Tiểu luận Từ sau bình thường hóa quan hệ năm 1995 cho đến nay, quan hệ chính trị đối ngoại Việt - Mỹ phát triển theo hướng “đối tác” hay “đối tượng”. Và dự báo xu hướng phát triển quan hệ Việt - Mỹ trong thời gian tới
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Từ sau bình thường hóa quan hệ năm 1995 cho đến nay, quan hệ chính trị đối ngoại Việt - Mỹ phát triển theo hướng “đối tác” hay “đối tượng”. Và dự báo xu hướng phát triển quan hệ Việt - Mỹ trong thời gian tới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Từ sau bình thường hóa quan hệ năm 1995 cho đến nay, quan hệ chính trị đối ngoại Việt - Mỹ phát triển theo hướng “đối tác” hay “đối tượng”. Và dự báo xu hướng phát triển quan hệ Việt - Mỹ trong thời gian tới
Tiểu luận Từ sau bình thường hóa quan hệ năm 1995 cho đến nay, quan hệ chính trị đối ngoại Việt - Mỹ phát triển theo hướng “đối tác” hay “đối tượng”? Và dự báo xu hướng phát triển quan hệ Việt - Mỹ trong thời gian tới. LỜI NÓI ĐẦU Là một cường quốc kinh tế, là một quốc gia có tầm ảnh hưởng chính trị lớn trên thế giới, Mỹ luôn là quốc gia mà khi đặt quan hệ, các quốc gia khác luôn phải lường trước tính sau cẩn thận, kỹ càng. Và Việt Nam cũng không nằm trong ngoại lệ. “Đã đến lúc chúng ta nên nghĩ về Việt Nam với tư cách là một đất nước chứ không phải một cuộc chiến tranh”.1 Thực sự phải nói rằng, chỉ khi các giới ở Mỹ nhìn nhận Việt Nam là một đất nước chứ không phải là một cuộc chiến, thì mối quan hệ giữa hai nước mới được bình thường hóa và phát triển nhanh chóng. Ngày nay, sau gần 15 năm bình thường hóa, quan hệ chính thức Việt - Mỹ trên các mặt văn hóa – xã hội, chính trị - an ninh đã phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, phía trước vẫn còn rất nhiều việc cần phải làm bởi mối quan hệ này vẫn chỉ đang ở mức tiềm năng và hai bên phải chủ động có những sáng kiến để thúc đẩy mối quan hệ này. Giai đoạn này của mối quan hệ Việt - Mỹ được ví như một cuộc chơi chưa có luật, và một khi luật chơi chưa rõ ràng thì khó khăn là không tránh khỏi. Vì thế mà hơn lúc nào hết, định vị rõ ràng cho mối quan hệ Việt - Mỹ là điều vô cùng quan trọng và cần thiết trong giai đoạn này. Có nhiều câu hỏi, nhiều vấn đề được đặt ra: liệu với chính quyền mới tại Mỹ, mối quan hệ Việt - Mỹ có thể đạt được bước tiến mới hay không? Các vấn đề còn tồn đọng trong mối quan hệ hai nước như vấn đề dân chủ nhân quyền có được giải quyết hay không? Mối quan hệ Việt - Mỹ sẽ thiên về “đối tác” hay “đối tượng”? Tuy nhiên, trong khuôn khổ tiểu luận này, câu hỏi nghiên cứu chính được đưa ra là: Từ sau bình thường hóa quan hệ năm 1995 cho đến nay, quan hệ chính trị đối ngoại Việt - Mỹ phát triển theo hướng “đối tác” hay “đối tượng”? Và dự báo xu hướng phát triển quan hệ Việt - Mỹ trong thời gian tới. 1 Ngoại trưởng Mỹ Warren Christopher, trong chuyến thăm và làm việc chính thức tại Việt Nam sau khi bình thường hóa năm 1995. TÓM TẮT Bài tiểu luận có đề tài về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ sau bình thường hóa 1995 đến nay. Vấn đề nghiên cứu là cặp phạm trù “đối tác - đối tượng” trong mối quan hệ này, từ sau khi bình thường hóa đến nay, Việt Nam và Mỹ thiên nhiều về mặt “đối tác” hay “đối tượng” và trong tương lai với sự ra đời của chính quyền mới tại Mỹ, liệu mối quan hệ này có sự tiến triển gì hay không. Sau khi nghiên