Tiểu luận Triết học Phật giáo Ấn Độ và ảnh hưởng của nó đến văn hóa, xã hội Việt Nam

pdf 22 trang yenvu 22/01/2024 1180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Triết học Phật giáo Ấn Độ và ảnh hưởng của nó đến văn hóa, xã hội Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Triết học Phật giáo Ấn Độ và ảnh hưởng của nó đến văn hóa, xã hội Việt Nam

Tiểu luận Triết học Phật giáo Ấn Độ và ảnh hưởng của nó đến văn hóa, xã hội Việt Nam
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
1
Từ xưa tới nay có rất nhiều trường phái triết học du nhập vào Việt 
Nam nước Ta nó đã có ít nhiều ảnh hưởng đến đời sống nhân dân cũng như 
sự phát triển của đất nước, sau đây em xin trình bày về những ảnh hưởng của 
triết học Ấn Độ mà chủ yếu là trường phái triết học Phật Giáo nó đã được du 
nhập vào việt nam như thế nào và những ảnh hưởng của nó ra sao. 
Trước tiên ta nói một đôi dòng về triết học phật giáo của 
Ấn Độ. 
Ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc Nam Châu Á với đặc điểm khí hậu, 
đất đai đa dạng và khắc nghiệt cùng sự án ngữ của vòng cung dãy Hy – Mã - 
Lạp – Sơn kéo dài trên hai ngàn km. Đây là yếu tố địa lý có ảnh hưởng nhất 
định tới quá trình hình thành văn hoá, tôn giáo và tư tưởng triết học của người 
Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất tới quá trình đó là 
nhân tố kinh tế – xã hội, trong đó đặc biệt là sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài 
của kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình đặc biệt mà Các Mác gọi là “Công xã 
nông thôn”. Trong kết cấu này, chế độ quốc hữu về ruộng đất được các nhà 
kinh tế điển hình là chủ nghĩa Mác coi là “chiếc chìa khoá” để hiểu toàn bộ 
lịch sử Ấn Độ cổ đại. Chính trong mô hình này đã làm phát sinh chủ yếu 
không phải là sự phân chia đối kháng giai cấp giữa chủ nô và nô lệ như ở Hy 
Lạp cổ đại, mà là sự phân biệt hết sức khắc nghiệt và giai dẳng của bốn đẳng 
cấp lớn trong xã hội: Tăng nữ, quí tộc, bình dân tự do và tiện nô (nô lệ). Thêm 
vào đó người Ấn Độ cổ đại đã tích luỹ được những tri thức rất phong phú về 
các lĩnh vực toán học thiên văn, lịch pháp nông nghiệp v.v 
Tất cả những yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị và tri thức nói trên đã 
hợp thành cơ sở hiện thực cho sự phát triển những tư tưởng triết học – tôn 
giáo Ấn Độ cổ đại. 
Triết học Ấn Độ cổ đại chia làm hai giai đoạn 
Giai đoạn thứ nhất: (Từ giữa thiên niên kỷ III tr.CN đến khoảng giữa 
thiên niên kỷ II tr. CN). Đây là giai đoạn thường được gọi là “Nền văn hoá 
Harappa” (hay nền văn minh sống Ấn) – Khởi đầu của nền văn hoá Ấn Độ, 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
2
mà cho tới nay người ta còn biết quá ít về nó ngoài những tư liệu khảo cổ học 
vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX. 
Giai đoạn thứ hai: (Tiếp nối giai đoạn thứ nhất tới thế kỷ thứ VII tr. 
CN). Đây là thời kỳ có sự thâm nhập của người Arya (gốc Ấn - Âu) vào khu 
vực của người Dravida (người bản địa). Đây là sự kiện quan trọng về lịch sử, 
đánh dấu sự hoà trộn giữa hai nền văn hoá - tín ngưỡng của hai chủng tộc 
khác nhau. Chính qúa trình này đã làm xuất hiện một nền văn hoá mới của 
người Ấn Độ: nền văn hoá Véda. 
Giai đoạn thứ ba: Trong khoảng 5 –6 thế kỷ (Từ thế kỷ thứ VI tr.CN 
tới thế kỷ I tr.CN) đây là thời kỳ Ấn Độ cổ đại có những biến động lớn cả về 
kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng, cũng là thời kỳ hình thành các trường 
phái triết học – tôn giáo lớn. Đó là 9 hệ thống tư tưởng lớn, được chia làm hai 
phái: chính thống và không chính thống. 
Thuộc phái chính thống có Sàmkhuy, Mimasa, Védanta. Yoga, Nỳaya 
và Vasêsika. 
Thuộc phái không chính thống có Jaina, Lokayata và Phật giáo 
(Buddha). 
Triết học Ấn Độ có nhiều nét đặc thù về tư tưởng 
So với các nền triết học cổ đại khác, nền triết học Ấn Độ biểu hiện ra là 
một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo. Trừ trường 
phái Lokayata, các trường phái còn lại đều có sự thống nhất giữa tư tưởng 
triết học và những tư tưởng tôn giáo. Ngay cả hai trường phái: Jaina và Phật 
giáo, tuy tuyên bố đoạn tuyệt với truyền thống văn hóa Véda (truyền thống 
tôn giáo) nhưng trong thực tế nó vẫn không thể vượt qua truyền thống ấy. Tuy 
nhiên tính tôn giáo của Ấn Độ cổ đại có xu hướng “hướng nội” mà không 
phải “hướng ngoại” như nhiều tôn giáo phương Tây. Cũng bởi vậy, xu hướng 
chú giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn 
giáo nhằm đạt tới sự “giải thoát” là xu hướng trội của nhiều học thuyết triết 
học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại. 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
3
Đó chỉ là những nét đặc thù của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại trong 
tương quan so sánh với các nền triết học cổ đại khác, cái làm nên thiên hướng 
riêng của nó. Còn về nội dung tư tưởng, nền triết học Ấn Độ cũng giống như 
nhiều nền triết học cổ đại khác, nó đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề về triết 
học: Bản thể luận, nhận thức luận v.v 
Chúng ta đi xét những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Phật 
giáo.Phật giáo là một trường phái triết học – tôn giáo điển hình của nền tư 
tưởng ấn Độ cổ đại và có nhiều ảnh hưởng rộng rãi, lâu dài trên phạm vi thế 
giới. Ngày nay với tư cách là một tôn giáo, Phật giáo là một trong ba tôn giáo 
lớn nhất trên thế giới. 
Người sáng lập Phật giáo là Thích – Đạt - Đa, vào khoảng thế kỷ thứ 
VI tr.CN. Sau này ông được tôn xưng với nhiều danh hiệu khác nhau: Như 
Lai, Phật Tổ, Đức THế Tôn nhưng khá phổ biến là “Thích Ca Muni” 
(Sakyamuni – nghĩa là “bộc hiền giả dòng Sakya”). 
