Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa Xã hội Chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa Xã hội Chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa Xã hội Chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
Tiểu luận môn chủ nghĩa xã hội khoa học Chủ nghĩa xã hội khoa học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) lOMoARcPSD|12184112 HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC TIỂU LUẬN CUỐI KỲ MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Đề tài: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NỀN VĔN HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Họ và tên sinh viên: ĐẶNG MAI TRANG Mã sinh viên: 2156150052 Lớp: Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K41 Giảng viên hướng dẫn: Nghiêm Sỹ Liêm Hà Nội, tháng 12 nĕm 2021 lOMoARcPSD|12184112 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lý do nghiên cứu đề tài .................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 2 2.1. Mục đích .................................................................................................. 2 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 2 3.1. Đối tượng ................................................................................................. 2 3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 2 4. Ý nghĩa của đề tài.............................................................................................. 2 NỘI DUNG ................................................................................................................ 3 I. Nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh .......................... 3 1. Quan điểm chung của Hồ Chí Minh về vĕn hóa ........................................ 3 1.1. Khái niệm về vĕn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh ............................. 3 1.2. Vị trí vai trò của vĕn hóa ........................................................................ 3 1.3. Chức nĕng của vĕn hóa .......................................................................... 4 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền vĕn hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ........................................................................................... 6 2.1. Nền vĕn hóa xây dựng trên cơ sở lấy dân làm gốc .............................. 6 2.2. Xây dựng nền vĕn hóa mới tiếp thu tinh hoa vĕn hóa nhân loại ....... 8 2.3. Nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa phải do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo ......................................................................................................... 11 3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính của vĕn hóa .................... 12 lOMoARcPSD|12184112 3.1. Vĕn hóa giáo dục ................................................................................... 12 3.2. Vĕn hóa vĕn nghệ .................................................................................. 13 3.3. Vĕn hóa đời sống – đạo đức, lối sống mới .......................................... 14 3.4. Vĕn hóa chính trị .................................................................................. 15 II. Vận đụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vĕn hóa vào việc xây dựng nền vĕn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội .......................................................................................................... 15 1. Những thành tựu đạt được ......................................................................... 15 2. Những mặt hạn chế ..................................................................................... 18 3. Một số giải pháp .......................................................................................... 19 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 22 lOMoARcPSD|12184112 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam ta một di sản tư tưởng vô cùng to lớn và hết sức sâu sắc. Tư tưởng của Người giống như kim chỉ nam cho từng hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tại Hà Nội đã đưa ra một định nghĩa chuẩn xác về tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”. Điều này cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh cần được nghiên cứu không phải dưới góc độ những ý kiến, những suy nghĩ riêng lẻ, mà cần được đặt trong sự tổng hợp và có tính hệ thống. Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về vĕn hóa là một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung. Với những đóng góp vô giá cho nhân loại, nhân dịp Kỷ niệm 100 nĕm ngày sinh Hồ Chí Minh, UNESCO tôn vinh người là bậc vĩ nhân với danh hiệu kép: vừa là anh hùng giải phóng dân tộc, vừa là nhà vĕn hóa kiệt xuất. Do đó, nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là nghiên cứu những phẩm chất cao quý thể hiện trong cuộc sống của Người, mà còn là nghiên cứu những quan điểm của Người về vĕn hóa và xây dựng nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Dù thời gian qua đi, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về vĕn hóa xã hội chủ nghĩa mãi mãi có ý nghĩa đặc biết đối với nền cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong thời đại mới, tư tưởng của Người càng có ý nghĩa thời sự và thực tiễn to lớn. Hiện nay, trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, càng đòi hỏi chúng ta phải khai thác sâu hơn về vấn đề tư tưởng vĕn hóa của Hồ Chí Minh để quán triệt trong từng bước đi lên của cách mạng Việt Nam. Vì lý do đó, em quyết định chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.” làm đề tài nghiên cứu cho tiểu luận. lOMoARcPSD|12184112 2 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Tiểu luận tập trung vào hai mục tiêu sau: - Nắm được quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề