Tiểu luận Tranh chấp tài sản thừa kế
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Tranh chấp tài sản thừa kế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tranh chấp tài sản thừa kế
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH THANH HOÁ LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CHƯƠNG TRÌNH CHUYÊN VIÊN KHOÁ 26 TIỂU LUẬN TÌNH HUỐNG: "TRANH CHẤP TÀI SẢN THỬA KẾ" Người thực hiện: Bùi Minh Ngọc Đơn vị: UBND huyện Thọ Xuân Năm 2009LỜI NÓI ĐẦU Thừa uỷ quyền của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá, Sở Nội vụ tỉnh Thanh Hoá đã phối hợp với Học viện Hành chính quốc gia tổ chức lớp "bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên" cho cán bộ công chức tại Trường Chính trị tỉnh Thanh Hoá (thời gian học từ 22/9 đến 22/12/2009) về bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý hành chính nhà nước. Qua thời gian ba tháng học tập, được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên, được Quý Thầy, Cô của Trường Chính trị Tỉnh Thanh Hoá truyền đạt những kiến thức và kỹ năng về quản lý hành chính nhà nước gồm những nội dung: -Nhà nước và pháp luật; -Hành chính nhà nước và công nghệ hành chính; -Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực. Đây là những nội dung hết sức bổ ích và cần thiết cho người cán bộ, công chức trong việc thực thi nhiệm vụ tại đơn vị đang công tác. Qua gần 26 chuyên đề đã giúp cho học viên nhận thức được nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn mới trong công tác quản lý nhà nước. Đồng thời cũng nhận thức được rằng muốn đạt được hiệu quả cao trong công tác quản lý, cần phải nhạy bén, nắm chắc được các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản dưới Luật, vận dụng sáng tạo, kết hợp linh hoạt với thực tiễn cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ được giao. Vận dụng những kiến thức đã tiếp thu từ Quý Thầy Cô, học viên mạnh dạn nghiên cứu chọn đề tài: “Tranh chấp bất động sản thừa kế " để thực hiện tiểu luận cho chương trình “Bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên ”. QUAN NIỆM VỀ TÌNH HUỐNG TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Thực tiễn cho thấy trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, việc giải quyết tranh chấp, khiếu kiện, khiếu nại, tố cáo của công dân đúng cấp, đúng thẩm quyền và kịp thời không những đảm bảo được lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của công dân mà còn góp phần ổn định an ninh - trật tự xã hội. Qua đó, góp phần vào việc ngăn chặn và bài trừ tệ nạn tham nhũng, lãng phí của công và các tệ nạn xã hội khác, xây dựng được khối đại đoàn kết trong nhân dân, tạo được niền tin của nhân dân đối với hệ thống bộ máy hành chính nhà nước. Mặt khác, thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời sẽ giảm thiểu tình trạng khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp. Đồng thời, nhiều cấp, nhiều ngành kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những sai sót, lệch lạc, những yếu kém trong công tác quản lý hành chính, kiến nghị với cấp có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi chế độ chính sách, pháp luật sát với thực tiễn cuộc sống, xử lý nghiêm minh những người sai phạm hoặc tránh né trách nhiệm. Tiểu luận tình huống quản lý Nhà nước là bài kiểm tra cuối khoá nhằm đánh giá khả năng vận dụng kiến thức lý luận vào điều kiện thực tiễn của hoạt động quản lý Nhà nước hiện hành. Thông qua đó, các học viên có vai trò như là người cán bộ, công chức có chức năng, thẩm quyền đưa ra phương hướng xử lý thực sự phù hợp với điều kiện thể chế; phong tục tập quán Việt Nam, phong tục từng vùng, miền. Song, những yêu cầu của tiểu luận tình huống quản lý Nhà nước không đơn giản chỉ là việc giải quyết đơn thuần mà trong đó phải hàm chứa đầy đủ khả năng phân tích cơ sở lý luận, các quy