Sau Sakyamuni một vài thế kỷ, Phật giáo được phân chia thành tông 
phái lớn là tiểu thừa giáo và đại thừa giáo (nghĩa là “cỗ xe nhỏ” và “cỗ xe 
lớn”). Tiểu thừa giáo phát triển về phía Nam ấn Độ rồi truyền bá sang 
Xêrilanca, Philippin, Lào, Campuchia, Nam Việt NamĐại thừa giáo phát 
triển mạnh ở Bắc ấn Độ, truyền bá vào Tây tạng, Trung hoa, Nhật bản, Bắc 
Việt nam 
Kinh điển của Phật giáo gồm: Kinh – Luật – Luận (gọi là “Tam tạng” – 
tức “ba kho kinh điển”). Mà về mặt triết học thì quan trọng nhất là “kinh” và 
“luận”. “Tam tạng” kinh điển của Phật giáo được ghi bằng hai hệ Pali và 
Sankrit (Ngữ bộ Nam và Bắc ấn) có tới trên 5000 quyển. 
Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thuỷ (sơ kỳ) 
gồm mấy vấn đề lớn sau: 
Thứ nhất: Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có tính duy vật 
và vô thần, đồng thời có chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc. 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
4
Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân 
sinh thành, biến đổi của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực 
lượng thần linh hay thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính 
tất định và phổ biến của luật nhân – quả. Điều này được quán triệt trong việc 
lý giải những vấn đề của cuộc sống nhân sinh như: Hạnh phúc, đau khổ, giàu 
nghèo, thọ,yểu 
Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ qua 
việc luận chứng về tính chất “vô ngã” và “vô thường” của vạn vật. 
Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vụ trụ vốn 
không có tính thường hằng nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ nhân duyên 
nên thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con người 
chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại: Sắc (vật chất), thụ 
(cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Theo cách phân 
loại khác-“lục tại”: địa (chất khoảng), thuỷ (chất nước), hoả (nhiệt năng), 
phong (hơi thở), không (khoảng trống) và thức (ý thức). Nói một cách tổng 
quát thì vạn vật chỉ là sự “hội hợp” của hai loại yếu tố là vật chất “sắc” và tinh 
thần “danh”. Như vậy thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã). 
Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. Vô thường 
nghĩa là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: Sinh – Trụ – Dị – 
Diệt(hay: Sinh – Trụ – Hoại – Không). Vậy thì “có có” – “không không” 
luân hồi (bánh xe quay) bất tận: “thoáng có”, “thoáng không” cái còn mà 
chẳng còn, cái mất mà chẳng mất. 
Thứ hai: Nhân sinh quan Phật giáo là phần trọng tâm của triết học này. 
Cũng như nhiều trường phái khác của triết học ấn Độ cổ đại, Phật giáo đặt 
vấn đề tìm kiếm mục tiêu cứu cánh nhân sinh ở sự “giải thoát” (Moksa) khỏi 
vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana). 
Tính quần chúng của luận điểm nhân sinh Phật giáo thể hiện ở chỗ nêu cao 
tinh thần “bình đẳng giác ngộ”, tức là quyền thực hiện sự giải thoát là cho tất 
cả mọi người mà cao hơn nữa là của mọi “chúng sinh”. Điều này mang tính 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
5
nhân bản sâu sắc, vượt qua giới hạn đẳng cấp khắc nghiệt vốn là một truyền 
thống chính trị ấn Độ cổ đại. Nó nói lên khát vọng “tự do cho tất cả mọi 
người”, không thể là độc quyền của một đẳng cấp nào, dù đó là đẳng cấp tăng 
nữ hay quý tộc, bình dân hay tiện nô. Nhưng đó không phải kêu gọi gián tiếp 
cho quyền bình đẳng về mặt chính trị mà là bình đẳng trong sự mưu cầu cứu 
cánh giác ngộ. Có thể, đây là lời kêu gọi gián tiếp cho quyền bình đẳng xã hội 
của Phật giáo, và như vậy Phật giáo thật sự là một trường phái thuộc phái 
“không chính thống” (tức phái cải cách) của nền tư tưởng Â’n Độ cổ đại. 
Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm 
(gọi là “tứ diện đế”). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ 
đại về cuộc sống nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng 
cấp nào. 
Luận điểm thứ nhất (khổ đế): Sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có 
gì khác ngoài sự đau khổ, ràng buộc hệ luỵ, không có tự do. Đó là 8 nỗi khổ 
trầm lâm bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Thụ 
biệt Ly (yêu thương chia lìa), Oán tăng hội (oán ghét nhau mà phải sống với 
nhau), Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt được), và Ngũ thụ uẩn 
(5 yếu tố vô thường nung nấu làm khổ). 
Luận điểm thứ hai (Nhân đế): là luận điểm giải thích những nguyên 
nhân sự thật đau khổ nơi cuộc sống nhân sinh. Đó là 12 nguyên nhân (thập 
nhị nhân duyên): 1. Vô minh; 2. Hành; 3. Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục nhập; 6. 
Xúc; 7. Thụ; 8. ái; 9. Thủ; 10. Hữu; 11. Sinh và 12. Lão Tử. 
Trong 12 nhân duyên ấy thì “Vô minh” là nguyên nhân thâu tóm tất cả. 
Bở vậy diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc rễ sự đau khổ nhân sinh. Dưới góc 
độ nhận thức, vô minh là “ngu tối”, “không sáng suốt”, “thiếu giác ngộ chân 
lý”. 
Luận điểm thứ ba (Diệt đế): Là luận điểm về khả năng có thể tiêu diệt 
được sự khổ nơi cuộc sống nhân sinh, đạt tới trạng thái Niết bàn, cứu cánh 
của hành động tự do. Luận điểm này cũng bộc lộ tinh thần lạc quan tôn giáo 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
6
của Phật giáo; cũng thể hiện khát vọng nhân bản của nó muốn hướng con 
người đến niềm hạnh phúc “tuyệt đối”; khát vọng chân chính của con người 
tới Chân – Thiện – Mỹ. 
Luận điểm thứ tư (Đao đế): là luận điểm về con đường thể hiện sự diệt 
khổ, đạt tới giải thoát. Đó không phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con 
đường “tu đạo”. Thực chất của con đường này là hoàn thiện đạo đức cá nhân. 
Sự giải phóng mang ý nghĩa của sự thự hiện cá nhân, không mang ý nghĩa của 
những phong trào cách mạng hay cải cách xã hội. Đây là nét đặc biệt của 
“tinh thần giải phóng nhân sinh” của Phật giáo. 
Con đường “giải phóng cá nhân” này gồm 8 nguyên tắc: 
* Chính kiến (hiểu biết đúng sự thật nhân sinh) 
* Chính tư duy (suy nghĩ đúng đắn). 
* Chính ngữ (giữ lời nói phải). 
* Chính nghiệp (giữ đúng trung nghiệp). 
* Chính mệnh (giữ ngăn dục vọng). 
* Chính tinh tiến (rèn luyện không mỏi mệt). 
* Chính niệm (có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát). 
* Chính định (an định, tự tác). 
Tám nguyên tắc (hay “bất chính đạo”) có thể thâu tóm vào ba đIều học 
tập, rèn luyện lớn là: Giới - Định – Tuệ (tức là: Giữ giới luật, thực hành thiền 
đinh và khai thông trí tuệ Bát nhã). 
Trên đây là hai vấn đề cơ bản của triết học Phật giáo nguyên thuỷ (sơ 
kỳ). Sự phát triển về sau của Phật giáo đã chia thành các tông phái khác nhau 
và đã có những phát trên rất khác nhau về các quan điểm triết học. 