vĕn hóa và xây dựng nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Thấy được sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam vào công cuộc xây dựng nền vĕn hóa trong thời kỳ đổi mới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu tư tưởng của Hồ Chí Minh về vĕn hóa; hệ thống hóa và làm rõ những quan điểm cơ bản của chủ tịch Hồ Chí Minh về vĕn hóa và phát triển nền vĕn hóa. - Xác định quan điểm và phân tích sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Nhà nước vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền vĕn hóa mới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Đề tài nghiên cứu về vấn đề vĕn hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận vĕn được tiến hành nghiên cứu trong 10 ngày từ 15/12/2021 – 25/12/2021, đặt trong tình hình Việt Nam hiện nay. 4. Ý nghĩa của đề tài Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, ta càng thấy rõ được tính cấp bách của nhiệm vụ xây dựng nền vĕn hóa dân tộc. Muốn đất nước có thể phát triển vững mạnh, toàn diện về mọi mặt thì chúng ta không thể bỏ qua một nhiệm vụ quan trọng đó là xây dựng nền vĕn hóa dân tộc. Qua việc nghiên cứu đề tài, khiến em nhận thức được tầm quan trọng của việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong công cuộc xây dựng nền vĕn hóa Việt Nam thời kỳ mới. Từ đó, bản thân em lOMoARcPSD|12184112 3 nhận thấy mình cần phải cố gắng học tập và phát huy sức mạnh của thanh niên Việt Nam để có thể đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. NỘI DUNG I. Nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh 1. Quan điểm chung của Hồ Chí Minh về vĕn hóa 1.1. Khái niệm về vĕn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh Khái niệm về vĕn hóa có nội hàm rất phong phú, vì vậy có rất nhiều định nghĩa khác nhau về vĕn hóa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm vĕn hóa được hiểu theo cả ba nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp. Theo nghĩa rộng, chủ tịch Hồ Chí Minh nêu vĕn hóa là toàn bộ những giá trị về cả 2 mặt vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra với mục đích sử dụng chúng, đáp ứng lẽ sinh tồn. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, vĕn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ĕn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là vĕn hóa. Vĕn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Theo nghĩa hẹp, Người viết: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, vĕn hóa. Nhưng vĕn hóa là một kiến trúc thượng tầng”. Theo nghĩa rất hẹp, vĕn hóa đơn giản là trình độ học vấn của con người, thể hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải đi học “vĕn hóa”, xóa mù chữ, 1.2. Vị trí vai trò của vĕn hóa Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng vĕn hóa là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Theo Người, vĕn hóa góp phần tạo nên bước nhảy vọt trong tư duy và hành động của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định rằng: lOMoARcPSD|12184112 4 “vĕn hóa soi đường cho quốc dân đi”, “Phải đem vĕn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Phải “Xúc tiến vĕn hóa để tạo con người mới và cán bộ mới cho cuộc kháng chiến kiến quốc”. Theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, vĕn hóa còn được xác định là đời sống tinh thần của con người, của xã hội, vĕn hóa thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Vĕn hóa cùng với 3 yếu tố: chính trị, kinh tế, xã hội đã tạo thành bốn vấn đề chủ yếu trong đời sống xã hội. Trong công cuộc xây dựng đất nước, có bốn vấn đề này đều cần được coi trọng như nhau. Theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, bốn vấn đề trên có mối quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau. Về mặt chính trị, chính trị xã hội được giải phòng thì mới có thể mở đường cho nền vĕn hóa phát triển. Đối với kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhằm tạo điều kiện cho công tác xây dựng và phát triển vĕn hóa. Từ đó ta có thể thấy được, vĕn hóa không thể đứng ngoài, mà phải nằm trong cả hai lĩnh vực là chính trị và kinh tế, vĕn hóa phục vụ cho nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: “Vĕn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”. Điều này cũng cho thấy rằng, Người luôn đề cao vai trò của vĕn hóa trong công cuộc phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người đã từng nhấn mạnh rằng: “Trình độ vĕn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ... cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Như vậy, có thể thấy rằng vĕn hóa đứng ở trong kinh tế và chính trị, cũng có nghĩa là trong kinh tế và chính trị phải có tính vĕn hóa. 1.3. Chức nĕng của vĕn hóa Vĕn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể tóm gọn ở ba chức nĕng chủ yếu sau: lOMoARcPSD|12184112 5 Thứ nhất là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân. Đây là chức nĕng quan trọng nhất của vĕn hóa, bồi dưỡng và nâng cao tư tưởng cho nhân dân giúp vĕn hóa đi sâu vào tâm lý quốc dân, từ đó có thể xây dựng được những tình cảm lớn như lòng yêu nước, tình yêu thương giữa con người với con người, ghét những thói hư tật xấu, cĕm thù mọi thứ giặc nội xâm,... trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Vì lẽ đó, trong quá trình xây dựng nền vĕn hóa cách mạng ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản thường xuyên quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và tình cảm cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thứ hai là, nâng cao trình độ dân trí. Quan niệm Hồ Chí Minh về vĕn hóa xuất phát từ cách tiếp cận mácxít và rất gần gũi với nhận thức hiện đại, Người cho rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, “Dốt thì dại, dại thì hèn”. Do đó, vĕn hóa gắn với tri thức và trình độ dân trí, hay nói cách khác, không có vĕn hóa đồng nghĩa với việc không