định; đánh giá ưu, khuyết điểm của từng vấn đề làm cơ sở cho việc đề xuất những kiến nghị theo từng nội dung. Do đó, mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng do thời gian ngắn, kinh nghiệm bản thân có hạn, nên bài viết này chắc chắn còn những hạn chế nhất định, rất mong được sự đóng góp ý kiến của Quý Thầy Cô và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn. PHẦN I GIỚI THIỆU TÌNH HUỐNG Ông Quách Văn Trường, nghề nghiệp làm ruộng, thường trú tại thôn 6, xã Quảng Phú, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá và bà Trịnh Thị Vân đã lấy nhau hơn 4 năm nhưng không sinh con. Vào năm 1980, gia đình ông Trường đến Trung tâm bảo trợ trẻ em Thanh Hoá xin con nuôi và đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết đầy đủ thủ tục pháp lý về việc xin nhận con nuôi có tên là Quách Văn Vũ (lúc đó Vũ được 01 tuổi). Từ khi có anh Vũ, 03 năm sau vợ chồng ông sinh thêm được 02 người con gái nữa lần lượt có tên là Mơ và Mận. Đầu năm 1993, hộ gia đình ông Trường được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cho 5 hécta đất nông nghiệp để trồng cao su và cây lấy gỗ. Ông Trường đã trồng cao su và cây lấy gỗ trên hết diện tích đất nói trên. Hiện tại đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vào năm 2004, anh Vũ lập gia đình và xin ra ở riêng, tại xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Gia đình anh Vũ sinh sống bằng nghề làm ruộng và đã tự mua được 01 hécta đất để trồng cây cao su và cây lẫy gỗ. Năm 2008, Ông Trường bị bệnh hiểm nghèo và qua đời. Trong lúc tang gia, mọi người xúm nhau dọn dẹp nhà cửa thì phát hiện di chúc của Ông Trường (có công chứng của cơ quan nhà nước). Ông Trường lập di chúc vào năm 2007 và để thừa kế lại cho anh Vũ 01 hécta đất trong tổng số 05 hécta đất nông nghiệp trồng cây cao su và cây lẫy gỗ; 01 xe gắn máy do ông Trường đứng tên. Sau khi mở thừa kế, anh Vũ đã nhận 01 hécta đất, 01 xe gắn máy và Anh Vũ đầu tư hệ thống ống tưới tiêu để chăm sóc cho cây cao su và cây lấy gỗ. Anh Vũ được hưởng thừa kế và làm thủ tục đăng ký chuyển quyền sử dụng thì các em gái không đồng ý. Thế là Bà Vân và các con đồng ký đơn gửi đến Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú khởi kiện đòi lại 01 hécta đất mà Anh Vũ được hưởng thừa kế và 01 xe gắn máy với lý do như sau: - Đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nên không được phân chia tài sản. - Đất nông nghiệp thuộc thành viên của hộ gia đình nên không được để thừa kế cho con nuôi. - Gia đình duy nhất có 01 xe gắn máy làm phương tiện (Ông Trường vẫn còn đứng tên) nên không thể giao cho Anh Đáp. - Anh Vũ không tận tình chăm sóc trong thời gian ông Trường bị bệnh nên không được hưởng thừa kế của ông Trường. Sau khi nhận đơn của bà Vân, Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú đã chuyển hồ sơ lên Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân. Sau khi xem xét toàn bộ hồ sơ, Văn phòng Hội đồng nhân dân Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân đã tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện ký quyết định hành chính chấp thuận nội dung khởi kiện của bà Vân, buộc Anh Vũ phải giao lại 01 hécta đất trồng cây cà phê và cây ăn trái cho bà Vân. Anh Vũ vẫn được sử dụng xe gắn máy do ông Trường cho, tặng (vì giá trị xe gắn máy không đáng kể). Mặt khác, bà Vân phải trả lại cho Anh Vũ 15 triệu đồng, số tiền mà Anh Vũ đã bỏ ra để đầu tư hệ thống ống ngầm tưới tiêu phục vụ cho việc trồng trọt và công chăm sóc cây cối. Bất ngờ trước quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành huyện Thọ Xuân, Anh Vũ đã làm đơn khiếu nại gửi đến phòng tiếp dân của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá Nhằm làm rõ hơn vấn đề, chúng ta đánh giá, phân tích nguyên nhân và hậu quả để có được định hướng chung trong việc đưa ra giải pháp xử lý