cứu về vấn đề được đặt ra ở trên, bài tiểu luận này đã đi đến kết luận về một mối quan hệ Việt - Mỹ thiên nhiều về mặt “đối tượng” hơn là “đối tác” vì những thành tựu cả hai nước đạt được chưa đủ để đưa mối quan hệ chính trị đối ngoại lên một nấc mới. Việt Nam vẫn còn chững lại trong việc quyết định chính sách đối ngoại với Mỹ bởi vẫn còn cân nhắc đối trọng với Trung Quốc. Một số dự đoán cho rằng quan hệ Việt - Mỹ trong thời gian tới sẽ không có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Việt Nam cũng như Mỹ nên giậm chân tại chỗ trong việc tăng cường mặt “đối tác” và hạn chế tối thiểu nhất mặt “đối tượng” trong mối quan hệ chính trị đối ngoại của hai nước. Chương I: SỰ THAY ĐỔI TRONG TƯ DUY ĐỐI NGOẠI TỪ CẶP PHẠM TRÙ “HỢP TÁC - ĐẤU TRANH” THÀNH “ĐỐI TÁC - ĐỐI TƯỢNG” I. Bối cảnh chung: 1. Trên thế giới: Bối cảnh thế giới và khu vực nói chung thời kì này có rất nhiều biến động. Chiến tranh lạnh kết thúc và CNXH ở Liên Xô và Đông Âu tan rã đã tạo ra một trật tự thế giới mới: Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế giới song cũng gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các cường quốc khác trên thế giới như Nhật, Nga, Trung Quốc và EU. Tại khu vực Đông Nam Á, tình hình có xu hướng ổn định và kinh tế phát triển năng động. Nhưng sau khi khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, rất nhiều nền kinh tế ASEAN gặp phải khó khăn, suy thoái. Xu thế đối thoại thay cho đối đầu cũng là xu thế chủ yếu trong nền chính trị Quốc tế. Các nước lớn có sự thay đổi chiến lược, Liên Xô đi vào cải tổ, thực hiện hoà hoãn và giảm căng thẳng với bên ngoài. 2. Ở Việt Nam: Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, tuy phải giải quyết những khó khăn do 30 năm chiến tranh để lại nhưng Việt Nam đã tạo lập được vị thế và uy tín rất cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta đã lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội và bị một số nước cô lập về ngoại giao. Các thế lực chống đối nhân tình hình đó đã câu kết với nhau, chống phá ta. Ta còn rất ít bạn bè. Một số nước trước đây ủng hộ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ đã xa lánh ta. Quan hệ giữa nước ta với các nước ASEAN và các nước lớn (trừ Liên Xô và Ấn Độ) gặp nhiều vướng mắc và không giải tỏa được khiến cho nền an ninh nước ta bấp bênh khi phải đối phó với sự căng thẳng ở cả hai đầu biên giới. Trong lúc đó, những khó khăn về kinh tế lại càng chồng chất vì phải chi tiêu rất lớn cho quân sự, quốc phòng. II. Tại sao phải chuyển đổi tư duy từ “hợp tác - đấu tranh” sang “đối tác - đối tượng” : Trước tình hình thế giới và trong nước như thế, Việt Nam cần có những thay đổi chính sách sao cho phù hợp, trong đó yêu cầu đổi mới mọi mặt trong tư duy đối ngoại được đặt lên hàng đầu. Đổi mới để tồn tại, đổi mới để thoát khỏi bao vây, cấm vận, để phát triển kinh tế và đổi mới để giữ vị trí lãnh đạo. Và một trong những đổi mới tư duy của Đảng được đề cập đến ở đây là chuyển biến từ cặp phạm trù “hợp tác - đấu tranh” đến cặp phạm trù “đối tác - đối tượng”. Đồng nghĩa với việc xác định rõ ràng hơn mối quan hệ với các quốc gia khác, cụ thể là Mỹ: những mặt nào có thể hợp tác cùng Mỹ để tăng cường lợi ích của chính chúng ta và những mặt nào cần phải đấu tranh đến cùng với Mỹ để giữ vững độc lập, tự chủ của dân tộc. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7 – 2003), lần đầu tiên, trong Nghị quyết chuyên đề về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta đã đưa ra cách nhìn mới, thống nhất về vấn đề đối tác và đối tượng theo nguyên tắc: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cũng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấy tranh. Tuy nhiên, trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta.2 Đối tượng và đối tác là hai mặt luôn đan xen và thống nhất trong mỗi chủ thể.3 Theo đó, Mỹ đối với Việt Nam không hoàn toàn chỉ là “đối tác” hoặc ngược lại chỉ là “đối tượng”. Chương II: TÍNH ĐỐI TƯỢNG TRONG QUAN HỆ CHÍNH TRỊ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM – HOA KỲ 2 Ban tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Tài liệu học tập Nghị quyết lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.44 3 Phương pháp luận phân tích mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng trong nhận thức của Đảng ta, tiến sĩ Phan Trọng Hào - Học viện chính trị, quân sự Có nhiều lý do để Hoa Kỳ là một “đối tượng” trong một số mặt còn tồn đọng trong quan hệ hai nước Việt - Mỹ. Nhưng có lẽ lý do căn nguyên nhất vẫn là sự khác biệt về ý thức hệ. Sự khác biệt giữa ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và ý thức hệ tư bản chủ nghĩa dường như là hố ngăn khó xóa nhòa một khi Việt Nam vẫn còn đi theo con đường quá độ lên xã hội chủ nghĩa và Mỹ vẫn là một siêu cường tư bản. I. Vấn đề nhân quyền: Đây có thể nói là vấn đề dai dẳng và kéo dài khi Mỹ liên tục đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia điển hình tại Đông Á vi phạm nhân quyền trong báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về vấn đề nhân quyền từ năm 2005 cho đến nay. Trên nhiều phương diện, Chính phủ Việt Nam tiếp tục hạn chế các quyền công dân. Công dân không thể thay đổi chính phủ, các phong trào chính trị đối lập bị cấm, Chính phủ tiếp tục đàn áp những người bất đồng. Các cá nhân bị giam giữ tùy tiện vì tiến hành các hoạt động chính trị và bị tước quyền được xét xử công bằng và đúng trình tự, thủ tục. Trong quá trình bị bắt, giam giữ và thẩm vấn, các nghi can cũng bị vi phạm các quyền. Tình trạng tham nhũng là vấn đề nghiêm trọng trong lực lượng công an, tuy nhiên họ không hề bị truy cứu trách nhiệm. Chính phủ tiếp tục hạn chế các quyền cá nhân của công dân và quyền tự do bày tỏ. Trong năm, báo chí tiếp tục bị đàn áp, khiến một số biên tập viên cao cấp của các báo bị cách chức, hai phóng viên bị bắt. Những hành động này đã làm chững lại xu hướng điều tra mạnh mẽ hơn của báo chí trước đây. Những hạn chế về hội họp, đi lại và lập hội vẫn được duy trì. Các tổ chức nhân quyền độc lập bị cấm. Bạo lực, phân biệt đối xử với phụ nữ và buôn người vẫn là những vấn đề nghiêm trọng. Chính phủ hạn chế các quyền của người lao động, bắt hoặc gây khó dễ đối với một số nhà hoạt động trong lĩnh vực lao động.4 4 Bản báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về vấn đề nhân quyền 2008 Nếu nắm bắt rõ tình hình Việt Nam và các sự kiện mà Mỹ cho rằng có sự vi phạm nhân quyền như đã đề cập trong bản báo cáo trên, ta có thể thấy rằng Mỹ đã tìm mọi cách bóp méo và làm sai lệch đi các sự kiện theo hướng buộc tội Việt Nam vi phạm nhân quyền. Vì cớ gì mà những nhà báo vi phạm pháp luật Việt Nam bị xử lý hoặc bị thu thẻ nhà