Qua những đặc điểm trên ta thấy 
Triết học ấn Độ cổ đại đã dặt ra và giải quyết nhiều vấn đề của tư duy 
triết học. Đó là những vấn đề thuộc bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh 
quan triết học.Giải quyết vấn đề bản thể luận, triết học ấn Độ đã hướng tư duy 
(suy tư) váo nguồn gốc sinh thành của vạn vật, truy cứu nguồn gốc khởi đầu 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
7
của chúng. Trong quá trình suy tư triết lý ấy, đôi khi đã đạt tới ý tưởng siêu 
thực; vượt qua tầm suy nghĩ, nhận thức giác quan đạt tới những phán đoán 
siêu hình (Motaphidica) về cội nguồn của tồn tại. Chính tại điểm này làm xuất 
hiện những cảm nhận về tính biện chứng của tồn tại: Sự thăng bằng của các 
yếu tố, sự mất thăng bằng của những xung lực nội tại – sự biến hoá sinh thành 
của vạn vật từ cái vô hình – siêu vật lý - đến cái hữu hình, đa dạng. 
Một xu hướng khá đậm nét mà các nền triết học khác của thế giơí ít 
quan tâm đó là sự giải quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tâm linh tôn 
giáo, đi tìm cái Đại nghã trong cái Tiểu nghã của mỗi thực thể cá nhân. ở đây 
xu hướng “hướng nội” (khác với xu hướng “hướng ngoại” của tôn giáo 
phương Tây) trở thành một su hướng trội và cũng thế mạnh của tư duy ấn Độ, 
nhờ đó mà đã đi sâu vào những “bí ẩn” của đời sống nhân sinh. Những sự thật 
cuộc đời mà Phật giáo đề cập đến là những hiển nhiên với bất cứ ai, dù người 
đó thuộc về đẳng cấp, giai cấp hay dân tộc nào, vậy là suy tư triết học nhân 
sinh ấy đã đạt tới nhân sinh nhân loại. Đó cũng là một nguyên nhân nội tại 
khiến cho nó có sức sống toả rộng ra nhiều dân tộc, ở nhiều thời đại. Có thể 
nói: Sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết 
triết học ấn Độ cổ đại, rất hiếm thấy ở các nền triết học khác. Đó cũng là một 
giá trị triết học mà con người hiện đại không thể bỏ qua. 
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN NẾN VĂN HOÁ NƯỚC TA. 
Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng thế kỷ II sau Công Nguyên. 
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài. 
Trong quá trình phát triển, Phật giáo với tư cách là một tôn giáo, đã có nhiều 
đóng góp cho văn hoá Việt Nam. 
Cũng giống như tôn giáo ngoại sinh khác như nho giáo, Đạo giáo, 
islam giáo, Công giáo hay tin Đạo lành, Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam 
đã có những va chạm nhất định với văn hoá bản địa, hình thành cục diện hội 
nhập khác với sự tiến hoá tự nhiên của một hệ tư tưởng bản địa. Quá trình hội 
nhập đó dẫn tới sự hình thành những yếu tố văn hoá mới. 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
8
Mỗi tôn giáo khi du nhập vào Việt Nam đã có những đóng góp nhất 
định về văn hoá. Phật giáo cũng không nằm ngoài quy luật này. Trong khuân 
khổ của chuyên đề này em xin đề cập tới một số ảnh hưởng cơ bản của một 
vài lĩnh vưc mà thôi. 
1. Phật giáo đã góp phần đào tạo một tầng lớp trí thức. 
Tầng lớp trí thức đầu tiên mà Phật đã đào tạo mang tính chất nhà sư am 
hiểu nho giáo. Tăng thống Ngô Chân Lưu hiệu là Khuông Việt đại sư là một 
nhân vật tiêu biểu. 
Khi người Hán đến cai trị nướca ta thì họ mang chư Hán đến. Nhưng 
khi đến vùng đất này, người Hán chủ trương không mở trường đào tạo trí thức 
người Việt mà chủ yếu đưa người Hán sang làm quan cai trị. Do vậy, Suốt từ 
năm ..trước Công Nguyên cho đến thời kỳ đầu Công Nguyên chỉ có một 
Trương Trọng và mãi mới có vài ngươì như Lý Cầm, Lý Tiến để học hành để 
đấu tranh làm quan. Một số khác như Tích Quan Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp tuy có 
dạy hoc nhưng đều không có dấu hiệu phổ cập chữ Hán, biểu thị cụ thể nhất 
là không thấy xuất hiện một giai tầng lớp trí thức Việt trước thế kỷ thứ VII. 
Tầng lớp trí thức Việt dầu tiên là trí thức Phật giáo. Người đầu tiên để 
lại tên tuổi là Pháp Hiền (? – 626). Phật giáo truyền vào Dầu cuối thế kỷ thứ 
II, hình thành trung tâm Dâu mà Pháp Hiền là nhà sư Việt đầu tien lưu tên 
trong sơn môn. Vấn đề đặt ra là, người ta truyền bá và phát triển đạo Phật 
bằng ngôn ngữ và văn tự gì trong thời kỳ đầu? Nhà sư ấn Độ Tì Ni Đa Lưu 
Chi từ Trung Quốc đến Dâu năm 580 trụ trì ở đó, dịch một quyển kinh Tổng 
Trì. Ông ta đến Trung Quốc năm 562 (hay 574), gặp lúc các Phật giáo đang bị 
đàn áp, Tăng Xán đang trốn tránh nên khuyên ông xuống phương Nam. Ông 
đến chùa Chế Chí ở lại 6 năm dịch hai bộ kinh. Như vậy ông dã học đươc văn 
tự Hán. Cho nên khi đến Dâu, ông đã dùng ngôn ngữ và văn tự đó đẻ truyền 
bá Phật giáo. 
Thế kỷ VII – VIII, tăng sĩ Việt Nam có nhiều người có trí thức uyên 
thâm về Phật giáo. Nhiều người giỏi cả Phạn ngữ, đã tham gia giải kinh Phật. 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
9
Như trước đó, thế kỷ thứ III, tư liệu để lại cho biết về Đạo Thanh, một người 
Việt giúp nhà sư ấn Độ dịch Pháp Hoa Tam Muội Kinh ở nước ta khoảng năm 
255 – 256. 
Tuy nhiên do chính sách nô dịch hà khắc và việc hạn chế đào tạo người 
Việt trở thành trí thức, chính quyền đô hộ Hán - Đường đã gián tiếp hun đúc 
các thiền sư Việt Nam ý thức về một nền độc lập dân tộc. Những nhà sư Phật 
giáo dã là tầng lớp trí thức trụ cột cho những chính quyền độc lập đầu tiên 
như các nhà tiền Lê - Lý – Trần. 
