhìn chung, các khoản vay này đã hỗ trợ việc thực hiện cải kinh tế Việt Nam; đồng thời góp 
phần giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ của ngân sách nhà nước cũng như tăng dự trữ 
ngoại hối của nhà nước. 
8. Chương trình Đánh giá Khu vực Tài chính (FSAP) 
Nhằm hỗ trợ các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia hội viên của Ngân 
hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tăng cường sự ổn định và phát triển của 
khu vực tài chính của mình, từ đó góp phần vào sự ổn định và phát triển của khu vực tài 
chính trên toàn cầu, từ năm 1999, WB và IMF đã khởi xướng và phối hợp với các nước hội 
viên thực hiện Chương trình Đánh giá Khu vực Tài chính (FSAP). Đây là dịp để các quốc 
gia tiến hành rà soát tổng thể khu vực tài chính của mình nhằm tìm ra những điểm mạnh, 
điểm yếu để đưa ra định hướng điều chỉnh chính sách phù hợp; đồng thời đưa trên những 
đánh giá này, xây dựng nhu cầu tăng cường năng lực nhằm đảm bảo xây dựng được một hệ 
thống tài chính đủ mạnh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 
Các nước tham gia Chương trình FSAP trên cơ sở tự nguyện. Các nước không phải là 
hội viên của WB và IMF cũng có thể được hỗ trợ thực hiện Chương trình khi có đề nghị 
chính thức từ phía Chính phủ. Đến nay đã có 148 nước hoàn thành đợt đánh giá đầu tiên của 
Chương trình FSAP. 
Mục tiêu của các đánh giá trong FSAP là nhằm đưa ra phân tích tổng hợp về sự phát 
triển và tính ổn định về tài chính. Trong đó, đánh giá tính ổn định về tài chính có nghĩa là 
xem xét về: (i) một môi trường kinh doanh mà có thể ngăn ngừa một số lượng lớn các định 
chế tài chính khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán và đổ vỡ; (ii) các điều kiện mà có thể 
tránh được những biến động đáng kể đối với việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Đánh giá 
sự phát triển về tài chính có nghĩa là xem xét tới quá trình tăng cường và đa dạng hóa cung 
cấp các dịch vụ tài chính nhằm đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế, góp phần vào sự tăng 
trưởng kinh tế. 
23 
Ngày 14/3/2011, tại văn bản số 1492/VPCP-QHQT, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý 
chủ trương việc triển khai FSAP. Ngân hàng Nhà nước với tư cách là cơ quan chủ trì thực 
hiện Chương trình FSAP đã: (i) thông báo chính thức với IMF/WB về ý kiến của Thủ tướng 
Chính phủ; (ii) phối hợp với các Bộ ngành hữu quan đề xuất cơ chế tổ chức thực hiện 
chương trình; (iii) làm việc với Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) để 
xác định các nội dung chi tiết và thời điểm thích hợp để triển khai Chương trình tại Việt 
nam. 
(Nguồn: Bộ Ngoại giao cập nhật đến tháng 9/2012) 
24 
Ngân hàng phát triển châu Á ADB (Asia 
Development Bank) 
Tổng quan về ADB 
Khái quát: 
ADB là một ngân hàng đa phương cung cấp các khoản tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật 
nhằm giúp các nước châu Á xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, xã hội, thúc đẩy tăng 
trưởng kinh tế và hợp tác trong vùng. 
12/12/1966 ADB được thành lập tại Manila Phillipin với 31 nước thành viên sang lập 
Từ 31 nước thành viên ban đầu tính đến tháng 2/2007, ADB đã phát triển với 67 thành 
viên trong đó gồm: 48 nước đến trong khu vực châu Á, Thái Bình Dương và 19 nước ngoài 
khu vực. 
