Tiểu luận Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của Triết học đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt

pdf 31 trang yenvu 07/02/2024 2170
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của Triết học đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của Triết học đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt

Tiểu luận Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của Triết học đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 1 
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH 
KHOA SAU ĐẠI HỌC 
---------------------- 
BỘ MÔN TRIẾT HỌC 
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO 
VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT 
GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI 
VIỆT 
 Giáo viên giảng dạy: TS Bùi Văn Mưa 
 Sinh viên thực hiện: Dương Minh Dũng 
 Lớp: Đêm 1 K19 
TP Hồ Chí Minh, Ngày 26 tháng 03 năm 2010 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 2 
MỤC LỤC 
LỜI MỞ BÀI........................................................................................................................ 3 
PHẦN I: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO ................................... 4 
1. Sự ra đời của Phật giáo .........................................................................................................4 
2. Con đường truyền đi của đạo Phật.........................................................................................5 
PHẦN II: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO..................................................... 7 
1. Nhân quả ..............................................................................................................................7 
2. Luân Hồi.............................................................................................................................11 
3. Tứ diệu đế...........................................................................................................................12 
4. Bát chính đạo......................................................................................................................13 
PHẦN III: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG 
VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT................................................................... 15 
1. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền thống.............................15 
2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tôn giáo khác..............................................15 
3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa giữa các tông phái Phật Giáo..................................16 
4. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các thế hệ chính trị xã hội.................................17 
5. Ảnh hưởng Phật Giáo trong đời sống người bình dân và giới trí thức Việt Nam..................18 
6. Ảnh hưởng Phật Giáo qua ngôn ngữ ...................................................................................20 
7. Ảnh hưởng Phật giáo qua ca dao và thơ ca ..........................................................................21 
8. Ảnh hưởng Phật giáo qua các tác phẩm văn học..................................................................22 
9. Ảnh hưởng Phật Giáo qua phong tục, tập quán....................................................................25 
a Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ phật, phóng sanh và bố thí .......................25 
b Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa ...................................26 
c Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi....................................................26 
c Các phong tục tập quán khác: thủ tục đốt vàng mã, tập tục coi ngày giờ, tập tục 
cúng sao hạn, Tập tục xin xăm, bỏi quẻ...................................................................................27 
10. Ảnh hưởng của Phật giáo qua các loại hình nghệ thuật........................................................27 
a Phật giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu......................................................................27 
b Ảnh hưởng Phật giáo qua nghệ thuật tạo hình .................................................................27 
KẾT LUẬN........................................................................................................................ 29 
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 30 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 3 
LỜI MỞ BÀI 
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế 
giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng phật tử đông 
đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỷ II 
sau Công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc 
đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam, bên cạnh đó đạo Nho, đạo Lão, đạo 
Thiên chúa. Tùy từng giai đoạn lịch sử dân tộc ta đều có một học thuyết tư tưởng 
hoặc một tôn giáo nắm vai trò chủ đạo, có tác động mạnh nhất đến nếp sống, thói 
quen, suy nghĩ của con người, như Phật giáo ở thế kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ 
thứ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX cho đến 
nay. 
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội (CNXH), 
chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng 
bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, 
trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ 
phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể 
thực hiện được nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt được 
mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vi vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo 
lý, và sự tác động của đạo Phật nói chung và tư tưởng triết học của Phật giáo nói 
riêng đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Theo 
đạo để làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ 
không trở nên mê tín dị đoan, cúng bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, 
niềm tin của quần chúng nhân dân. Chính vì vậy, chúng ta cùng tìm hiểu Tư tưởng 
triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của 
người Việt. 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 4 
PHẦN I: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO 
1. Sự ra đời của Phật giáo 
Trong lịch sử triết học của ấn Độ, mà thực chất là lịch sử phát triển của các 
hệ tư tưởng triết học xen lẫn với tôn giáo, có một thời kỳ là thời kỳ Bàlamôn giáo, 
Phật giáo (từ thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ thứ VI sau công nguyên). Ở 
thời kỳ này, mặc dù nền kinh tế đã phát triển hơn trước, nhưng nó vẫn bị kìm hãm 
bởi tính chất tổ chức kiên cố của công xã nông thôn, bởi sự phân chia đẳng cấp khắc 
nghiệt và sự thống trị của nhà nước trung ương tập quyền. 
Trong lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, các trào lưu triết học, mà thực 
chất là các hệ tư tưởng của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, xuất hiện đa dạng 
nhưng chia thành hai hệ thống chính đối lập nhau: chính thống và không chính 
thống. Hệ tư tưởng chính thống với thế giới quan duy tâm, tôn giáo của kinh Veda 
và giáo lý Bàlamôn trở thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Nhưng hệ tư tưởng 
không chính thống với đạo Phật, đạo Jaina và phong trào đòi tự do tư tưởng, đòi 
bình đẳng xã hội ở vùng Đông ấn lại ăn sâu vào mọi tầng lớp nhân dân. 
Đạo Phật đã hình thành ở ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công 
nguyên, người sáng lập là thái tử Sidharta (Tất Đạt Đa) (Cồ - đăm), với tư cách là 
một trong những hệ tư tưởng tiên phong chống phân chia giai cấp, kì thị màu da và 
đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân ấn Độ nói riêng, với con người nói chung. 