báo do vi phạm những quy định của nhà nước Việt Nam bị thuyên chuyển công tác lại trở thành “báo chí tiếp tục bị đàn áp”. Có thể thấy rõ bản báo cáo được soạn thảo dựa trên những thông tin sai trái về Việt Nam và không xuất phát từ thiện ý do những thành kiến về chính trị từ phía Mỹ. Mọi quyền của người dân Việt Nam, trong đó có quyền làm chủ, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tôn giáo... đều được Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt Nam bảo đảm. Và trên thực tế, nhân dân Việt Nam đã và đang được hưởng những quyền này. Thêm vào đó, Việt Nam vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình, cho nên những sai sót là không tránh khỏi, tuy nhiên, những quyền cơ bản của công dân như quyền làm chủ, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và tự do tôn giáo luôn luôn được bảo đảm. II. Vấn đề tôn giáo: Cũng trong năm 2008, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đồng thời đưa ra bản báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế 2008. Trong đó, đề cập đến Việt Nam là một quốc gia mà “quyền tự do tín ngưỡng bị hạn chế”5. Hiến pháp Việt Nam có quy định mọi công dân Việt Nam đều có quyền tự do theo đạo hoặc không theo đạo. Những người theo đạo được tạo điều kiện thuận lợi, cả trong khuôn khổ pháp lý cũng như trên thực tế, để thực hành những nghi lễ theo đức tin của họ. Mọi tổ chức tôn giáo được pháp luật Việt Nam thừa nhận đều được tự do hành đạo theo quy định của pháp luật. Nếu Việt Nam thực sự là một nước hạn chế quyền tự do tín ngưỡng của công dân thì Việt Nam đã không được tín 5 Bản báo cáo về vấn đề tư do tôn giáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ 2008 nhiệm là nơi tổ chức Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc với hàng nghìn đại biểu đến từ khắp thế giới. Khách quan mà nói Việt Nam không chủ trương đàn áp tôn giáo kể cả hạn chế nó, nhưng vì Việt Nam vẫn nhìn vấn đề tôn giáo qua lăng kính cảnh giác là kẻ thù Mỹ có động cơ làm diễn biến hoà bình và qua cái khung điều hành tôn giáo của thời kháng chiến. Cái khung này là áp lực mọi tôn giáo trở thành thành viên Mặt Trận Tổ Quốc, là đòi hỏi mọi học viên học tập để trở thành chức sắc trong các tôn giáo phải qua sự xét duyệt của nhà nước. Điều này quả thực đã lỗi thời và biến thành cái cớ để những người chống chế độ tiếp tục sử dụng, và lôi kéo theo những người khác nhằm cho rằng chế độ không cho tự do tôn giáo.6 III. Diễn biến hòa bình: Những vấn đề trong câu chuyện diễn biến hòa bình – cũng là một phần chính sách của Mỹ trong quan hệ với Việt Nam, đã phần nào làm cho mối quan hệ giữa hai nước chững lại trong một vài năm gần đây. Với bài phát biểu của mình sau khi được bổ nhiệm làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam năm 2007, ông Michael Michalak đã có nói: "Hãy tưởng tượng, trong vòng 20 năm nữa, chúng ta sẽ thấy không chỉ tiền của chúng ta đầu tư tại Việt Nam tăng lên mà có thể chúng ta sẽ thấy 75% thành phần chính phủ Việt Nam tốt nghiệp tại Hoa Kỳ", và không hề giấu giếm mục đích "sẽ có lợi cho Việt Nam phát triển và đi đến dân chủ hơn". Như là lời tuyên bố công khai chiến lược diễn biến hòa bình của Mỹ tại Việt Nam thông qua vị Đại sứ này. “75% thành phần chính phủ Việt Nam tốt nghiệp tại Hoa Kỳ” – như thế là một bản sao, hay sự lặp lại một lần nữa chính phủ Việt Nam