Le Đại Hành khi lên ngôi Vua đã mời Thiền sư Pháp Thuận và Thiền 
sư Vạn Hạnh của thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi vào triều đình làm cố vấn 
chính trị. Thiền sư Vạn Hạnh là người huyền thoại hoá Lý Công Uốn và đưa 
ông lên ngôi, trở thành vị vua đầu tiên của thời Lý. Lý công Uốn là con nhà 
sư Lý khánh Vân, ra dời trong một chuyến lên chùa của mẹ ông. Lý Công 
Uẩn học ở chùa Lục Tổ, nhà sư Vạn Hạnh đã tuyên truyền cho ông, đã khen 
ông sẽ làm bậc minh chủ. Các tư liệu dù đã thuyền hoại hoá nhung vẫn thấy 
Lý Công Uốn xuất thân đào tạo trong Phật giáo đưa lên ngôi báu. 
Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý Trần được coi 
như một quốc giáo. Thời Ly Trần có rất nhiều nhà sư nổi tiếng trong cả nước, 
có uy tín và đìa vị chính trị xã hội. Có thể kể đến các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn 
Giác, Viên Thông, Minh Không, Giác Hải, Pháp Loa, Huyền Quang. 
Nhà nước Ly ,Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối cảnh của sự khoan 
dung, hoà hợp tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ yếu là sự kết hợp giữa 
Phật Giáo và Nho giáo, giữa giáo lí và thực tiễn đời sống. Đạo Phật thời Lý 
Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của nhà nước, là đối trọng tư tưởng 
của Nho giáo. 
Cùng tồn tại với Phật giáo, nhưng nho giáo thời Ly Trần có xu hướng 
phát triển ngược lại với Phật giáo, Nho giáo đã đào tạo một tầng lớp trí thức 
để làm quan. Nho giáo từ chỗ lúc đầu mới chỉ được nhà nước phong kiến 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
10
chấp nhận trên nguyên tắc như một học thuyết để trị nước tới chỗ sau đó (cuối 
thời Trần) đã trở thành một ý thức hệ trên đà thống trị xã hội. 
Nho giáo truyền vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc dưới một phương 
thức giao lưu văn hoá cưỡng chế. Vì vậy, sau hơn 1.000 năm đô hộ của chính 
quyền phương Bắc, Nho giáo cũng chỉ là một lớp váng mỏng đọng lại trong 
tầng lớp ưu tú, ảnh hưởng rất nhỏ bé. Đến thời Ly Trần, nho giáo trở thành 
một nhu cầu tư tưởng thiêt yếu cho việc xây dựng một thiết chế quân chủ tập 
quyền, cũnh như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước, trong đó một 
biện pháp chiến lươc là chế độ khoa cử. Do vậy các nhà vua sùng Phật vẫn 
cần đến một sự bộ trợ của Nho giáo. Thời Ly-Trần Nho giáo được nhà nước 
chấp nhận, nhưng vẫn giữ một vị trí khá khiêm tốn. Năm 1070, Văn Miếu 
được xây dựng thờ Chu Công, Khổng Tử và các vị tiên hiền, làm nơi dạy học 
Hoàng Thái Tử học sinh đầu tiên, người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh, năm 1076 
mở trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1086 triều đình lập Hàn lâm viện, nho sĩ 
Mạc Hiển Tích được bổ làm Hàn lâm học sĩ. Qua thời Trần Nho giáo và Nho 
học khởi sắc hơn. Tầng lớp nho sĩ ngày một phát triển, trong đó có những 
gương mặt nổi bật như Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hải, Nguyễn Trung Ngạn 
Họ đã dần dần tham chính, nắm giữ các chức vụ trọng trách trước đây chỉ 
dùng cho tầng lớp quý tộc tông thất. Đoàn Nhữ Hải từ một nho sinh được 
thăng đến chức Hành khiển là một ví dụ tiêu biểu. 
Như vậy, rõ ràng rằng, Phật giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức 
mang tư tưởng yêu nước, ủng hộ cho nền độc lập của dân tộc và ủng hộ cho 
nhà nước phong kiến. Trong khi đó, cùng với sự du nhập của chữ Hán Nho 
giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức để làm quan cho chính quyền đô hộ. 
2.Đóng góp của phât giáo về mặt văn tự. 
Như trên đã đề cập các nhà sư Â’n Độ và Trung Quốc đến Việt Nam và 
dịch kinh sách bằng văn tự Hán và ngôn ngữ, văn tự đó được dùng để truyền 
bá Phật giáo. 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
11
Một vấn đè được đặt ra là trước thế kỷ thứ VI Phật giáo hoạt động ở 
trung tâm Dâu bằng ngôn ngữ và văn tự nào? 
Chúng ta biết rằng miền trung và miền Nam nước Việt, vào thời diểm 
đó nơi này là các vương quốc Chămpa và Phù Nam. Các thương nhân và nhà 
truyền giáo Â’n Độ đều đã đến đây có thể cùng một lúc hay sơm hơn thời gian 
họ đến Dâu. Nhứng nhà truyền giáo đó đã dùng ngôn ngữ và văn tự nào để 
truyền giáo? Câu trả lời rõ ràng và cụ thể là: văn tự sanscrit. Bi kí và minh 
văn thuộc niên đại khoảng đầu Công Nguyên đã được phát hiện trước năm 
1945 và hiện nay vẫn còn đang được phát hiện chứng minh diều đó một cách 
hùng hồn. Như vậy là do người truyền giáo Â’n Độ không gặp ở nam Đại Việt 
lúc bấy giờ một văn tự nào sẵn có để họ sử dụng, vì vậy họ sử dụng văn tự 
sanscrit để truyền giáo. Còn ngôn ngữ thì đã có sẵn cho nên chẳng bao lâu sau 
thì xuất hiện chữ Chăm, chữ Khmer trên cơ sở chữ sanscrit. 
Còn ở phía bắc thì cho đến nay không còn tìm thấy dấu vết chữ sanscrit 
thời đó. Để giải thích hiện tượng này chúng ta nhìn lại lên phía bắc. Khi 
những nhà truyền giáo Tây Vực hay Â’n Độ đến kinh đô Trung Quốc thời 
Hán thì họ đều dịch kinh bằng cách này hay cách khác. Hoặc họ đọc các kinh 
bản qua người Trung Quốc biết ngoại ngữ phiên dịch, hoặc tự tay họ dịch sau 
khi họ học chữ và tiếng Trung Quốc. Cho nên ở Trung Quốc không hình 
thành một dạng văn tự sanscrit mà trái lại hình thành một loại văn tự sanscrit 
chữ Hán, tức là chữ ngang thì chuyển thành chữ ô vuông nghĩa là bị cắt ra 
từng đoạn hình thành chữ Phạm – Hán mà ngay nay chúng ta vẫn thấy đề trên 
cổng chùa hay khắc trên chuông và ghi trên kinh chữ Hán thường ở phần 
chú(thần chú). 