có dân trí. Nói tới vĕn hóa là nói tới vấn đề dân trí, dân trí ở đây không phải chỉ dừng lại ở việc biết đọc, biết viết mà còn là trình độ hiểu biết, kiến thức của mỗi người dân. Những hiểu biết đó bao gồm nhiều lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, vĕn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật – công nghệ,... Thứ ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người tới cái chân – thiện – mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân. Phẩm chất của mỗi người được thể hiện qua lối sinh hoạt, lối làm việc và cách ứng xử. Giá trị vĕn hóa tác động đến con người, giúp xác định những chuẩn mực trong đời sống xã hội. Với mỗi cá nhân, giá trị vĕn hóa chính là thành tố cốt lõi để hình thành nên nhân cách con người. Với những đặc trưng riêng, khác với kinh tế và chính trị, vĕn hóa hướng con người ta tới cái đẹp, cái chân – thiện – mỹ, để từ đó có thể vươn tới lý tưởng, từ cái chưa hoàn thiện vươn tới cái hoàn thiện, đặc biệt là trong việc hoàn thiện bản thân mỗi người. lOMoARcPSD|12184112 6 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền vĕn hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 2.1. Nền vĕn hóa xây dựng trên cơ sở lấy dân làm gốc Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong xã hội có giai cấp, thì ý thức hệ giai cấp là nội dung cốt lõi của mọi nền vĕn hóa. Chính vì thế, sau khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền thì ý thức hệ của nó đã trở thành nhân tố giữ vai trò chủ yếu trong đời sống tinh thần của xã hội. Bản chất giai cấp công nhân chính là một đặc trưng nổi bật của nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa. Mọi sự coi nhẹ, xa rời nội dung khoa học và cách mạng của ý thức hệ giai cấp công nhân đều nhất định dẫn đến một kết quả là không thể xây dựng được nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sớm được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, nên khi trở thành Chủ tịch nước, công việc đầu tiên mà Người tiến hành là cứu hàng chục triệu người con Việt Nam, những công nhân, nông dân cùng khổ ra khỏi cái nghèo đói và cái dốt nát bằng những chiến dịch lớn “chống giặc ngoại xâm, chống giặc đói và chống giặc dốt”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò sáng tạo lịch sử, sáng tạo vĕn hóa của nhân dân lao động. Vì thế, theo Người, nhân dân chính là những người tạo ra toàn bộ lịch sử xã hội và trong đó không thể thiếu các giá trị vĕn hóa. Đặt các vấn đề về con người và xã hội lên ưu tiên hàng đầu trong quá trình xây dựng nền vĕn hóa thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra quan điểm của mình rằng, muốn phát triển vĕn hóa thì cần phải quan tâm đến động lực to lớn của lịch sử đó chính là vai trò của quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định về tầm quan trọng của nhân dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước nói chung và phát triển vĕn hóa nói riêng: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trĕm lần dân liệu cũng xong”. Chính vì lẽ ấy, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, dù đứng trước bất kỳ khó khĕn hay vấn đề gì, Người cũng đều gắn với sức mạnh đoàn kết của toàn dân. Nhân dân làm chủ, tin tưởng, bàn bạc thực hiện là quy luật phát lOMoARcPSD|12184112 7 triển của xã hội và của nền vĕn hóa mới Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa.” Con người xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là sức sống của nền vĕn hóa mới. Trong xây dựng vĕn hóa, cương lĩnh của Hồ Chí Minh là “xúc tiến công tác vĕn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của vĕn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và hưởng thụ những cái mới của vĕn hóa tiến bộ thế giới để xây dựng một nền vĕn hóa Việt nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.” Đó chính là nội dung cụ thể trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh để phát huy “cốt cách dân tộc”. Không có một nền vĕn hóa nào có thể tồn tại lâu dài nếu nó tách khỏi những giá trị truyền thống, và cắt đứt mối quan hệ với tâm lý, tình cảm của dân tộc. Nét đặc sắc trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh là Người rất chú ý đến việc bảo lưu vĕn hóa của dân tộc Việt Nam. Và theo quan điểm của Người, nền vĕn hóa mới phải là một nền vĕn hóa thống nhất trong tính đa dạng, tập trung tinh túy của các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, được hấp thụ một thế giới quan, nhân sinh quan triệt để, do đó trong tư tưởng của Hồ Chí Minh công cuộc xây dựng nền vĕn hóa mới phải luôn đề cao tính dân tộc của vĕn hóa. Tính dân tộc chính là cái “cốt”, cái túy, đặc trưng của một nền vĕn hóa dân tộc. Tính dân tộc của vĕn hóa được thể hiện trước hết thông qua tính cách, tâm hồn của những người con đất Việt, được biểu hiện qua truyền thống vĕn hóa, hệ giá trị, cách tư duy và hành động mang bản sắc Việt Nam. Hệ giá trị dân tộc Việt Nam sẽ được chuyển thành các chuẩn mực xã hội để định hướng cho hành động của mỗi con người và đánh giá mỗi cá nhân. Điều này góp phần làm ổn định xã hội. Đó là các tư duy và ứng xử mang bản sắc dân tộc Việt Nam. lOMoARcPSD|12184112 8 Muốn xây dựng một nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa, thì không thể bỏ qua việc bảo tồn và phát huy bản sắc vĕn hóa dân tộc. Bản sắc vĕn hóa dân tộc được hun đúc suốt chiều dài lịch sử dân tộc, được tạo nên trong quá trình lao động và sáng tạo của nhân dân, từ đó hình thành nên các truyền thống, chuẩn mực, lối sống, tính cách tâm lý, nếp nghĩ mang tính đặc thù của dân tộc. Bản sắc vĕn hóa dân tộc chính là cái cốt cách, “khí thiêng sông núi” của dân tộc, tạo nên sự khác biệt giữa các dân tộc. Bản sắc vĕn hóa dân tộc gắn liền với dân tộc, tham gia vào trong quá trình hình thành và phát triển của một dân tộc. Do đó bản sắc vĕn hóa dân tộc là tinh túy, nội lực và sức mạnh của toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, muốn thể hiện được tính dân tộc của vĕn hóa, người làm vĕn hóa vĕn nghệ phải học lịch sử, học truyền thống của dân tộc “Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” 2.2. Xây dựng nền vĕn hóa mới tiếp thu tinh hoa vĕn hóa nhân loại Bên cạnh việc giữa gìn và phát huy bản sản dân tộc, theo quan điểm Hồ Chí Minh, thì một nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa còn cần phải biết tiếp thu tinh hoa vĕn hóa nhân loại. Tiếp nhận và biến đổi vĕn hóa là một quy luật của vĕn hóa. Theo Hồ Chí Minh, “Vĕn hoá Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của vĕn hoá Đông phương và Tây phương chung đúc lại”. Và Người đã nhắc nhở các nhà vĕn hoá Việt Nam: “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền vĕn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của vĕn hoá xưa và nay, trau dồi cho vĕn hoá Việt Nam có tinh thần thuần tuý Việt Nam, để hợp với tinh thần dân chủ”. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mục đích của việc tiếp thu vĕn hóa toàn nhân loại là để làm giàu cho nền vĕn hóa Việt Nam, xây dựng vĕn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Đối với Việt Nam, việc tiếp thu có chọn lọc nền vĕn hóa nhân loại để xây dựng nền vĕn hóa cách mạng, mang ý nghĩa giải phóng vừa là một truyền thống lOMoARcPSD|12184112 9 lịch sử, vừa là một nhu cầu tất yếu khách quan. Theo tư tưởng của Người thì càng giàu tính quốc tế thì bản sắc dân tộc càng phát triển phong phú hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là biểu tưởng của sự hòa nhập, giao lưu và sáng tạo, làm giàu có hơn các giá trị vĕn hóa Việt Nam. Một phóng viên trên tờ báo Mỹ đã từng nhận xét rằng: “Cụ Hồ không phải là người dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi mà cụ là một người yêu mến vĕn hóa Pháp trong khi chống thực dân Pháp, một con người biết coi trong những truyền thống cách mạng Mỹ trong khi Mỹ phá hoại đất nước cụ.” Trong các giá trị vĕn hóa nhân loại, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến chủ nghĩa Mác – Lênin, đỉnh cao của vĕn hóa nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lênin là mặt trời soi sáng quá trình diễn biến phức tạp và đa dạng của lịch sử loài người, đặc biệt nó soi sáng quá trình diễn biến của chế độ tư bản chủ nghĩa và sự quá độ từ chế độ tư bản chủ nghĩa lên chế độ xã hội chủ nghĩa. Dưới sự soi sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta có một cơ sở khoa học để xây dựng nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dân tộc và hiện đại. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác – Lênin đã trở thành linh hồn của nền vĕn hóa mới – nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa. Trên tinh thần hiểu biết và nhìn nhận khoa học, Người đã thực hiện và lãnh đạo thành công quá trình giao lưu, tiếp thu và biến đổi của nhân loại để xây dựng một nền vĕn hóa mới tại Việt Nam. Trong công cuộc thực hiện kế hoạch xây dựng nền vĕn hóa mới, Bác đã quán triệt một số nguyên tắc chỉ đạo cơ bản sau: Một là, trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi, muốn nền vĕn hóa có thể phát triển tự nhiên, làm phong phú thêm bản sắc vĕn hóa của dân tộc mình, không nên giữ thái độ bài ngoài, mà phải tích cực và mạnh dán hướng ra ngời với tinh thần “bốn bể đều là anh em”, tiếp thu các tinh hóa vĕn hóa từ bên ngoài, học cái hay của người về làm cho đất nước mình ngày càng giàu mạnh. Hai là, phải tiếp thu vĕn hóa thế giới một cách có chọn lọc, phù hợp với đặc tính và truyền thống của vĕn hóa Việt Nam để không đánh mất tinh hóa bản sắc vĕn lOMoARcPSD|12184112 10 hóa dân tộc của mình, “hòa nhập chứ không hòa tan”. Nói cách khác, theo tư tưởng của Bác, chúng ta cần phải thông qua “bàn lọc vĕn hóa” để tiếp thu tri thức nhân loại. Nếu như không thể làm được điều đó, thì độc lập, tự chủ cũng theo đó mà mất đi, chứ đừng nói gì đến bản sắc vĕn hóa dân tộc. Theo Người, khi tiếp thu vĕn hóa nhân loại phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc sau: Một là, tiếp thu có chọn lọc. Hai là, lấy vĕn hóa dân tộc làm gốc. Ba là, sáng tạo để đóng góp cho cộng đồng thế giới. Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dù xét dưới góc độ nào, thì vĕn hóa bao giờ cũng là vĕn hóa của một dân tộc, yếu tố dân tộc xác định bản chất của nền vĕn hóa đó. Nhận thức này có ý nghĩa rất quan trọng. Yếu tố dân tộc của vĕn hóa là một nhân tố quan trọng không thể chối bỏ và hơn hết nó còn là lời khẳng định bản lĩnh riêng của một dân tộc. Song, bên cạnh yếu tố dân tộc, thì nhân tố quốc tế cũng có một vị trí riêng trong công cuộc làm phong phú, giàu có bản sắc vĕn hóa dân tộc. Về mối quan hệ này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một nhận định hết sức biện chứng, theo Người: “phát triển hết cái hay, cái đẹp của dân tộc, tức là ta cũng đi tới chỗ nhân loại”. Phải đi từ cái gốc rễ dân tộc thì mới có thể vươn mình tới một nền vĕn hóa mang tính thời đại, mang tính nhân loại. Một nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa chân chính, thì từ trong bản chất của nó đã phải chứa đựng cái giá trị nhân loại chung. Góp phần làm phong phú và giàu có cho bản sắc mỗi nền vĕn hóa đồng nghĩa với việc đang nhân lên các giá trị nhân loại, để từ đó là tiền đề tiếp nhận những thành quả khác và từ đó lan tỏa những giá trị của mình sang nền vĕn hóa khác. Tóm lại, nếu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản khoa học, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế cộng sản, thì trong sự nghiệp lOMoARcPSD|12184112 11 phát triển vĕn hóa, Người cho rằng cần phải kết hợp hau yếu tố truyền thống dân tộc với vĕn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vĕn hóa dân tộc kết hợp với vĕn hóa nhân loại là sự khẳng định trên thực tế tư tưởng của nhà vĕn hóa lớn trên thế giới G.Nêru. “Mặt khác, người ta không thể sống với một