Cộng hòa, một hoạch định cho sách lược toàn cầu hóa của Mỹ tại Đông Nam Á. Tại đây, trong thế buộc phải cân bằng ảnh hưởng với Trung Quốc đang ngày càng mạnh lên – là mối đe dọa 6 Tạp chí nghiên cứu & thảo luận Thời đại mới, số 4 – tháng 3/2005 – Bài phỏng vấn Vũ Quang VIệt - người có bài tham gia Hội Thảo Hè 1998 với đề tài Vấn đề tranh chấp biển Đông. cho Mỹ tại khi vực Châu Á, Mỹ cần Việt Nam như một “đối tác” ngăn cản sự bành trướng của Trung Quốc xuống phía Nam. Nhưng đối với Việt Nam, khi Việt Nam bị lôi kéo vào cuộc chơi này, Mỹ hoàn toàn là một “đối tượng” đáng gờm cho độc lập, tự chủ của Việt Nam. Cũng như các nước láng giềng khác, Việt Nam không có ý muốn lựa chọn Trung Quốc hay Mỹ, nếu Việt Nam thực sự phải chơi ván bài này, sẽ là một ván bài khó khăn và đầy thử thách đối với Việt Nam. Bên cạnh đó, một điều dễ nhận thấy từ khi bình thường hóa với Mỹ, thị trường Việt Nam rộng mở đón các doanh nghiệp đến từ nước này và đồng thời đe dọa đến nền văn hóa Việt Nam được gọi bằng cái tên “Mỹ hóa”. Dân số Việt Nam là dân số trẻ, thế hệ trẻ luôn dễ bị ảnh hưởng bởi những cái mới và lạ. Điều này tiếp tay cho sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ văn hóa Mỹ vào Việt Nam và làm hao mòn những giá trị truyền thống hàng nghìn năm của nước ta. Chương III: TÍNH ĐỐI TÁC TRONG QUAN HỆ CHÍNH TRỊ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM – HOA KỲ Với xu thế toàn cầu hóa đang dần trở thành xu thế chính trong quan hệ quốc tế thời kỳ này, cũng như là sự cần thiết phải hội nhập với cộng đồng quốc tế trên nhiều lĩnh vực, thì Mỹ trở thành một đối tác chính trị lớn bởi quyền lực và sự ảnh hưởng của nó trên thế giới. I. Vấn đề POW/MIA: Trong nội bộ nước Mỹ, vấn đề tù binh Mỹ và người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam luôn là vấn đề hết sức nhạy cảm với gia đình có những người mất tích và đối với dư luận Mỹ. Vì thế mà chính quyền Mỹ luôn gắn việc giải quyết vấn đề này với việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Thêm vào đó, những lực lượng thù địch với Việt Nam lại thêu dệt nên hàng ngàn câu chuyện xung quanh vấn đề này để gây bức xúc trong dư luận Mỹ và tác động mạnh mẽ đến giới cầm quyền Mỹ. Như ông Micheal Leaveck, Giám đốc cộng sự của Tổ chức cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam có trụ sở tại Washington nói: “Nhìn một cách bao quát, toàn bộ vấn đề POW/MIA đã được người ta nhào nặn ra. Chính quyền Reagan đã sử dụng nó vào mục đích chính trị. Chính quyền Buch đã làm cho vấn đề này trở thành vô tận. Các thế lực chính trị đã sử dụng nó như một đòn bẩy cho một chương trình rộng lớn hơn.” Trong khi đó, Việt Nam luôn xem vấn đề POW/MIA là một vấn đề nhân đạo và đã có rất nhiều nỗ lực để giải quyết vấn đề này để phù hợp với truyền thống nhân ái của người Việt Nam. Trong tuyên bố của tổng thống Mỹ Bill Clinton ngày 11/07/1995 về việc Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam có đoạn: “Hôm nay tôi loan báo việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Từ thời gian đầu của chính quyền này, bất kỳ sự cải thiện nào trong quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam đều dựa vào tiến bộ đạt được về vấn đề những người Mỹ bị mất tích trong khi làm nhiệm vụ hay bị bắt làm tù binh [] Hà Nội đã trao cho chúng ta hàng trăm trang tài liệu rọi ánh sáng vào những gì đã xảy ra đối với những người Mỹ ở Việt Nam. Đáp lại, Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt trong bài phát biểu của mình đã nói: “Xuất phát từ tinh thần nhân đạo, Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẽ làm hết sức mình hợp tác với Hoa Kỳ nhằm kiểm kê một cách đầy đủ có thể được những người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam.” Năm 1996, một phái đoàn đại diện cho Tổng thống Mỹ do Thứ trưởng Bộ cựu chiến binh Mỹ Hershel Gober dẫn đầu đã thăm và làm việc tại Việt Nam. Thành viên của Đoàn có đại diện của năm tổ chức cựu chiến binh lớn nhất nước Mỹ và liên đoàn các gia đình có người mất tích trong chiến tranh, đây là các tổ chức trước đây thường phản đối gay gắt việc tiến tới quan hệ ngoại giao với VIệt Nam và có tiếng nói tác động mạnh mẽ nhất đến chính sách ngoại giao của Mỹ. Tuy nhiên sự hợp tác đầy tính nhân văn của Việt Nam đã thay đổi nhận thức của họ. Trong khi tham dự một buổi khai quật của Lực lượng tìm kiếm hỗn hợp Việt - Mỹ ở làng Tiền Châu ngày 18/11/2000, Tổng thống Bill Clinton đã phát biểu: “Quốc gia chúng tôi đã cam kết sẽ không ngừng tìm kiếm cho đến khi nào có được thống kê đầy đủ nhất trong chừng mực có thể về các quân nhân bị mất tích của mình. Nhưng chúng tôi chỉ có thể hoàn thành lời hứa của mình với sự hợp tác của Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Cá nhân tôi muốn cảm ơn những người dân của làng, huyện và tỉnh này về lòng tốt của họ, cảm ơn họ đã cung cấp các hiện vật và thông tin hữu ích cho công việc tìm kiếm, và cám ơn sự làm việc rất miệt mài của họ cùng các nhân viên”. Như vậy, Việt Nam đã hợp tác cùng Mỹ trong việc giải quyết vấn đề nhân đạo MIA. Đáp lại, Mỹ cũng đã trao cho Việt Nam gần 400.000 trang tài liệu có liên quan đến việc tìm kiếm các quân nhân Việt - Mỹ bị mất tích trong chiến tranh. Trong chuyến viếng thăm của tổng thống Bill Clinton đến Việt Nam vào tháng 11/2000, phía Mỹ cũng đã trao thêm cho một số đĩa vi tính chứa 360.000 trang tài liệu nhằm có thể giúp ích phần nào cho việc tìm kiếm tin tức những người Việt Nam bị mất tích trong chiến tranh. Thực tế, những trang tài liệu của Mỹ cũng đã giúp Việt Nam tìm kiếm, quy tập được hơn 900 hài cốt liệt sĩ Việt Nam. Tóm lại, thiện chí hợp tác giữa hai nước Việt Nam và Mỹ trong vấn đề MIA đã tạo được những tiền đề và điều kiện chín muồi cho việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao và hiện nay vẫn tiếp tục hợp tác ở mức độ cao hơn. II. Vấn đề tranh chấp biển Đông: Có thể nhiều người sẽ thấy kỳ lạ nếu xếp vai trò của Mỹ trong vấn đề tranh chấp tại biển Đông vào mảng “đối tác” trong quan hệ Việt - Mỹ. Tuy nhiên, thực tế là vậy. Tại hội nghị An ninh châu Á năm 2008, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert Gates đã cảnh tỉnh những người tham dự: “ Sự phồn vinh của khu vực châu Á luôn dựa vào quy phạm quốc tế và có trách nhiệm đối với việc bảo vệ tài nguyên chung”. Mặc dù sau khi Trung Quốc đưa ra chính sách “gác tranh chấp, cùng khai thác” đối với vấn đề biển Đông, các nước xung quanh đang dần dần lấy hợp tác thay cho xu thế đối kháng nhưng quân đội Mỹ vẫn luôn muốn can thiệp và rốt cục là muốn kiềm chế Trung Quốc, muốn giành được vị trí chủ đạo ở khu vực này. Có hai lý do để nói rằng động thái này của Mỹ có thể có lợi cho Việt Nam: Thứ nhất, có một điều mà