Như vậy, nếu Phật giáo Â’n Độ truyền đến một khu vực chưa có văn tự 
Â’n Độ sẽ địa phương hoá sản sinh ra một văn tự địa phương thuộc hệ văn tự 
Â’n Độ. Nếu đến nơi đã có văn tự thì nó biến dạng thành một chủng loại mà 
tính trội thuộc về văn tự bản địa. 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
12
Nói một cách cụ thể hơn, Nam Đại Việt đã thừa hưởng của Bàlamôn 
giáo loại văn tự mà họ chưa có, nghĩa là bàlamôn giáo, phật giáo đem đến cho 
cư dân đó một loại văn tự. Đó là một cống hiến của Bàlamôn giáo và Phật 
giáo đối với miền nam nước ta. Còn bắc Đại Việt thì người truyền giáo Â’n 
Độ đã gặp ở đây một văn tự ngoại quốc nhưng quan phương, cho nên họ dùng 
loại văn tự đó – văn tự Hán. Nhưng cũng không phải họ không có cống hiến 
gì. Có hai cống hiến, sự truyền bá Phật giáo trong cư dân vốn không phổ biến 
chữ Hán đã đưa đến sự hình thành chữ Nôm. Chúng tôi cho rằng, chữ Nôm đã 
hình thành trước thế kỷ V – VI. Bằng chứng là sự tồn tại hai nhóm thuật ngữ 
Phật giáo đồng nghĩa: Bụt – Chùa – Thầy và Phật – Tự – Sư. Nhóm thứ nhất 
là chữ Nôm, nhóm thứ hai là chữ Hán đọc theo âm Việt, hiện nay quen gọi là 
âm Hán – Việt chứ không phải là âm Hán của chữ Việt. Chữ Nôm xuát hiện 
trong bộ thuạt ngữ Phật giáo này sẽ không bao giờ sản sinh và tồn tại được 
nếu như bộ thuật ngữ Việt Hán đã được dùng từ đầu, nghĩa là từ khi bắt đầu 
truyền bá Phật giáo. Nhưng bởi vì trước thế kỷ V – VI, Phật giáo Trung Quốc 
chưa hình thành. Công việc Phật giáo ở Trung Quốc chủ yếu vẫn do các nhà 
sư Tây Vực đảm nhiệm. Trong khi đó ở Dâu đã hình thành một trung tâm 
Phật giáo độc lập đối với Phật giáo Trung Quốc lúc bấy giờ con loanh quanh 
ở phương bắc xung quanh triều đình chưa lan xuống vùng Giang Đông, tức 
miền Nam. Sau này Phật giáo Trung Quốc vẫn hình thành Bắc tông và Nam 
tông là có lý do lịch sử của nó. Chỉ đến khoảng thế kỷ V – VI, một mặt Phật 
giáo Trung Quốc đã hình thành những Tông phái Trung Quốc như Thiên 
Thai, Pháp Tướng.Một mặt con đường thỉnh kinh cũng chuyển sang 
phương nam. Các nhà sư Trung Quốc xuống giao Châu đi đường thuỷ qua 
Â’n Độ. Nhà sư hành hương nổi tiếng là Nghĩa Tịnh đã đi theo con đường 
này, cũng có một số nhà sư người Việt như Khuy Sung, Đại Thặng Đăng đã 
học giỏi tiếng Phạm và hoặc đi một mình hoặc đi cùng các nhà sư Trung 
Quốc sang Â’n Độ. Những nhà sư này đều không có tên trong Thiền Uyển 
Tập Anh Ngữ Lục. Tất cả điều đó chứng tỏ có một cơ tầng Phật giáo Việt ấn 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
13
tồn tại trước sau đó rồi mới đến thượng tầng Việt Trung, bắt đầu từ khoảng 
thế kỷ V – VI về sau và rõ net với Ngô Ngôn Thông (đến Kiến Sơ làng Phù 
Đổng năm 820) thì Phật giáo Trung Quốc mới chiếm thượng phong. Cho nên, 
trong thời kỳ trước mới hình thành và tồn tại các thuật ngữ Phật giấo Â’n Độ, 
Bụt – Chùa – Thầy được hình thành như vậy. Thời kỳ sau bộ thuật ngữ Phật 
giáo Trung Quốc đọc theo âm Hán Việt là Phật – Sư - Tự mới phổ biến. 
Nhưng đến nay dân gian vẫn quên gọi thầy chùa hơn là Sư ông. Chính Phật 
giáo đã mở đầu cho sự hình thành chữ Nôm ở bắc Đại Việt, chữ Chăm, chữ 
khmer ở nam Đại Việt. Ba loại văn tự này giúp bảo tồn ngôn ngữ Việt Chăm, 
Khmer. 
3.Phật giáo ảnh hưởng đên một nền kiến trúc chùa, tháp 
phong phú. 
Một ảnh hưởng khác của Phật giáo đó chính là về kiến trúc. Kiến trúc 
là sản phẩm nhân tạo cho nên cũng chính là văn hoá và sự phát triển của nó 
đánh dấu bước tiến của văn minh. 
Khởi thuỷ nơi trú ẩn đầu tiên của con người là ngôi nhà tự nhiên. Đó 
chính là những hang động những vòm đá. Tuy nhiên ngôi nhà tự nhiên này 
không thể che chở an toàn cho con người với bao như thứ hiểm hoạ chết chóc. 
Nào mưa gió sâm sét, nào hổ báo, răn rết tất cả đều là những mối nguy hiển 
đối với cuộc sống con người. Bản thân con người là một miếng mồi ngon đối 
với những ác thú trong tự nhiên. Con người là một con mồi yếu đuối nhất 
nhưng lại là con mồi có trí khôn. Một sự miêu tả cực kỳ sinh động về trí khôn 
của con người trong cổ tích Việt Nam – chuyện Trí khôn của ta đây – giữa 
con hổ và con người. Đây thực sự là một minh họa xuất sắc nhất cho sự khác 
biệt cơ bản giữa con người và động vật. 
Để chống chọi với những hiểm nguy trong cuộc sống, con người phải 
làm nhà để ở, chống lại tất cả sức mạnh tự nhiên đó. Ban đầu người Việt làm 
nhà sàn bằng gỗ rồi làm nhà đất bằng tre. Tuy nhiên dù là nhà sàn hay nhà đất 
thì cho đến trước năm 1945, những ngôi nhà tranh tre của người Việt vẫn còn 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
14
tồn tại như nguyên mẫu xa xưa. Đó là một ngôi nhà hình chữ nhật thông 
thường chia làm 3 gian với chiều dài từ 6 – 10 mét, đôi khi có nối các chái. 
Đó là những ngôi nhà tranh lè tè mái rạ vàng rộm. Những ngôi nhà nông thôn 
có một mầu như vậy. Đền thờ nhà là gốc đa, và về sau đã có nghè thì cũng chỉ 
là ngôi nhà hai ba gian đơn sơ như nhà ở. Thế nhưng, một khi Phật giáo du 
nhập vào thì hai loại hình kiến trúc mới đã xuất hiện đó là chùa và tháp. 
Cho đến khi ngôi chùa xuất hiện, dù thuộc niên đại muộn hơn buổi 
đầuPhật giáo it nhiều, thì xóm làng vẫn còn là một quần thể nhà tranh. Ngôi 
chùa chiếm ngay đến địa vị trung tâm của làng và trở thành nơi quần tụ văn 
hoá. Người dân đi học, đi chợ, đi chơi hội, đi xem múa rối nước cũng đều ở 
tại chùa. Ngày nay chợ Dâu vẫn còn họp trước chùa Dâu (Bắc Ninh). Sân 
khấu rối nước vẫn còn ở chùa Thầy (Hà Tây) với chú tễu và con rồng, là 
những hình tượng Phật giáo. Dân làng dù nghèo đói đến đâu vẫn chung nhau 
dựng cho được một ngôi chùa khang trang. Nếu chùa cao thành ba bậc tượng 
trưng tam giới. Phật điệu nhiều bậc bệ cao dần lên tượng trưng núi Tu Di mà 
người nông dân Việt Nam không biết. Những chư vị Phật ngồi trên những 
tầng bậc từ thấp đến cao là một cách bài trí hoàn toàn khác bàn thờ trong 
nghè, trong nhà của họ. 