cho thích hợp. PHẦN II PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ 1. NGUYÊN NHÂN: 1.1 . Về khách quan: Do quá trình đô thị hóa, phát triển các Trung tâm thương mại, khu công nghiệp, nhà cao tầng đòi hỏi phải sử dụng nhiều loại quỹ đất. Theo đó, giá trị đất nông nghiệp cũng ngày một tăng lên, dẫn đến phát sinh khiếu nại đòi lại đất, tranh chấp ngày một gia tăng. Thủ tục hành chính rườm rà, khó hiểu. Việc tuyên truyền pháp luật ở cơ sở chưa tốt dẫn đến người dân chưa hiểu hết trách nhiệm - nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Bộ máy chính quyền cấp phường, xã bấy lâu nay chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí có thể nói là bị xem thường. Khi tuyển dụng cán bộ, viên chức cấp xã không chú trọng việc đề ra chuẩn mực trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nhất định (chủ yếu tuyển dụng bằng “lòng nhiệt huyết”). Vì thế, đội ngũ cán bộ, viên chức cấp xã vừa thiếu, vừa yếu. 1.2 . Về chủ quan: Cán bộ, công chức là người thực thi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế công tác không phải tất cả cán bộ, công chức đều hiểu và vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, một cách đúng đắn, phù hợp với chức trách nhiệm vụ được giao. Trong tình huống này hoặc do đưa đẩy, tránh né trách nhiệm hoặc do thiếu hiểu biết về pháp luật (như công chức xây dựng - địa chính xã Quang Phú) đã làm cho vụ việc thêm phức tạp. Đó là một trong những nguyên nhân của tình trạng khiếu nại, khiếu kiện kéo dài gây khó khăn không đáng có. Người dân do thiếu hiểu biết về pháp luật đã kiện sai nhưng không được giải thích ngay từ cơ sở; cán bộ quản lý hành chính nhà nước không nắm chắc các quy định của pháp luật nên đã tự tiện giải quyết vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình. Do đó dẫn đến việc ra quyết định hành chính sai. 2. HẬU QUẢ: 2.1. Tại Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú: Trước tiên phải xác định nội dung của vụ kiện giữa bà Vân, các con và Anh Vũ là tranh chấp tài sản thừa kế theo di chúc của Ông Trường. Thực tế là kiện đòi lại quyền sử dụng đất nông nghiệp, tài sản trên đất cũng như tài sản là xe gắn máy. Trong chương VI, tại mục 2, điều 135 Luật đất đai năm 2003 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2004) qui định: - “Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ sở. - Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hoà giải được thì gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hoà giải tranh chấp đất đai”. Như vậy Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú sau khi nhận đơn của bà Vân đã không tiến hành tổ chức hòa giải giữa bà Vân và Anh Vũ mà chuyển ngay đơn đến Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân là trái với qui định của pháp luật. Cũng trong chương VI, tại mục 2, điều 136, khoản 1- Luật đất đai năm 2003 qui định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai: “Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như sau: Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết”. Do hộ Ông Trường đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cho 5 hécta đất nông nghiệp để trồng cà phê và cây ăn trái bằng quyết định hành chính, nên theo qui định, khi đã tiến hành hoà giải mà không thành thì Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú phải hướng dẫn cho các bên tranh chấp nộp đơn khởi kiện đến Toà án nhân dân chứ không phải tự ý chuyển hồ sơ qua Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân. 2.2. Tại Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân: Theo qui định, sau khi nhận được đơn kiện của bà Vân, do Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú chuyển đến, Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân phải giải quyết như sau: - Xem xét hồ sơ: nếu Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú chưa tiến hành hòa giải thì trả hồ sơ lại và yêu cầu Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú tổ chức hòa giải giữa bà Vân và Anh Vũ theo luật định. - Nếu đã hòa giải rồi mà không thành thì chỉ đạo và chuyển hồ về Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú để hướng dẫn các đương sự nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân để giải quyết vụ khởi kiện tranh chấp. Vì như đã nêu trên, thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là cây cà phê và cây ăn trái giữa bà Vân và Anh Vũ là thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân. Như tình huống đã đưa ra, Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân chấp thuận theo nội dung đơn kiện của bà Vân là không đúng với qui định: Như vậy việc Uỷ ban nhân dân huyện Thọ Xuân ra quyết định giải quyết tranh chấp đất đai có gắn với tài sản trên đất (cây cao su và cây lấy gỗ) là sai với thẩm quyền. Nội dung xử lý đơn khởi kiện sai với qui định của Pháp luật. Cụ thể là: 1. Đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nên không được phân chia tài sản. Nội dung kiện này sai. Vì đất của hộ gia đình ông Trường đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất (đầu năm 1993 có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước) và đã sử dụng ổn định, lâu dài đến nay. Mặc dù hiện tại hộ gia đình ông Trường chưa làm thủ tục để xin giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng vẫn là đất được giao hợp pháp. 2. Đất nông nghiệp thuộc thành viên của hộ gia đình nên không được thừa kế cho con nuôi. Vì đất nông nghiệp ở đây là đất trồng cây lâu năm (cây cao su, cây lấy gỗ). Theo chương IV, mục 3, điều 113, khoản 5 - Luật đất đai qui định: “Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật. Hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.” Như vậy, ông Trường có quyền để lại thừa kế cho Anh Vũ trong phần diện tích đất của ông trong thành viên hộ gia đình (05 hécta chia 05 người, gồm Ông Trường, Bà Vân, Chị Mơ, Chị Mận và Anh Vũ: mỗi người là 01 hécta). 3. Gia đình duy nhất có 01 xe gắn máy làm phương tiện (Ông Trường vẫn còn đứng tên) nên không thể giao cho Anh Vũ. Trong thời gian ông Trường bị bệnh, Anh Vũ không tận tình săn sóc ông Trường nên không được hưởng thừa kế của ông Sơn. Nội dung kiện như trên là sai. Vì theo quy định tại phần thứ tư, chương XXII, điều 631-Bộ Luật dân sự “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Theo điều 648 của chương XXIII thì Anh Vũ hoàn toàn có đủ điều kiện để hưởng thừa kế của ông Trường (thừa kế theo di chúc). Do đó, Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa đã giải quyết vụ khởi kiện nói trên không đúng quy định của pháp luật. Qua phân tích ở trên ta thấy rằng: vụ kiện giữa bà Vân và Anh Vũ có thể giải quyết được ngay tại Ủy ban nhân dân xã Hóa An, thông qua bước hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã. Có như vậy sẽ hạn chế tình trạng kiện tụng, khiếu nại đến nhiều cấp, nhiều nơi, gây phức tạp mà vẫn không giải quyết đến nơi, đến chốn, đúng pháp luật. PHẦN III XÁC ĐỊNH YÊU CẦU MỤC TIÊU KHI XỬ LÝ TÌNH HUỐNG * Mục tiêu chung: -Đảm bảo kỷ cương pháp luật, phù hợp với nguyên tắc cơ bản mà Hiến pháp đã nêu: đất đai thuộc sở hữu của toàn dân. -Giảm tối đa các mức thiệt hại kinh tế (nếu có), bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của công dân. -Giải quyết hài hòa giữa các lợi ích trước mắt và lâu dài, các lợi ích kinh tế - xã hội và tính pháp lý. -Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. * Mục tiêu của việc xử lý tình huống được đưa ra là vụ kiện về tranh chấp tài sản thừa kế theo di chúc giữa hộ gia đình bà Vân và anh Vũ. Vậy ta phải xác định rõ: + Đối tượng cần giải quyết? + Cấp nào, cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết vụ khởi kiện trên đúng theo quy định của pháp