ai cũng biết đó là tham vọng thôn tính Việt Nam của Trung Quốc chưa bao giờ nguội tắt, mọi hành động của Trung Quốc đối với Việt Nam đều có những dự tính thâm hiểm trong đó, vì thế mà ý đồ mở rộng ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á có khả năng làm bận rộn Trung Quốc trong một thời gian dài đủ để Trung Quốc quên đi hoặc quá bận rộn để nhớ đến tham vọng thôn tính của mình. Thời gian đó có thể đủ dài để Việt Nam “đủ lớn, đủ khôn ngoan” để có những chính sách phù hợp đối phó với Trung Quốc mà không phá vỡ mối quan hệ này. Thứ hai, cũng xuất phát từ vị trí của biển Đông trong bố trí chiến lược của Mỹ, Việt Nam là một đối tác quan trọng ở khu vực Đông Nam Á mà Mỹ muốn kéo nghiêng về phía mình. Phó trợ lý bộ trưởng Mỹ phụ trách các vấn đề Đông Nam Á - Đại sứ của Mỹ về các vấn đề ASEAN Scot Marciel trong cuộc gặp với báo chí tại Hà Nội tháng 2/2009 đã khẳng định “Mỹ ủng hộ vai trò lãnh đạo mạnh mẽ hơn của Việt Nam trong ASEAN. Đông Nam Á rất quan trọng với chúng tôi, vì thế chúng tôi cố gắng xây dựng quan hệ tốt đẹp với cả khối ASEAN với từng nước thành viên và các định chế trong ASEAN. Việt Nam là một nước rất quan trọng ở ASEAN và trong khu vực, về dân số và tăng trưởng kinh tế. Việt Nam đang có ghế trong HĐBA LHQ nên vai trò càng quan trọng hơn"7 Điều này cũng dễ hiểu, bởi Việt Nam được dự đoán sẽ là nước ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc xuống phía Nam. Vì thế mà Trung Quốc có lẽ sẽ phải suy nghĩ nhiều về việc có nên điều chỉnh lại chính sách của mình với Việt Nam hay không. Như vậy có thể nói, ý đồ tăng cường ảnh hưởng tại Đông Nam Á của Mỹ một mặt nào đó có thể giúp tăng cường quan hệ đối tác giữa Việt Nam và Mỹ. 7 Báo Lao Động số 42, ngày 26/02/2009, tác giả M.H Chương IV: TƯƠNG LAI CỦA MỐI QUAN HỆ CHÍNH TRỊ ĐỐI NGOẠI VIỆT - MỸ Chuyến thăm chính thức tháng 11.2000 của Tổng thống Bill Clinton mang tính chất đột phá. Vị tổng thống Mỹ đầu tiên thăm Việt Nam từ khi kết thúc chiến tranh đã được người dân Việt chào đón nồng nhiệt, để ông tuyên bố "đã tới lúc viết nên một chương mới". Sau khi Hiệp định Thương mại Song phương (BTA) có hiệu lực từ 2001, kim ngạch ngoại thương hai chiều liên tục tăng, từ ba tỉ đôla năm 2002 lên đến hơn 12 tỉ đôla năm 2007. Được Mỹ "bật đèn xanh", Việt Nam gia nhập WTO tháng 11.2006, cùng lúc với việc Washington cấp cho Việt Nam Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR). Quy chế này được quốc hội Mỹ thông qua đã xóa bỏ đi di sản cuối cùng của thời kỳ chiến tranh lạnh trong quan hệ Việt - Mỹ. Theo như đánh giá của một số nhà nghiên cứu về quan hệ Việt - Mỹ như ông Frederick Brown, chuyên gia tại trường Cao học về Nghiên cứu Quốc tế của Đại học Johns Hopskin, quan hệ song phương Việt - Mỹ dưới thời tân tổng thống “sẽ vẫn đi theo cùng một con đường như dưới thời tổng thống Bush”:, mối quan hệ “tiến triển nhưng theo hướng đi lên”. Phó giáo sư Lịch sử và Quan hệ Quốc tế của Đại học George Washington, Shawn McHale, cho rằng bang giao Việt - Mỹ thời gian tới “sẽ không thay đổi nhiều”. Kể từ khi chính thức khôi phục quan hệ ngoại giao năm 1995, chiến lược của hai nước đã dần ngả từ đối đầu sang hợp tác. Có hai con đường Việt Nam có thể chọn cho mối quan hệ của mình với Mỹ: Một là, duy trì các chính sách nhằm giữa thế cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc, không