Cảnh quan xom làng nông thôn đổi sắc với sự xuất hiện của ngôi chùa. 
Chùa cao ráo hoặc mái rạ hoặc mái ngói với cây tháp gạch (một cây, hai cây 
hoặc cả một vườn tháp) nổi bật lên giữa một quần thể nhà tranh vách đất. 
Chùa Việt không hoàn toàn giống như chùa Trung Quốc. Chùa Trung 
Quốc là kiến trúc viên lạc gồm nhiều kiến trúc song song với những chiếc sân 
ngăn cách. Ngôi chùa Việt điển hình do hai nhà sư Trung Quốc là Chuyết 
Chuyết và Minh Hành xây dựng là chùa Bút Tháp, ở đó mang dấu ấn viện lạc 
trong bình đồ khá đậm nét. 
Buổi đầu chùa Việt mô phỏng chùa hang Â’n Độ cho nên hình thành 
kiến trúc chuôi vồ rất phổ biến trong các chùa làng. Chùa Â’n Độ là mô hình 
một hang đá gồm có tiền đường và một hậu cung đặt biểu tượng Phật và một 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
15
số tăng phòng xung quanh. Chuyển sang kiến trúc gỗ thì ngôi nhà ba gian 
được nối thêm một chuôi vồ, còn các thiền phòng thành những hành lang và 
nhà Tổ. Một số ngôi chùa tiêu biểu ở Hà Nội hiện nay thuộc mô hình này như 
chùa Hồng Phúc (chùa Hoè Nhai), chùa Liên Phái, Chùa Linh Quang 
Phật điện phát triển để chùa có một kiến trúc mới: chùa chữ “công”. Có 
thể thấy chùa Diên ứng (Bắc Ninh) là một tiêu biểu. Dạng kiến trúc này 
thường thấy có tường bao quanh và trở thành kiểu nội công ngoại quốc như 
chùa Chiêu Thiền (chùa Láng) ở Hà Nội. Thông thường loại hình kiến trúc 
này của chùa thuộc loại hình chùa quy mô lớn. 
Chùa chữ “Tam” là một kiến trúc khác của chùa Việt có ảnh hưởng của 
chế độ viện lạc Trung Quốc, như chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), chùa Sùng 
Phúc (chùa Tây Phương) ở Hà Tây, chùa một cột ở Hà Nội. 
Trong những ngôi chùa trên, thì chùa Một Cột (chùa Diên Hựu – kéo 
dài tuổi thọ) được xây dựng năm1049, là một sản phẩm tiêu biểu không thể 
không đề cập. Buổi khởi dựng của chùa có kiến trúc hình ảnh một bông sen 
khổng lồ nở trên mặt nước. Đó là sáng tạo của các nhà kiến trúc giữa thế kỷ 
XI, theo ý tưởng giấc mơ của vua Lý Thái Tông về một bông sen. Năm 1080, 
vua Lý cho đúc một quả chuông lớn, đánh không kêu, cho là đã thành khí nên 
không thiêu huỷ, mới đem để ở ruộng chùa. Ruộng ẩm có nhiều rùa chui vào 
làm tổ nên gọi là chuông Quy Điền cùng với vạc chùa Phổ Minh, tượng phật 
chùa Quỳnh Lâm và tháp chùa báo Thiên hợp thành “tứ đại khí” nổi tiếng, là 
thành tựu về nghệ thuật và kỹ thuật các thời Lý – Trần. Năm 1105, vua Lý 
Nhân Tông cho đào hồ ở quanh cột đá có toà sen, gọi là hồ Linh Chiểu. Bên 
ngoài có hồ Bích Trì. Ngôi chùa thời Lý được xây dựng lại ở thời Trần vào 
năm 1249 và các đời sau thường tu sửa. Năm 1954, chùa được xây dựng lại 
với quy mô kiểu dáng như ngày nay. 
Chùa Một Cột được coi là biểu tượng của thủ đô nghìn năm văn hiến, là 
một danh thắng nổi tiếng mà ai đã từng đến Hà Nội không thể không ghé qua. 
Từ góc độ khoa học, đã có ý kiến cho rằng, chùa Một Cột chính là một loại 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
16
hình điện thờ tư nhân sớm nhất được xây dựng cho một cá nhân cụ thể – vua 
ly Thái Tông. 
Ngày nay, do mô hình kiến trúc đã hiện đại hoá xuất hiẹn chùa dạng 
nhà lầu với phác đồ theo chiều thẳng đứng: tầng dưới là nơi thuyết pháp cho 
tín đồ mang tính chất Tiền đường, tầng trên là Phật Điện mang tính chất 
Thiêu Hương, Thượng Điện. Chùa thuộc loại này có thể kể tới những ngôi 
chùa nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh như chùa Xa Lợi, chùa Vĩnh 
Nghiêm. 
Chùa Khmer lại thuộc một mô hình khác. Mô hình chùa loại này thông 
thường là một tứ giác có nhiều tầng bậc chỉ thờ một tượng Thích Ca. Trên các 
thềm bậc có những tháp vây quanh và một cửa cổng rất đặc sắc với hai apxara 
hai bên góc như chùa Svay Ton (chùa Xà Tón) ở An Giang, gợi cho người ta 
liên tưởng tới dáng dấp cổng tháp Sanchi nổi tiếng ở ấn Độ. 
Chùa ở Nam bộ lại có kiến trúc kiểu nhà tứ trụ. Đó là kiểu kiến trúc nhà 
rường. Bốn cột cách đều nhau ở bốn góc một diện tích hình vuông, từ bốn cột 
cái các kèo đấm và kèo quyết đưa đều ra bốn hướng. Hình vuông được giải 
thích đó là một kiểu thức của một ngôi tháp hoặc bắt chước dịch lý gọi là 
kiểu nhà tứ tượng: Thái Âm – Thiếu Dương – Thái Dương – Thiếu Âm, Pha 
màu sắc phong thuỷ, ảnh hưởng của Đạo giáo và Nho giáo. Chùa ở Nam Bộ, 
từ đầu thế kỷ XX đến nay, đã có nhiều cách tân, do vậy chưa định hình được 
một mẫu mực nhất định. 
Chùa ở vùng Huế bắt đầu được xây dựng từ thời chúa Nguyễn Hoàng 
và phát triển mạnh ở thời các vua Nguyễn. Chùa ở đây chủ yếu được xây 
dựng, tu bổ, tôn tạo dưới sự bảo trợ của triều đình và hoàng gia. Về cơ bản, 
những ngôi chùa ở đây có pha nét kiến trúc cung đình. Có thể kể đến những 
ngôi chùa nổi tiếng của vùng đất này như chùa Thiên Mụ, chùa quốc Ân, chùa 
Báo Quốc, chùa Từ Hiếu, chùa Từ Đàm,. 