mình cội rễ. Thậm chí cội rễ đó cũng sẽ khô héo nếu nó không vươn ra dưới mặt trời và không khí tự do; chỉ khi đó cội rỗ mới đem dinh dưỡng đến cho anh. Chỉ khi đó cuộc sống mới đâm cành trổ hoa ... vấn đề ở đây là làm thế nào có được sự cân bằng”. Tiếp biến vĕn hóa là một quy luật tất yếu của quá trình hội nhập vĕn hóa giữa các vùng miền, các đất nước và các dân tộc. Điều đó thể hiện phép biện chứng của tính dân tộc và tính nhân loại trong quá trình phát triển của vĕn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh được mệnh danh là nhà vĕn hóa kiệt xuất thế giời cũng bởi vì Người sớm đã nhận thức được vai trò động lực của vĕn hóa, đã sớm đưa việc phát triển vĕn hóa xã hội chủ nghĩa vào chiến lược xây dựng và phát triển đất nước ngay từ những ngày đầu giành độc lập. 2.3. Nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa phải do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Trong tư tưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, một nền vĕn hóa mới lấy con người làm trung tâm ở nước ta phải do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Lý tưởng của Đảng Cộng sản là xây dựng một nền xã hội không có áp bức bóc lột con người, “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, vĕn minh”, tất cả vì nhân dân, cho nhân dân. Vì thế bản chất của một nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa lấy con người làm trung tâm sẽ hòa quyện và thống nhất với mục tiêu lý tưởng của Đảng. Theo Người, để lãnh đạo được nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa lấy con người làm trung tâm, thì trước hết cần xây dựng vĕn hóa trong Đảng, nhằm đào tạo nên những cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng và lý tưởng xã hội chủ nghĩa góp phần giúp Đảng, giúp dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng ta là đạo đức, là vĕn minh.”. Cái gì lợi cho Đảng, cho nhân dân thì khó mấy cũng làm, cái gì hại đến Đảng, đến dân thì cương quyết chống lại. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nền vĕn hóa nhân đạo là nền vĕn hóa là một nền vĕn hóa có sự hài hòa lOMoARcPSD|12184112 12 về lợi ích, trong đó có lợi ích cá nhân. Ở đó “mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình.” Nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là một nền vĕn hóa nhân đạo, gắn bó chặt chẽ giữa con người và tự nhiên. Vĕn hóa chính là sản phẩm của quá trình hoạt động tích cực của con người trong công cuộc cải tạo tự nhiên và xây dựng xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết rằng: “Việt Nam có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước; có đất và có nước thì mới hình thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu, nước mạnh”, Người đã nhấn mạnh tính thiết yếu của việc bảo vệ môi trường tự nhiên, tích cực cải tạo thiên nhiên, không tàn phá thiên nhiên. Phát triển lâu bền chính là tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh khi gắn vĕn hóa với tình yêu Tổ quốc, gắn vĕn hóa với sự nghiệp “trồng cầy, trồng người.” Thực tiễn đã chứng minh vai trò của Đảng Cộng sản trong công cuộc xây dựng nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa là không thể phủ nhân. Từ Đại hội lần thứ XI, XII, XIII của Đảng đã định hướng chiến lược lâu dài về vấn đề xây dựng và phát triển vĕn hóa Việt Nam. Những định hướng cơ bản trong đường lối của Đảng ta về vấn đề này có ý nghĩa cực kì quan trọng và cấp thiết, những định hượng ấy góp phần quyết định đến sự phát triển và phát huy giá trị vĕn hóa của nhân dân Việt Nam nói riêng và sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế nói chung. Có thể thấy, trong thời gian qua, các chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề xây dựng và phát triển vĕn hóa Việt Nam đã giúp đất nước ta có những bước tiến mạnh mẽ, vươn mình ra nĕm châu. 3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính của vĕn hóa 3.1. Vĕn hóa giáo dục Để xây dựng một nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa trước hết phải quan tâm đến vấn đề giáo dục cho con người. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề này là một hệ thống quan điểm sâu sắc đã tạo nên sức mạnh trí tuệ của nền vĕn hóa mới tại Việt Nam. lOMoARcPSD|12184112 13 Khi được tiếp xúc với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã dày công tìm tòi và phân tích nền giáo dúc phong kiến cũng như nền giáo dục thực dân, để từ đó có những sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho những suy tư về xây dựng nền giáo dục của nước Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, để xây dựng được nền vĕn hóa giáo dục của nước Việt Nam độc lập, cần chú ý những vấn đề sau: Một là, mục tiêu của vĕn hóa giáo dục chính là thực hiện ba chức nĕng của vĕn hóa bằng giáo dục, hay có thể hiểu là bằng dạy và học. Hai là, xóa nạn mù chữ và từ đó không ngừng nâng cao trình độ vĕn hóa của nhân dân cả nước. Ba là, phải tiến hành các biện pháp cải cách giáo dục với mục đích xây dựng nên một hệ thống trường lớp có chương trình và nọi dung giảng dạy thật khoa học, hợp lý và phù hợp với những bước tiến của đất nước ta. Bốn là, nội dung của giáo dục luôn phải đi đối với thực tiễn của đất nước, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thức tế và học tập thì cần phải kết hợp với lạo động. Chỉ có như vậy, vĕn hóa giáo dục mới có tính hướng đích, đúng đắn, rõ ràng và thiết thực. Nĕm là, duy trì phương châm “học, học nữa, học mãi”; học ở mọi nơi, mọi lúc; luôn đề cao việc tự học, tự đào tạo. Sáu là, không ngừng bồi dưỡng các đảng viên, nâng cao đảng trí. 3.2. Vĕn hóa vĕn nghệ Trong tác phẩm “Vĕn hóa và đổi mới”, Cố Thủ tướng Phạm Vĕn Đồng khẳng định: “Tư tưởng Hồ CHí Minh là một kho tàng đầy của báu, là di sản chứa đựng biết bao giá trị. Giá trị đó nói cho cùng là giá trị vĕn hóa.” Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền vĕn hóa vĕn nghệ là một bộ phận trọng yếu trong tư tưởng của Người về xây dựng nền vĕn hóa mới Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: “Vĕn lOMoARcPSD|12184112 14 hóa, nghệ thuật là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm vĕn nghệ là vũ khí.” Vĕn hóa nghệ thuật cũng quan trọng như các các mặt trận kinh tế, chính trí và xã hội. Vĕn hóa vĕn nghệ thực hiện một nhiệm vụ hết sức đặc biệt trong việc “phò chính, trừ tà”, góp phần quan trọng vào việc giáo dục con người, cổ vũ con người vươn tới cái đẹp, lối sống chân – thiện – mỹ. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vĕn hóa vĕn nghệ cần gắn với cuộc sống hiện thực của dân tộc, gắn với nhân dân lao động. Bên cạnh đó, phải có những tác phẩm vĕn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và dân tộc. Những luận điểm quan trọng mà Hồ Chí Minh đặt ra cho vĕn nghệ là các tác phẩm vĕn nghệ phải phong phú và đa dạng, không thể đơn điệu, nghèo nàn; và quan trọng hơn hết tác phẩm vĕn nghệ phải đem đến giá trị tinh thần phục vụ cho nhân dân. Từ đó, góp phần nâng cao tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân. 3.3. Vĕn hóa đời sống – đạo đức, lối sống mới Trong quan điểm về xây dựng đời sống mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những nội dung rất độc đáo về vĕn hóa. Việc xây dựng vĕn hóa đời sống đã được Hồ Chí Minh đặt ra từ rất sớm, ngay từ khi các vấn đề về lối sống, nếp sống, phong cách sống và chất lương sống,... chưa nhận được nhiều sự quan tâm ở các nước. Người đã đề ra khái niệm “Đời sống mới” bao gồm các vấn đề về đạo đức mới, lối sống mới, mà hiện nay chúng ta thường gọi là vĕn hóa đạo đức, vĕn hóa lối sống và nếp sống. Hai vấn đề trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó vấn đề đạo đức đóng vai trò chủ yếu. Trong lối sống và nếp sống hằng ngày, ta có thể thấy được cái đạo đức; hay nói cách khác đạo đức gắn liền với lối sống và nếp sống của con người. Chính vì thế, theo Người, khi xây dựng đạo đức chúng ta cần phải tiến hành song song cả việc xây dựng đời sống và lối sống mới. Có đặt đạo đức làm nền móng thì mới có thể xây dựng được lối sống, nếp sống mới lành mạnh, hướng con người tới tầm cao của vĕn hóa, của một đất nước xã hội chủ nghĩa. lOMoARcPSD|12184112 15 3.4. Vĕn hóa chính trị Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như hoạt động thực tiễn của Người đã đặt ra vấn vĕn hóa chính trị. Theo Người, vĕn hóa chính trị không phải là bản thân chính trị, mà là chính trị có vĕn hóa, chính trị tác đồng và con người và xã hội. Nét đặc sắc ở Hồ Chí Minh là không chỉ nằm ở việc đặt ra vấn đề vĕn hóa chính trị mà còn ở những hoạt động chính trị thực thiễn của Người. Vĕn hóa chính trị Hồ Chí Minh đã có ý nghĩa to lớn trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đến nay, ý nghĩa có nó vẫn chưa bao giờ thay đổi, nó vẫn đang tiếp tục định hướng cho việc xây dựng một nền vĕn hóa rất chính trị và một nền chính trị rất vĕn hóa khi đất nước đang trong quá trình từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vĕn hóa chính trị Hồ Chí Minh cần phải trở thành vĕn hóa Đảng trong cả đường lối, chủ trương và chính sách lẫn trong các hoạt động thực tiễn của Đảng. II. Vận đụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vĕn hóa vào việc xây dựng nền vĕn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo Hồ Chí Minh là một thời kỳ cải biến lâu dài. Xét từ góc nhìn vĕn hóa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhất là ở giai đoạn đổi mới là thời kỳ vừa đấu tranh, vừa xây dựng , vừa kế thừa và phát triển để xây dựng nền vĕn hóa mới: nền vĕn hóa mới – tiên tiến đầm đà bản sắc dân tộc. Nền vĕn hóa mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải là “nền vĕn hóa kế thừa tinh hoa vĕn hóa nhân loại nhưng không lai cĕng, mất gốc, một nền vĕn hóa, vĕn minh trong độc lập tự chủ, tự lập, tự cường và chủ nghĩa xã hội”. Theo đó, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn cố gắng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc phát triển nền vĕn hóa mới – nền vĕn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 1. Những thành tựu đạt được Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ( tháng 12/1986), đất nước ta chính thức bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện vì một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, lOMoARcPSD|12184112 16 giàu mạnh, xã hội công bằng, vĕn minh. Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng tại Đại hội đã đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội, thoát ra khỏi tình trạng trì trệ và suy thoái. Có thể nói, Đảng ta luôn vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; đặc biệt là trong vấn đề xây dựng nền vĕn hóa. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển nĕm 2011), Đảng ta đã khẳng định rõ đường lối xây dựng nền “vĕn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc vĕn hóa dân tộc”. Đến nay, sau 10 nĕm xây dựng nền vĕn hóa theo Cương lĩnh nĕm 2011, chúng ta đã đạt được những kết quả nhất định về cả mặt nhận thức lý luận lẫn thực tiễn. Về mặt lý luận, Cương lĩnh chính trị nĕm 1991 trên cơ sở xác định “nền vĕn hóa tiên tiến, đầm đầ bản sắc dân tộc” là một trong sáu đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đã chỉ ra nội dung và phương hướng cĕn bản về xây dựng, phát triển nền vĕn hóa nước nhà nhằm “tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ.” Sau hơn 20 nĕm thực hiện Cương lĩnh nĕm 1991, từ những bài học kinh nghiệm được rút ra trong quá trình vận dụng thực tiễn, Đảng ta đã có nhiều nhận thức mới về mặt lý luận làm tiền đề, cơ sở cho việc bổ sung và phát triển Cương lĩnh của Đảng – Cương lĩnh nĕm 2011. Về lĩnh vực vĕn hóa, Đảng ta vận dụng sáng tạo quan điểm của Hồ Chí Minh và luôn nhất quán với quan điểm về một “nền vĕn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân vĕn, dân chủ, tiến