luật? + Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vụ kiện được xác định như thế nào? + Đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tranh chấp. + Làm thế nào để giải quyết nhanh, có hiệu quả cao đối với các vụ việc hành chính trong bộ máy quản lý hành chính Nhà nước, mang lại sự hài lòng cho người dân. Thế nhưng do cách giải quyết của các cấp chính quyền ở huyện Thọ Xuân (từ xã đến huyện) không đúng theo quy định của pháp luật nên đã dẫn đến hậu quả là: + Từ vụ kiện tranh chấp quyền thừa kế trở thành vụ khiếu nại đối với quyết định hành chính của cơ quan quản lý hành chính nhà nước. + Đã làm phức tạp thêm tình hình, từ khởi kiện rồi đến khiếu nại kéo dài, qua nhiều cấp, nhiều nơi giải quyết nhưng vẫn chưa giải quyết được mâu thuẫn trong tranh chấp. Để đạt được các mục tiêu trên, cần phải căn cứ vào cơ sở pháp luật. Phân tích được nguyên nhân và hậu quả của vụ việc. Từ đó tìm ra giải pháp đúng đắn để giải quyết vấn đề. Đồng thời cũng qua đó đúc kết được kinh nghiệm quý báu trong việc giải quyết vụ việc hành chính đối với cơ quan quản lý hành chính Nhà nước sao cho hợp tình, hợp lý. PHẦN IV XÂY DỰNG, PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG Như đã phân tích ở trên, phương án giải quyết tình huống đã đặt ra như sau: A. Phương án 1: giả thuyết. Nếu mọi công dân đều được tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đến nơi đến chốn thì sẽ không có khiếu kiện, khiếu nại xảy ra. Tất cả cán bộ, công chức từ phường, xã đến thành phố đều làm việc tập trung, có trách nhiệm cao; nắm vững luật pháp, quy trình thì không có khiếu kiện, khiếu nại xảy ra. B. Phương án 2: Thuyết phục, giáo dục. Phương án này áp dụng đối với các trường hợp đơn giản, tính chất mức độ sự việc không nghiêm trọng. Chỉ đạo tổ dân phố và các tổ chức đoàn thể để thuyết phục, giải quyết. - Ưu điểm: đơn giản, không tốn kém, giữ được mối quan hệ tình cảm, láng giềng, cùng nhau xây dựng cuộc sống mới tại cộng đồng khu dân cư, văn minh, lịch sự. - Nhược điểm: Phải xây dựng được các tổ chức đoàn thể đủ mạnh, uy tín, có kiến thức, có hiểu biết về pháp luật thì mới giải quyết có tình có lý, hài hòa giữa hai bên. Ngược lại, kỷ cương, phép nước dễ bị xem nhẹ. C. Phương án 3: Các cơ quan chuyên môn cùng cấp sẽ giúp Ủy ban nhân dân cấp mình đề ra biện pháp hợp lý, đúng pháp luật. - Ưu điểm: Thực hiện đúng kỷ cương, phép nước. Thể hiện được tính nghiêm minh của Pháp luật và quyền lực của nhà nước. - Khuyết điểm: Nếu xử lý không khéo thì đây là cơ hội phát sinh cho tiêu cực, nhũng nhiễu. Cụ thể: 1. Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá: Đơn của Anh Vũ là khiếu nại đối với quyết định hành chính đầu tiên. Do đó, phải chuyển đơn về ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân để giải quyết khiếu nại (theo điều 2 và điều 3 Luật Khiếu nại, tố cáo). Phát hiện được Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân ra quyết định hành chính không đúng thẩm quyền, bỏ qua trình tự hòa giải từ cơ sở. Do đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành Quyết định hành chính của mình. Đồng thời yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú giải quyết vụ kiện theo quy định của pháp luật. 2. Đối với Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân: Sau khi nhận được đơn khiếu nại của Anh Vũ do Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá chuyển đến, cùng ý kiến chỉ đạo thì Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân cần tiến hành: - Nhanh chóng ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định hành chính của mình (theo điều 35 - Luật khiếu nại tố cáo). Chuyển đơn của hộ gia đình bà Vân cùng hồ sơ đến Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú. Chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú tiến hành hòa giải tranh chấp quyền thừa kế tài sản