Trên đây ta nói đến là kiến trúc chùa. Còn kiến trúc tháp thì sao? 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
17
Có thể khẳng định ngay rằng, loại hình kiến trúc thấp cũng cực kỳ 
phong phú. Phật tử cũng như ngoại đạo đều biết đến tên tuổi của chùa Báo 
Thiên vòi vọi, tháp Sùng Thiện Diên Linh gắn với tấm bia về múa rối, chùa 
tháp Chương Sơn với net kiến trúc đặc trưng của hai tay vịn vũ nữ tạc theo tư 
thế tribhanga mang dấu ấn Chăm rõ rệt. 
Không thể nói đến kiến trúc chùa, tháp với những tên tuổi nổi tiếng mà 
không thể đề cập đến một hệ thống tượng Phật vô cùng phong phú trong đóng 
góp về vật chất của Phật giáo ở Việt Nam. Nói đến chùa tháp là nói đến Tam 
Thế, Tam Thân, những pho tượng Thích Ca, Phổ Hiền, Văn Thù, những pho 
Di Lặc, Đại Diệu Tường, Pháp Hoa Lâm; A Di Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế 
Chí; Tuyết Sơn, Ca Diếp, A Nan; những bộ tượng Cửu Long, tượng Quán 
Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn; tượng phật bát La Hán; tượng thập điện 
Diêm Vương; tượng Hộ Pháp. Ngoài các tượng Phật còn có các tượng Tổ hay 
tượng Hậu. Phật điển trong mỗi vùng, mỗi ngôi chùa cụ thể khác nhau hoàn 
toàn. Tuy nhiên có thể thấy rằng, Phật giáo đã để lại những pho tượng đẹp nổi 
tiếng như tượng Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn (ở Phú Thị, Khoái 
Châu, Hưng Yên; Bút Tháp, Thuận Thành, Bắc Ninh) đã được đánh giá là 
“pho tượng đẹp nhất trên phật điện”, tượng A Di Dà chùa Phật Tích, tượng 
Tuyết Sơn chùa Tây Phương (Hà Tây) đã đi vào thơ ca, văn học,v.vvà 
v.vBên cạnh đó, chùa Việt còn để lại những pho tượng đồng vang tiếng như 
hai pho tượng đồng ở Đồng Dương (Quảng Nam), đã trở thành kiệt tác trong 
làng tượng Phật Việt Nam. Một vài thập niên trở lại đây, du khác cũng như 
Phật tử khi đến Miền Nam còn nhìn thấy những pho tượng Phật và tượng 
Quán Thế Âm kích thước đồ sộ bằng thạch cao hay xi măng côt thép được đặt 
trên những cao điểm, từ xa đã có thể trông thấy. 
Nói đến chùa còn phải nói đến Phật điện với những trang trí nghệ thuật 
trên các chất liệu gỗ, đá, tạo nên những y môn, đồ khí tự, kiệu vàng, cuốn thư, 
đại tự Bia đá, câu đối và thậm chí tháp mộ trong nhiều chùa đã để lại những 
dấu ấn mĩ thuật đặc thù. 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
18
Kiến trúc chùa phật ở Việt Nam còn là kiến trúc sinh thái, hoà hợp 
cùng thiên nhiên. Những ngôi chùa trở thành danh lam thắng cảnh nổi tiếng 
được xây dựng trên những núi non, sông nước kỳ vĩ. Hệ thống quần thể chùa 
Hương, Yên Tử, Tây Phương, chùa Thầy, chùa Chấn Quốc, chùa Non Nước 
v.v là ngôi chùa được ẩn hiện trong môi trường thiên nhiên với những cây 
đại thụ, những hương hoa cùng chim chóc càng làm tăng thêm sự linh thiêng 
của không gian nơi đất Phật. 
Đó là một vài đóng góp về văn hoá vật thể của Phật giáo. 
Còn về mặt văn hoá phi vật thể, cụ thể về mặt tư tưởng, Phật giáo đã có 
những ảnh hưởng gì đến văn hoá Việt Nam? 
3. Những ảnh hưởng của Phật giáo ở Việt Nam đó là mang 
đậm tính dân gian với tư tưởng từ bi cứu khổ cứu nạn. 
Có thể nhận thấy, người Việt nảy sinh tư duy trừu tượng về phồn thực 
với hình thức ma thuật mô phỏng là một dạng tôn giáo tín ngưỡng nguyên 
thuỷ. Các nhà nghiên cứu đã phân tích các hình vễ được khắc trên thân trống 
đồng như cảnh chim bay, cảnh miêu tả các động vật như trâu, bò để chứng 
minh cho luận thuyết: Người Việt khi đó đã có quan niệm về vũ trụ quan với 
3 thế giới: Trời - Đất – Nước. Điều đó cho thấy, tư duy củ người Việt đã nhận 
thức được sự vận động vòng tròn để từ đó làm cơ sở cho việc tiếp nhận dễ 
dàng thuyết luôn hồi của Phật giáo. 
Phật giáo với lý luận nhân quả, rõ ràng là cao siêu hơn ma thuật nhưng 
cũng không phải hoàn toàn xa lạ với người Việt. Ma thuật đã chứng minh 
nhân nào quả ấy nhưng Từ Bi mới là tư tưởng chính của Phật giáo được đưa 
vào hệ tư tưởng Việt. 
Tư tưởng Từ Bi của phật giáo thấm đẫm trong tâm hồn Việt từ người 
bình dân đến kẻ trí thức, thể hiện trong truyện kể dân gian cũng như trong thơ 
văn bác học. 
Trong truyện kể dân gian, bao giờ Phật cũng hiện lên để cứu khổ, cứu 
nạn cho con người. Lấy chuyện Tấm Cám làm ví dụ. Phật đã hiện lên giúp 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
19
cho Tấm con cá bống, sai chim tới nhặt thóc, cho áo quần, giầy dép để đi chơi 
hội, lấy hoàng tử. Mỗi lần Tấm bị hại, Phật lại hiện ra giúp Tấm, lúc là bụi 
trúc đào khi là quả thị. Chuyện kể thấm đẫm tinh thần cứu khổ, cứu nạn của 
phật giáo với hình ảnh ông bụt đại từ đại bi, phổ độ chúng sinh. 
Một câu chuyện khác ở vở chèo Quan Âm Thị Kính nổi tiếng vì lời hay 
múa đẹp, vì nỗi oan tình được cửa Từ Bi cứu vớt mà không minh được oan. 
Câu chuyện Phật giáo triều tiên đó phù hợp với người Việt Nam đến nỗi 
không mấy ai nhớ đó là câu chuyện của Triều Tiên. Bởi lẽ, tư tưởng Từ Bi 
Bác ái của nhà Phật đã được diễn đạt hết sức dân gian, hết sức Việt Nam và 
có lẽ Việt Nam hơn Truyện Kiều. Một điều đáng nói ở đây là câu chuyện 
Quan Âm Thị Kính được thể hiện bằng chèo, một hình thức nghệ thuật dân 
gian hơn cả văn thơ lục bát vốn cũng mang đậm tính dân gian. 