bộ”. Đảng ra xác định rõ ba trụ cốt quan trọng nhất trong đường lối đổi mới xây dựng và phát triển đất nước, đó là: “xây dựng Đảng là then chốt, phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm và xây dựng vĕn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội”. Dựa theo tư tưởng Hồ Chí Minh về vĕn hóa, Đảng ta đã xác định nền vĕn hóa phải phát triển hài hòa, giữ gìn và phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bên cạnh đó cũng cần phải tiếp thu những tinh hoa vĕn hóa lOMoARcPSD|12184112 17 nhân loại; nền vĕn hóa cần thấm đẫm những giá trị nhân vĕn, dân chủ, luôn tôn vinh cái đẹp cùng phẩm chất và đạo đức của con người. Đảng ta đã nhân thức rõ vai trò của vĕn hóa, thấy rõ hơn khả nĕng thực tế của vĕn hóa – vĕn hóa là sức mạnh mềm, có thể biến sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất, nhân lên sức mạnh vật chất để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, trong định hướng đường lối, Nghị quyết số 33-NQ/TW đã đưa ra yêu cầu “Vĕn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Đảng ta cũng sớm kế thừa và tiếp nối quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng vĕn hóa và con người, theo đó Nghị quyết số 33-NQ/TW đã khẳng định: “Phát triển vĕn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển vĕn hóa”. Nhìn lại quá trình xây dựng và phát triển vĕn hóa, có thể nói, Đảng ta đã có những nhận thức mới thể hiện chủ yếu ở việc đánh giá đầu đủ hơn về vai trò, vị trị của vĕn hóa trong đời sống xã hội và trong mối tương quan với các lĩnh vực khác; đồng thời Đảng ta cũng đã nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn các vấn đề về phát triển con người rong mối liên hệ chặt chẽ với vĕn hóa. Những nhận thức mới ấy là sự kết thừa và phát triển sáng tạo những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề vĕn hóa và xây dựng nền vĕn hóa. Về mặt thực tiễn, sự phát triển nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh đã mang lại cho đất nước ta những thay đổi to lớn về đời sống vĕn hóa. Con người Việt Nam hiện nay luôn cố gắng giữ gìn và phát huy bản sắc vĕn hóa dân tộc, luôn trân trọng những truyền thống tốt đẹp, làm chủ nhiều tiến bộ khoa học – công nghệ,.... Tính đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi, diện mạo đất nước, vị thế quốc tế, mối quan hệ rộng lớn với các quốc gia trên thế giới, tất cả đều chính là bằng chứng rõ ràng nhất, biểu hiện sinh động nhất về sự đổi mới trong nhận thức, đổi mới chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước. Đời sống tinh thần của con người Việt Nam ngày càng được cải thiện, dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được thực hiện rộng rãi. Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách lOMoARcPSD|12184112 18 để phát huy những tín ngưỡng truyền thống của dân tộc. Tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn quan tâm và phát triển mọi mặt của vĕn hóa. Trong những nĕm qua, Đảng ta đã thực hiện tốt những chủ trương của minh về vĕn hóa. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống vĕn hóa” được mở rộng và đi vào chiều sâu mạng lại nhiều hiệu quả thực tế. Nhiều phong trào, cuộc vận động về vĕn hóa đạt kết quả tích cực, góp phần tạo môi trường vĕn hóa, bảo vệ và phát huy những giá trị nhân vĕn truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Bên cạnh đó, các hoạt động vĕn hóa, vĕn nghệ diễn ra sôi động, đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ đa dạng của công chúng. Chỉ tính riêng nĕm 2019, 59 nhà xuất bản trong cả nước đã xuất bản trên 33.000 đầu sách với 400 triệu bản in, hàng nghìn sách điện tử đã được phát hành. Hệ thống báo chí, truyền thông đại chúng phát triển nhanh, ngày càng hiện đại. Hàng trĕm kênh phát thanh, truyền hình đang hoạt động, trong đó có nhiều kênh kết nối, hợp tác quốc tế. Có thể nói những kết quả xây dựng và phát triển nền vĕn hóa trong những nĕm qua của Đảng và Nhà nước ta là rất to lớn. Những thành tựu, kết quả ấy, trước hết là hệ quả trực tiếp của đường lối đổi mới của Đảng về phát triển vĕn hóa. Đồng thời, những kết quả đó cũng bắt nguồn từ sự kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vĕn hóa. 2. Những mặt hạn chế Song, bên cạnh những thành tự đã đạt được, nền vĕn hóa nước ta vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề còn hạn chế. Trước hết là vấn đề nhận thức tư tưởng, trong giai đoạn thế giới có nhiều diễn biến phức tạp về tình hình chính trị, một số người dân bị ảnh hưởng bới những tư tưởng sai lệch, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhiều người còn có tư tưởng sùng bái nước ngoài, hòa tan vĕn hóa dân tộc, coi thường những giá trị bản sắc vĕn hóa dân tộc, chạy theo lối sống cá nhân vị kỷ,... Tất cả lOMoARcPSD|12184112 19 những điều này đều đang góp phần gây hại đền thuần phong mỹ tục và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong lĩnh vực giáo dục cũng có nhiều biểu hiện tiêu cực, như sự suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bạn bè, môi trường giáo dục xuống cấp,.... Nhiều học sinh, sinh viên có hiện tưởng coi nhẹ giáo dục đạo đức và đặc biệt không chủ tâm đến các môn học chính trị hay khoa học xã hội và nhân vĕn. Đời sống vĕn hóa vĕn nghệ cũng còn nhiều bất cập. Nhiều tác phẩm được ra đời với mục đích thương mại mà không mang giá trị nghệ thuật, nhân vĕn. Một số ngành nghệ thuật truyền thống như điện ảnh, sân khấu gặp nhiều khó khĕn, không nhận được nhiều sự quan tâm của người dân. Về vấn đề tiếp thu tinh hoa vĕn hóa nhân loại, việc giao lưu vĕn hóa với nước ngoài chưa thực sự tích cực và chủ động, còn nhiều vấn đề. Vẫn còn tình trạng để lọt một số tác phẩm vĕn hóa đồi trụy, phản động xâm nhập vào nước ta, trong khi đó số tác phẩm được xuất bản ra bên ngoài thì còn hạn chế. Chính sách khuyến khích và định hướng phát triển vĕn hóa còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng. Ở