nghiêng hẳn về bên nào. Như thế, Việt Nam vừa giữ được mối giao hảo với Trung Quốc, vừa đứng trung lập với ý đồ mở rộng tầm ảnh hưởng của Mỹ tại Đông Nam Á. Hai là, trở thành đối tác tin cậy của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á, chấp nhận tầm ảnh hưởng của Mỹ tại đây để kiềm hãm Trung Quốc. Có thời gian tăng cường nội lực cũng như tập hợp lực lượng. KẾT LUẬN Từ sau khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1995 đến nay, Việt Nam cũng đã vượt qua nhiều khó khăn trở ngại để có được vị trí ngày hôm nay trong mối quan hệ chính tri đối ngoại với Mỹ - một đối tác quan trọng tại khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, với những phân tích trên về tính đối tác, đối tượng trong quan hệ chính trị đối ngoại Việt - Mỹ từ 1995 đến nay, mặt “đối tượng” rõ ràng chiếm ưu thế hơn bởi những vấn đề còn tồn đọng trong mối quan hệ giữa hai nước mang tính chất dai dẳng và khó giải quyết hơn là những thành quả mà hai nước đã đạt được. Vì vậy vẫn còn rất nhiều việc mà cả Việt Nam và Mỹ cần phải làm để thúc đấy mối quan hệ chiến lược này. Với sự ra đời của chính quyền mới tại Mỹ, có thể chính sách đối ngoại với Việt Nam sẽ không có gì thay đổi theo như dự đoán của một số các chuyên gia, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc giậm chân tại chỗ trong mối quan hệ này. Nhiều dư luận cho rằng mối quan hệ Việt - Mỹ đang đi đến bão hòa và cần một bước đột phá mới để tiến lên một nấc mới trong mối quan hệ này. Tuy nhiên nhìn chung, quan hệ Việt - Mỹ vẫn là một “bức tranh tổng thể của mối quan hệ mang màu sáng”8 Như vậy, Mỹ không chỉ nên coi VN là một đất nước, đã đến lúc Mỹ còn phải coi VN là một đối tác xứng tầm. Sau hơn 20 năm đổi mới, VN đã có thể và sẵn sàng làm bạn và làm đối tác tin cậy của các nước, đúng như đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản VN đề ra. Kể cả với Mỹ, điều này cũng đang đúng. Quá khứ đã khép lại, quan hệ đã mở ra. Người Mỹ, kể cả cựu binh, đến VN đều thấy người dân và Chính phủ VN thân thiện và hướng về phía trước; thậm chí lịch sử khó khăn trong quan hệ giữa hai nước cũng trở thành mối dây đặc biệt củng cố quan hệ hai bên và hòa bình, ổn định của Đông Nam Á cũng trở thành mục tiêu chung của hai nước. Nếu Mỹ thật sự coi VN là một đối tác tốt, xây dựng một khuôn khổ đối tác mới cho quan hệ hai nước sẽ là công việc của thì tương lai gần. Nói một cách dễ hiểu, 8 Frederick Brown, chuyên gia tại Trường Cao học về Nghiên cứu Quốc tế, Đại học Johns Hopkins cuộc chơi sẽ được đặt tên, luật chơi sẽ được cùng xây dựng, và hai bên sẽ đi vào một cuộc chơi và chơi đúng luật.9 9 Báo Tuổi trẻ, số ra năm 2007 TÀI LIỆU THAM KHẢO - Giáo trình Chính sách đối ngoại 1975 – 2006 - phần II - Học viện Quan hệ quốc tế - Báo Lao Động - Báo Tuổi trẻ - Tạp chí nghiên cứu Thời đại mới - Tài liệu học tập Nghị quyết lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. - Phương pháp luận phân tích mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng trong nhận thức của Đảng ta, tiến sĩ Phan Trọng Hào - Học viện chính trị, quân sự. - Các bản báo cáo nhân quyền và tôn giáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 2008 từ trang điện tử của Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam.
File đính kèm:
- tieu_luan_tu_sau_binh_thuong_hoa_quan_he_nam_1995_cho_den_na.pdf