Năm Việt Nam làm thành viên: 1966 
Trụ sở chính ở Manila, phillippin 
Cơ cấu tổ chức của ADB: 
Cơ quan ra quyết định cao nhất của ADB là ban thống đốc do mỗi quốc gia thành 
viên đóng góp một đại diện, trong số đó lại bầu ra 12 thành viên của ban giám đốc và các 
cấp (8 trong số đó thuộc các quốc gia châu Á Thái Bình Dương, còn lại là các nước ngoài 
khu vực) 
Trong ban thống đốc thì chủ tịch ngân hàng là người đứng đầu và điều hành ADB, 
mỗi chủ tịch có nhiệm kỳ 5 năm, có thể tái đắc cử. theo truyền thống và vì Nhật Bản là cổ 
đông lớn nhất nên các đời tổng thống luôn là người Nhật. 
Hiện nay, trụ sở chính của ADB đặt tại Manila, Phillippin, với các ngân hàng đại 
diện trên khắp thế giới. 
Chủ tịch đương nhiệm của ADB là Haruhiko Kuroda 
25 
Chức năng, chiến lược và mục tiêu hoạt động: 
Chức năng: 
Chức năng của ADB là hỗ trợ sự tăng trưởng kinh tế bền vững và công bằng; phát triển xã 
hội và quản lý kinh tế tốt. 
Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững và công bằng: Để tăng trưởng bền vững và 
công bằng, cần có sự can thiệp trong khi vẫn đảm bảo một sự phát triển thân thiện với môi 
trường. 
Phát triển xã hội: Hỗ trợ các cá nhân, nhóm, cộng đồng nhằm giảm thiểu những rủi 
ro trong quá trình phát triển kinh tế. 
Quản lý kinh tế tốt: Thực hiên các chính sách kinh tế một cách có trách nhiệm, có sự 
tham gia, có khả năng dự đoán, và minh bạch, chống tham nhũng. 
Chiến lược và mục tiêu 
Chiến lược của ADB đến năm 2020 - một khung chiến lược dài hạn được thông qua 
năm 2008, bên cạnh các mục tiêu: 
- Tăng trưởng kinh tế bền vững 
- Phát triển toàn diện xã hội 
- Quản lý thể chế và chính sách có hiệu quả 
- Nâng cao vai trò của khu vực tư nhân trong sự phát triển 
ADB sẽ thực hiện ba chương trình hành động chiến lược bổ sung đó là: 
- Tăng trưởng toàn diện theo chiều sâu 
- Tăng trưởng bền vững về môi trường 
- Hợp tác và hội nhập khu vực 
Nguồn tài chính và hoạt động của ADB: 
Nguồn tài chính 
Nguồn vốn thông thường (OCR): 
OCR có được từ 3 nguồn 
26 
 Vốn góp 
 Vốn huy động thông qua hoạt động vay vốn trên thị trường tài chính quốc tế 
 Thu nhập giữ lại t ích lũy (dự trữ). 
Các khoản vay OCR có lãi suất thông thường trên thị trường 
Vốn pháp định ban đầu là 1 tỷ USD. Việc phân bổ vốn góp ban đầu với các nước trong khu 
vực dựa vào tổng sản phẩm quốc dân trên đầu người và thu nhập xuất khẩu. Với các nước 
ngoài khu vực thì đóng góp trên cơ sở tự nguyện, tối thiểu là 5 triệu USD. Mỹ và Nhật Bản 
là hai nước có số vốn góp ban đầu lớn nhất, gần 200 triệu USD. 
Điều kiện vay vốn: Các khoản vay OCR có kỳ hạn và thời gian ân hạn tùy thuộc vào 
tính chất của dự án (thường có kỳ hạn 15-25 năm và thời kỳ ân hạn 4-6 năm). Từ tháng 
7/2002, ADB đã áp dụng chính sách vốn vay dựa trên LIBOR đối với nguồn vốn OCR. 