một số vùng nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống vĕn hóa của nhân dân còn nghèo nàn. 3. Một số giải pháp Để khắc phục được những yếu kém, phát huy những lợi thế thì Đảng và Nhà nước ta cần có những chính sách hợp lý, đúng đắn; để từ đó xây dựng nền vĕn hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vĕn hóa. Trước hết, cần tĕng cường sự quản lí của Nhà nước trên các lĩnh vực vĕn hóa. Xây dựng và bổi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác vĕn hóa để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ phát triển vĕn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới. Tích cực quan tâm đến các việc bảo tồn và phát huy các giá trị vĕn hóa dân tộc, các giá trị lOMoARcPSD|12184112 20 vĕn hóa vật thể và phi vật thể của đồng bào các dân tộc, kết hợp với việc tiếp thu tinh hoĕ vĕn hóa của thời đại. Đồng thời, cũng cần nâng cao nhận thức của cấp ủy địa phương, chính quyền và đặc biệt là toàn thể quần chúng nhân dân, giúp nhân dân hiểu được vị trị và vai trò của sự nghiệp xây dựng nền vĕn hóa, đồng thời đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống vĕn hóa”. Ở các cấp ủy địa phương, cần tích cực xây dựng và khuyến khích người dân tham gia vào các phong trào truyền thống vĕn hóa dân tộc, ngĕn chặn kịp thời các hoạt động lợi dung vĕn hóa để trục lợi. . Phải chú trọng đến công tác xây dựng vĕn hóa lành mạnh trong xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết dân tộc. Tĕng cường đầu tư, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, nâng cao khả nĕng dự báo, định hướng phát triển vĕn hóa, con người. Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế về vĕn hóa theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả; khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá các tác phẩm vĕn học nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân và giới thiệu vĕn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế. Và quan trọng hơn hết là phải tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, đề cao vai trò nêu gương của người đứng đầu trong thực hiện các quy định về vĕn hóa, đạo đức, lối sống. Đẩy mạnh và đưa vào chiều sâu việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi trọng hiệu quả, chất lượng; thực hiện phong trào toàn dân xây dựng đời sống vĕn hóa ở cơ sở. lOMoARcPSD|12184112 21 KẾT LUẬN Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà vĕn hóa lỗi lạc của nhân dân Việt Nam, mà còn là biểu tượng vĕn hóa tinh thần của toàn nhân loại và hòa bình trên thế giới. Sự đóng góp của Người về nhiều mặt trong các lĩnh vực vĕn hóa, nghệ thuật, giáo dục,... là sự kết tinh của truyền thống vĕn hóa hàng ngàn nĕm nay của dân tộc Việt Nam. Có thế thấy rõ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra một hệ thống những luận điểm chặt chẽ, những nguyên tắc chỉ đạo hợp lý, những chuẩn mực và những phương pháp cơ bản định hướng cho công tác xây dựng nền vĕn hóa mới ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trờ thành nền tảng Tư tưởng cho Đảng ta trong việc định hình nền vĕn hóa mới tại Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đất nước đang từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hơn bao giờ hết, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, để xây dựng vĕn hóa xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu bức thiết để phát triển đất nước. Muốn đạt được điều đó, thì trước hết cần phải nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về vĕn hóa, và điều quan trọng là phải áp dụng được những tư tưởng ấy vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước sao cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vĕn hóa và xây dựng nền vĕn hóa mới kết hợp với việc phát triển tư tưởng của Người để phù hợp với điều kiện thực tiễn, chắc chắn việc xây dựng nền vĕn hóa ở Việt Nam sẽ đạt được nhiều bước phát triển vượt bậc trong thời gian tới. Thông qua đề tài nghiên cứu trên, hy vọng chúng ta có thể hiểu một cách đầy đủ hơn về vấn đề vĕn hóa xã hội chủ nghĩa và con đường phát triển vĕn hóa theo con đường chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tổ quốc Việt Nam có giàu đẹp hay không phụ thuộc vào việc nhận thức vai trò và tầm quan trọng của việc xây dựng nền vĕn hóa. Từ đó, có thể tạo một động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước ta. lOMoARcPSD|12184112 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia - Hà Nội, 2018. 2. Báo Tiền phong, số 23, 15/11/1946. 3. GS. Đặng Xuân Kỳ, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển vĕn hóa và con người, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2005. 4. Hoàng Anh, Nguyễn Duy Bắc, Phạm Vĕn Thủy, Phát triển vĕn hóa và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, 2010. 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, 1995. 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, 2011. 7. Hồ Chí Minh: Về công tác vĕn hoá vĕn nghệ, Nxb. Sự thật, 1971. 8. PTS. Bùi Đình Phong , Hồ Chí Minh với nền vĕn hóa mới Việt Nam trước 1954, Nxb. Lao Động, 1994. 9. PTS. Bùi Đình Phong, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền vĕn hóa mới Việt Nam, 1997. 10. Cơ quan ngôn luận của Bộ Công Thương (2021), Chấn hưng và xây dựng nền vĕn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, từ < tien-dam-da-ban-sac-dan-toc-167927.html > truy cập ngày 21/12/2021. 11. GS, TS. Tạ Ngọc Tấn (2020), Xây dựng nền vĕn hóa Việt Nam dưới ánh sáng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển nĕm 2011), từ < cuu/xay-dung-nen-van-hoa-viet-nam-duoi-anh-sang-cuong-linh-xay-dung- dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo-sung-phat-trien- nam-2011-35644.html >, truy cập ngày 21/12/2021. lOMoARcPSD|12184112
File đính kèm:
- tieu_luan_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_xay_dung_nen_van_hoa_xa_ho.pdf