Phật giáo đã thổi vào tâm hồn người Việt một làn gió mát Từ Bi. Chất 
Từ Bi của nhà Phật thấm sâu không những trong những nghệ sĩ dân gian vô 
danh mà còn đi sâu vào lòng những người dân bình dị. Đó là độ thấm sâu của 
tư tưởng Phật giáo vào văn hoá Việt Nam chứ không phải tất cả tư tưởng Tứ 
Diệu Đế của Phật giáo. 
Phật giáo vào Việt Nam mang đậm tinh dân gian đến nỗi những người 
dân mặc dù theo Phật giáo nhưng ít có hiểu biết về phật. 
Phật giáo có ảnh hưởng với văn hoá Việt Nam trong suốt triều dài lịch 
sử đất nước. Hiện nay Phật giáo vẫn còn là một tác nhân tác động mạnh trong 
xã hội. Chúng ta dễ nhận thấy Phật giáo đã mang đến cho người Việt những 
ngôi chùa cổ kính, những pho tượng bề thế rải khắp xóm làng làm tăng lòng 
từ bi và hướng thiện của người bình dân. Phật giáo đã đưa đến một trung tâm 
văn hoá làng một thời sôi động. Phật giáo cũng đã mang đến trong tâm hồn 
người Việt một đời sống tâm linh sâu đậm từ khi du nhập cho đến nay. Trong 
lịch sử, Phật giáo cũng luôn gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Đến thế kỷ 
XX Phật giáo với những nhà sư Tây học đã đóng góp một phần nhỏ trong sự 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
20
thành công của cách mạng, mở ra một nước Việt Nam độc lập. Chỉ những nhà 
sư và tín đồ đi theo cách mạng mới có tác động tích cực hơn. 
4.Những ảnh hưởng của phật giáo đến tư duy của người 
việt nam. 
Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu tố tôn giáo và triết 
học luôn hoà quện vào nhau làm cơ sở luận chứng cho nhau.ở đây chung ta 
lưu ý đến yếu tố triết học về mặt này Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn tới tư duy 
của người Việt Nam trong đó có những giá trị và nhiều hạn chế nhất định. 
Tiếp thu phật giáo tư duy người Việt Nam có thêm một số khái niệm và 
phạm trù nói nên bản thể luận là những vấn đề cơ bản của triết học.Trong thế 
giới quan phức hợp nhiều thành phần của người Việt Nam thì Phật giáo là có 
ý nghĩa nhiều nhất. 
Hơn tất cả các học thuyết khác của phương đông,Phật giáo chú ý đến 
mặt phát triển tự nhiên của con người,đó là sinh ,lão, bệnh ,tử.Bốn chặng đó 
của cuộc đời đã nói lên sự phát triển tất yếu của con người mà nếu ai đó nhận 
thức được sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời thậm chí sống lạc 
quan bình thản trước cái chết.Nhiều nhà sư trong Lý – Trần đã có qua niệm 
như thế. 
Phật giáo đã đề cập đến vấn đề ngũ uẩn:sắc ,thụ, tưởng ,thành, thức là 
những vấn đề có ý thức luận sâu xa.Tuy đối tượng đó là tâm và tính chất là 
duy tâm nhưng trong quá trình ngũ uẩn chứa đựng một quá trình nhận thức 
hợp lý;Từ sự vật khánh quan(Sắc),Con người cảm thụ được(Thụ),Suy 
nghĩ(Tưởng),Rồi đem hiện (Hành), và cuối cùng là biết(Thức).Ở đây nếu đem 
bóc cái thần bí ra ta thấy có những hạt nhân hợp lý. 
Phật giáo đã đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những qua niêm biện 
chứng với các khái niệm ‘vô thường’, ‘vô ngã’ Cho thấy phật giáo nhìn sự vật 
trong sự vận động biến đổi liên tục không có gì là trụ lại mãi, không có ai là 
tồn tại mãi.Tuy nhận thức đó chỉ nhìn thấy cái biến đổi mà không nhìn thấy 
cái ổn định tương đối, chỉ thấy được cái vận dộng mà không thấy được của 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
21
cái hình thức vận động sẽ đi đến chiều hướng bi quan buông xuôi nhưng mặt 
khác phải thấy nhận thức được như vậy là cũng có chiều sâu, là thấy được 
phương diện cơ bản của sự phát triển sự vật. 
Phật giáo đề cập đến mối nhân duyên đến mối quan hệ nhân quả, đến 
việc xét sự vật phải từ kết quả tìm ra nguyên nhân và xem kết quả này là 
nguyên nhân từ kết quả khác trong mỗi qua hệ khác. 
Trên đây là những vấn đề mà phật giáo đã ảnh hưởng đến tư duy Việt 
Nam góp phần làm nên những yếu tố triết học sâu xa trong thế giới quan của 
người Viêt Nam. 
Tuy vậy Phật giáo cũng có nhứng hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực nhất 
định đế tư duy của người việt nam chúng ta. 
Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con người, 
chỉ thấy cong người nói chung mà không thấy con người của giai cấp đối 
kháng nhau trong xã hội trước đây, không thừa nhận đấu tranh trong gia cấp 
xã hội,do đó không thấy được nguyên nhân khổ ải của con người, không thấy 
được sự cần thiết phải chống áp bức, bóc lột vì thế qua niêm từ bi bác ái trong 
một số trường hợp bất lợi cho đấu tranh giải phóng giai cấp, chống áp bức. 
Phật giáo không bàn tới lĩnh vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sư bước 
sang lĩnh vực chính trị-xã hội phải sử dụng các tư tương Nho hay Lão 
Trang.Nhà sư Viễn Thông cho rằng``Lòng dân là gốc trị loạn``,trong đó``lòng 
dân`` là khái niệm và tư tưởng của nhà nho; nhà sư Đỗ Phát Nhuận nói ( nếu 
dường nối vô vi ngự trị trong triều đình thì nơi nơi sẽ tắt chiến tranh) trong đó 
vô vi là khái niệm của Lão- Trang mặc dù khái niệm đó được giả thích theo 
quan niêm nhà Phật. 
Hạn chế lớn nhất của phật giáo đối với tư duy của người việt nam là 
quan điểm duy tâm thần bí .Quan điểm này không hướng người ta vào hiện 
thực mà hướng vào quả báo, hướng vào nghiệp, vào thần linh để mong được 
phù hộ, độ trì.Và một khi tư duy như vậy thì không cần khám phá tìm tòi, 
sáng tạo và hành động 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ ẢH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
22
Tóm lại, Phật giáo hoà nhập thành một yếu tố dân tộc nên đã thúc đẩy 
bánh xe lịch sử tiến lên theo khả năng và vị trí của Phật giáo trong mối quan 
hệ với các dòng tư tưởng khác ở từng thời điểm lịch sử cụ thể.Phật giáo đã 
hướng tới cái đẹp, cái thiện và mang tinh thần yêu nước.Tinh chân, thiện,mĩ 
được thể hiện rõ trong tư tưởng Phật giáo Việt Nam. 
Bài viết này chưa thực sự hoàn chỉnh, có thể còn nhiều thiếu sót, tác giả 
mong muốn sự góp ý của các thầy cô và các bạn để bàI viết được hoành chỉnh 
hơn. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_triet_hoc_phat_giao_an_do_va_anh_huong_cua_no_den.pdf