theo quy định của Pháp luật. 3. Đối với Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú: Sau khi nhận lại đơn của hộ bà Vân do Ủy ban nhân dân huyện chuyển đến, tiến hành mời đương sự và các bên liên quan tiến hành hòa giải theo quy định của Pháp luật về quyền thừa kế tài sản. + Nếu hòa giải thành thì lập biên bản hòa giải thành và kết thúc vụ việc. + Nếu hòa giải không thành thì lập biên bản hòa giải không thành và hướng dẫn các bên tranh chấp nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân để giải quyết. D. Phương án 4: chuyển hồ sơ qua Tòa án nhân dân giải quyết. Ưu điểm: - Đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khuyết điểm: - Có thể mất đi tình làng nghĩa xóm. - Kỷ cương pháp luật dễ bị xem nhẹ nếu xử lý không hợp lý. Sau khi nhận được đơn và các hồ sơ pháp lý liên quan của người khởi kiện, căn cứ vào các quy định của Pháp luật Toà án nhân dân xem xét: - Năng lực hành vi của các chủ thể. - Loại đất được hưởng thừa kế. - Tính hợp pháp của di chúc để thừa kế. - Diện tích đất để thừa kế theo di chúc so với phần diện tích của mỗi thành viên hộ gia đình ông Trường. - Tổng diện tích đất sau khi được hưởng thừa kế của hộ gia đình Anh Vũ so với hạn mức quy định của Pháp luật. - Tính hợp pháp về quyền sử dụng đất đã để thừa kế. - Đối tượng sử dụng đất sau khi được hưởng thừa kế, có thuộc đối tượng sử dụng đất hay không. Toà án nhân dân xem xét và thụ lý vụ án, đồng thời thông báo cho người khởi kiện đến làm thủ tục nộp tạm ứng án phí. PHẦN V TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN Phân tích các phương án giải quyết tình huống nêu trên: -Phương án 1: Giả thuyết, không chọn. -Phương án 2: Vì đã có quyết định hành chính sai nên áp dụng phương án này không khả thi. Vậy ta chọn phương án 3 kết hợp với phương án 4: các cơ quan chuyên môn cùng cấp sẽ giúp Ủy ban nhân dân cấp mình thực hiện phương án. Cụ thể là cơ quan địa chính các cấp từ tỉnh đến xã sẽ tham mưu cho Ủy ban nhân dân cùng cấp giải quyết theo phương án 3. Nếu giải quyết không thành thì chuyển sang phương án 4. Cụ thể như sau: 1.Các cấp Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá và Huyện Thọ Xuân: Sẽ tiến hành giải quyết như đã trình bày ở phần phương án 3. 2.Đối với Ủy ban nhân dân xã Quảng Phú: Trong quá trình hòa giải phải luôn luôn tôn trọng ý chí của mỗi bên đương sự tham gia khiếu kiện. Nếu như các bên đương sự khởi kiện (hộ bà Vân và anh Vũ) cùng thống nhất ý chí (và kết quả giải quyết khác so với ban đầu thì cũng phải ghi biên bản hòa giải thành theo ý chí mà họ đã cùng thống nhất). Trường hợp hòa giải không thành thì phải tuân thủ theo quy định của pháp luật để đáp ứng ý chí của mỗi bên và nhất thiết phải đưa ra Tòa án nhân dân để giải quyết. 3.Đối với Tòa án nhân dân: Nếu hòa giải không thành ở Ủy ban nhân xã thì Tòa án nhân dân tiến hành giải quyết như sau: - Tổ chức hoà giải giữa hộ bà Vân và anh Vũ Trường hợp hòa giải không thành thì phải tuân thủ theo quy định của pháp luật để đáp ứng ý chí của mỗi bên để giải quyết theo quy định của pháp luật. - Về chủ thể tham gia vụ kiện: tất cả các thành viên (bà Vân, chị Mơ, chị Mận và anh Vũ) đều đủ năng lực hành vi để tham gia xét xử trước Tòa. Chị Mơ và Chị Mận là giáo viên tiểu học, vẫn chưa lập gia đình, phụ giúp công việc cùng bà Vân. - Loại đất để thừa kế là đất nông nghiệp trồng cây lâu năm (cao su và cây lấy gỗ) của hộ gia đình đã có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sử dụng ổn định từ năm 1993 đến nay. Do đó, đất được sử dụng hợp pháp, được quyền để thừa kế. Do vậy, các thành viên trong gia đình đều là đồng sở hữu diện tích đất tương ứng và được nhận thừa kế, để lại thừa kế cho người khác sau khi chết. Theo chương IV, mục 3, điều 113, khoản 5 - Luật đất đai qui định: “Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật. Hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.” - Hộ gia đình anh Vũ là hộ gia đình sản xuất nông nghiệp nên thuộc đối tượng được sử dụng đất nông nghiệp trồng cây lâu năm. - Di chúc của ông Trường được lập trước khi ông qua đời có công chứng của nhà nước: là di chúc hợp pháp. - Anh Vũ không phải con ruột của vợ chồng ông Trường nhưng đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết đầy đủ thủ tục pháp lý về việc xin nhận con nuôi. Trong quá trình chung sống, Anh Vũ đã từng tham gia canh tác, trồng trọt, chăm sóc; do đó, Anh Vũ vẫn có quyền được hưởng 01 hécta đất trong 05 hécta mà được nhà nước giao cho hộ ông Trường vào năm 1993 (đồng sở hữu). Hơn nữa, Tòa xem xét quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại thời điểm đó là giao đất canh tác cho số nhân khẩu trong một hộ gia đình. - Anh Vũ có quyền hưởng thừa kế theo di chúc của ông Trường (theo điều 648 - chương XXIII - Bộ luật dân sự). Diện tích đất 01 hécta để lại cho Anh Vũ theo di chúc là phần đất của ông Trường trong khối tài sản chung của hộ gia đình (05 hécta chia đều cho năm người, mỗi người là 01 hécta). Tuy nhiên, trong bản di chúc của ông Trường không được sự thống nhất của gia đình bà Vân và các con gái. Ông không nhắc đến vợ và các con gái của ông (có lẽ sự cổ hủ và đầu óc phong kiến vẫn đè nặng với ông trong việc trọng nam hơn). Vì vậy để đảm bảo quyền lợi của các thành viên trong gia đình; đặc biệt là thể hiện được nguyện vọng của Anh Vũ là luôn giữ mối quan hệ tình cảm tốt đẹp là truyền thống và đạo lý của người Việt Nam. Vì thế, Tòa căn cứ vào điều 669 - Bộ luật dân sự năm 2005: là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc để quyết định việc phân chia 01 hécta đất và 01 xe gắn máy do Ông Trường để lại trong di chúc: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này”. Theo đó, Bà Vân là người được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Cụ thể như sau: Theo Điều 674, thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định và Điều 676, những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Như vậy, Bà Vân là vợ, Chị Mơ, Chị Mận con ruột và Anh Vũ là con nuôi. Nếu chia thừa kế theo pháp luật thì 01 hécta đất nông nghiệp của ông Trường để lại được chia ra làm 4 phần: gồm Bà Vân 0,25 ha, Chị Mơ 0,25 ha, Chị Mận 0,25 ha và Anh Vũ 0,25 ha, nhưng Ông Trường đã lập di chúc để lại toàn bộ 1 hécta cho Anh Vũ. Do đó, theo quy định trên Bà Vân đuợc hưởng 2/3 của suất thừa kế theo pháp luật tương đương với 0,167 ha và Anh Vũ được hưởng 0,883 ha (Chị Mơ và Chị Mận không được hưởng phần di sản do đã thành niên và hiện cả hai chị đang là giáo viên của trường tiểu học xã Quảng Phú. - Tương tự đối với chiếc xe gắn máy (01 chiếc) tuy là do ông Trường đứng tên nhưng tòa đã xác định đây là tải sản chung sau hôn nhân. Do đó, sau khi tính giá trị (10 triệu đồng) thì Ông Trường và Bà Vân được chia đôi: mỗi người được hưởng 5 triệu đồng. Nếu Anh Vũ toàn quyền sở hữu xe gắn máy thì phải trả một số tiền tương đương với 2/3 của suất thừa kế theo pháp luật đối với chiếc xe cho Bà Vân là 8.333.333 đồng (Chị Mơ và Chị Mận không được hưởng phần di sản do đã thành niên và hiện cả hai chị đang là giáo viên của trường tiểu học xã Quảng Phú. Căn cứ vào các quy định trên của pháp luật, Tòa án sẽ xử lý vụ kiện như sau: + Bảo vệ quyền được hưởng 01 hécta đồng sở hữu và hưởng thừa kế 0,833 hécta đất trồng cây cà phê và cây ăn trái của do ông Trường để lại theo di chúc cho anh Vũ: tổng cộng 1,833 hécta. + Anh Vũ được quyền sở hữu xe gắn máy do Ông Trường để lại theo di chúc với điều kiện phải trả một số tiền cho Bà Vân là 8.333.333 đồng. PHẦN VI KẾT LUẬN : ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ. Tất cả các vụ khởi kiện về tranh chấp quyền sử dụng đất có thể giải quyết thành ở cấp cơ sở (cấp xã) khi cán bộ quản lý