Theo chính sách này, kể từ 7/2002 các khoản vay OCR sẽ có mệnh giá bằng đô la Mỹ, euro 
hoặc đồng yên. Bên vay có thể chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất vay vốn thả nổi dựa trên 
LIBOR. Hiện nay, ADB áp dụng LIBOR cộng với sai biệt cố định 0,6% để bù đắp cho chi 
phí quản lý. 
Nguồn vốn đặc biệt: 
Chủ yếu là do vốn góp của các nước hội viên có nền kinh tế phát triển, có thu nhập 
cao đóng góp. Đây là nguồn vốn cho vay ưu đãi với các nước kém phát triển cho vay với 
các điều kiện ưu đãi nhất định. 
Các quỹ đặc biệt: 
Quỹ phát triển châu Á (ADF): 
ADF được huy động từ sự đóng góp định kỳ của 26 nhà tài trợ thành viên. Các bên 
vay ADF là các DMC có tổng thu nhập quốc dân (GNP) trên đầu người thấp và khả năng 
trả nợ hạn chế hoặc ít có khả năng tiếp cận với các nguồn vốn vay lãi suất thấp trên thị 
trường. 
Các điều khoản tài trợ áp dụng trong các dự án vốn vay ADF: 
 Kỳ hạn 32 năm, bao gồm 8 năm ân hạn với lãi suất 1% và lãi suất 1,5% trong giai 
đoạ trả nợ gốc và khối lượng thanh toán nợ như nhau qua các lần. 
 Các khoản vay chương trình cũng có điều khoản vay tương tự, trừ một điểm khác là 
có kỳ hạn ngắn hơn là 24 năm. 
27 
 Đối với khoản vay Hỗ trợ khẩn cấp, điều kiện là: kỳ hạn 40 năm, bao gồm 10 năm ân 
hạn với lãi suất 1% mỗi năm và hoàn trả gốc với lãi suất 2% trong 10 năm sau thời 
kỳ ân hạn và 4% đối với các năm sau đó. ADB không thu phí cam kết gắn với các 
khoản vay ADF. 
Quỹ hỗ trợ kỹ thuật (TASF) 
Quỹ hỗ trợ kỹ thuật là nguồn trợ giúp cho không, do các nước hội viên tự nguyện 
đóng góp. Bằng quỹ này, ngân hàng châu Á giúp các nước hội viên đang phát triển hình 
thành và thực hiện các dự án phát triển. Ngân hàng cũng dung quỹ để tài trợ cho các nghiên 
cứu và hoạt động mang tính chất khu vực. 
Quỹ đặc biệt của Nhật Bản (JSF) 
Quỹ này hình thành tháng 03/1988 bằng một hiệp ước tài chính giữa ADB và chính 
phủ Nhật Bản. Trong đó, Nhật Bản đóng góp toàn bộ số vốn ban đầu và ADB là bên quản lý 
vốn. Hàng năm Nhật Bản đóng góp thêm vốn tuỳ thuộc tình trang sử dụng quỹ. Mục đích 
của quỹ này là giúp các nước hội viên đang phát triển cải tổ cơ cấu kinh tế và tăng cường 
khả năng khai thác nguồn đầu tư qua đó giúp cho họ quay vòng vốn của ngân hàng. 
Hoạt động của ADB 
ADB có các công cụ tài chính khác nhau đối với các chính phủ và khu vực tư nhân của 
các nước thành viên đang phát triển dựa trên trên cơ sở các ưu tiên của nước thành viên đó. 
Các công cụ tài trợ mà ADB sử dụng bao gồm cho vay, hỗ trợ kỹ thuật, bảo lãnh (dựa trên 
uy tín và rủi ro chính trị) và đầu tư cổ phần. 
Hoạt động cho vay 
Theo tính chất nguồn vốn vay, các khoản vay của ADB được chia làm 2 loại: cho vay 
ưu đãi từ nguồn vốn ADF và cho vay theo lãi s

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_to_chuc_tien_te_the_gioi_imf.pdf