hành chính nhà nước cấp xã thông hiểu pháp luật, có kiến thức chuyên môn và có tinh thần trách nhiệm cao. Ngược lại, thì làm cho sự việc hành chính trở nên rắc rối; phát sinh khiếu nại từ cơ sở, gây ra sự mất đoàn kết và xáo trộn trong nội bộ nhân dân, gây mất niềm tin trong nhân dân. Do đó, trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước yêu cầu về tiêu chuẩn hóa các chức danh cán bộ, công chức và đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng công chức nhà nước thành đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết pháp luật, có năng lực và tận tụy phục vụ nhân dân là hết sức cần thiết và bức bách hiện nay. Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã đề ra Nghị quyết về việc “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách một bước nền hành chính nhà nước”. Trong đó ghi rõ: “Tiến hành sửa đổi bổ sung thể chế và đề cao trách nhiệm của các cơ quan hành chính trong việc giải quyết các khiếu nại của công dân không cần đưa xử ở Tòa án”. Vì vậy, việc nâng cao trình độ của cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn là việc làm hết sức cần thiết. Cần phải chú trọng tối đa đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở cơ sở. Có chế độ đãi ngộ và chế độ thu hút xứng đáng để họ an tâm làm việc hết mình, nâng cao hiệu suất công tác phục vụ nhân dân. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước bằng chủ trương, đường lối của Đảng. Đảng phải thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chủ trương, đường lối của mình. Quốc hội thành lập Ủy ban chuyên trách nghiên cứu làm luật. Phối kết hợp với các tổ chức trong và ngoài nước cùng tham gia xây dựng luật. Nên thành lập “Công ty Ý tưởng” để buôn bán, trao đổi, hiến kế nhằm làm giàu kho chất xám phục vụ cho các đề án, công trình nghiên cứu lớn cấp quốc gia hay xây dựng, bổ sung cho các bộ Luật. Quản lý nhà nước được thực hiện theo pháp luật là cơ sở chủ yếu để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vì vậy, mọi vấn đề thuộc về quản lý phải tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm. Cần tăng cường tổ chức việc giáo dục pháp luật đến tận cơ sở; làm cho mọi người thông hiểu pháp luật. Thực hiện “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”. Giáo dục pháp luật cho công dân phải được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, mọi lứa tuổi. Các bộ luật cơ bản của nước ta phải được đưa vào thành môn học ngoại khóa cho học sinh phổ thông và tổ chức sinh hoạt theo tình huống tháng hoặc tuần/lần; sắm vai hoặc phiên tòa giả định sao cho thật sự thu hút, vui, dễ nhớ. Để sau này các em có một số kiến thức cơ bản, không chỉ góp phần nào cho sự hiểu biết về pháp luật của bản thân mà còn tham gia thuyết phục cho người thân trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Phải thực hiện cải cách hành chính trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến đất đai nhà ở, tránh gây phiền hà, hạch sách nhũng nhiễu nhân dân. Cần lưu ý nhất là khâu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, nhà ở sao cho nhanh chóng, dễ dàng. Trên thực tế, rất ít nơi thực hiện đúng cam kết này. Cũng như rất ít người dân làm được thủ tục này mà không qua đối tượng “trung gian”, người ta thường gọi là “cò”. Và điều sau cùng là thường xuyên tạo điều kiện nâng cao trình độ về mọi mặt nhất là kiến thức quản lý nhà nước cho cán bộ từ cơ sở đến thành phố, tỉnh những người thường xuyên trực tiếp làm việc với người dân./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình quản lý hành chính nhà nước của Học viện hành quốc gia. 2.Luật đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành 3.Luật khiếu nại, tố cáo và các Nghị định hướng dẫn thi hành năm 2004. 4.Bộ luật dân sự năm 2005. 5.Một số tài liệu khác.
File đính kèm:
- tieu_luan_tranh_chap_tai_san_thua_ke.doc