Thái tử Tất Đạt Đa (Sidharta) là con vua Tịnh Phạn (Sudhodana) nước Ca Tỳ 
La Vệ (Kapila vastu). Truyền kể vào năm 624 trước công nguyên, hoàng hậu MaDa 
(Maya) sinh hạ một hoàng tử tuấn tú tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini) dưới 
gốc cây Ưu Bát La, thường gọi là cây Vô Ưu (asokaa) có hoa với sắc màu rực rỡ. 
Thái tử sinh vào ngày trăng tròn tháng Vésaka, nhằm ngày rằm tháng tư âm lịch và 
được đặt tên là Tất Đạt Đa. Lớn lên, thái tử văn võ toàn tài, vợ là công chúa Da Du 
Đà La (Yasodava) con vua Thiện Giác, cuộc sống rất đầy đủ, sung sướng. 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 5 
Nhưng những điều mắt thấy tai nghe về những nỗi đau khổ của con người đã 
ám ảnh tâm tư thái tử. Một ngày kia, thái tử ra đi, tương truyền ngài đến dòng A Nô 
Ma cắt tóc làm đạo sĩ. Ngài rủ năm người đến vùng Uruvela tu khổ hạnh trong 6 
năm. Nhưng sau 6 năm học đạo và khổ hạnh, thái tử thấy kẻ hưởng lạc sẽ bê tha thối 
nát, còn tu hành khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân, chỉ có con đường trung đạo mới 
mong thành chính quả. Bởi thế, Thái tử đã bỏ 5 anh em ông Kiều Trần Như, dùng 
bát sữa của mục nữ Tu Xá Đề (Sajata), xuống sông Ni Liên tắm rửa, rồi lên thiền 
quán dưới gốc cây pipal (cây Tất Bát La, xứ Ba La Nại) lớn và ngồi dưới gốc cây 
suy nghĩ. Tương truyền là qua 49 ngày, ngài đã chứng tam minh tức là Túc mạng 
minh, Thiên nhân minh và Lậu tận minh, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, năm 
36 tuổi. Gốc cây chỗ ngài ngồi gọi là Bồ đề đạo dưỡng (Bodhimanda) hay Kim 
cương tọa (Vadjrasana). 
Sau đó, ngài tìm 5 người bạn trước đây, giác ngộ cho họ, rồi cùng họ trong 
suốt 40 năm còn lại của cuộc đời đi truyền bá tư tưởng của mình. Có những câu 
chuyện đã thành huyền thoại về Phật như Phật đã dừng chân bên vệ đường xâu kim 
cho bà già mù lòa, săn sóc, dọn dẹp ô uế cho người bệnh, nhận cơm thừa của một 
tiện nữ dâng cúng... Từ những việc nhỏ nhất, tất cả đều thể hiện lòng từ bi bác ái 
của Ngài và đạo của Ngài. 
2. Con đường truyền đi của đạo Phật 
Sau Phật Niết bàn, các đệ tử Phật kiết tập 4 lần. Qua cuộc kiết tập lần thứ hai, 
do quan điểm bất đồng, Phật giáo chia thành hai phái: Thượng tọa bộ và Đại chúng 
bộ. Thượng toạ bộ chủ trương bảo thủ y nguyên Phật giáo ban đầu, đọc kinh bằng 
tiếng Pali. Đại chúng bộ có tư tưởng cấp tiến, phóng k hóang đọc kinh bằng tiếng 
Sanskrit. 
Dị biệt tiếp tục phát triển, về sau giáo đoàn Phật giáo cho làm hai hệ là Nam 
truyền và Bắc truyền. Thượng toạ bộ chi phối Nam ấn và Phật giáo Nam truyền liên 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 6 
tục hưng thịnh. Đại chúng bộ chi phối Bắc ấn, nhưng mãi đến thời Bồ Tát Mã Minh 
(Asvaghosha) 5 thế kỷ sau Phật niết bàn, mới mở màn hưng thịnh và sáng rỡ nhất là 
thời kỳ Bồ Tát Long Thọ (Nagarjuna) đầu thế kỷ II sau công nguyên. 
Phật giáo Nam truyền lan đến các nước phía Nam ấn: Tích Lan, Thái Lan, 
Miến Điện, Lào, Campuchia và đa số trở thành quốc giáo. Phật giáo Bắc truyền lan 
đến các vùng phía Bắc ấn (Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, ... ) mà mỗi nước lại 
có màu sắc riêng. Trung Hoa đã làm cho Phật giáo Bắc truyền thêm rực sáng. Sau 
này còn gọi Phật giáo Nam truyền là Phật giáo Tiểu Thừa, còn Phật giáo Bắc truyền 
là Phật giáo Đại Thừa. 
Với hai con đường thuỷ và bộ Phật giáo cũng vào Việt Nam những thế kỷ 
đầu công nguyên. 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 7 
PHẦN II: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO 
1. Nhân quả 
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và nhân 
sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác. Phật giáo 
cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ (chử pháp) là vô thủy, vô chung (vô 
cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục (vô thường) không có 
một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều thuộc về một giới (vạn 
vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp (mỗi một sự việc hiện 
tượng, hay một lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các 
sự vật, hiện tượng hay các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên 
hệ, tác động qua lại và qui định lẫn nhau. 
Tác phẩm “Thanh dung thực luận” của kinh phật viết rằng: “Có người cố 
chấp là có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng thường định 
ra chu pháp, đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi chi phối bởi luật nhân quả, 
biến hóa vô thường, không có cái bản ngã cố định, không có cái thực thể, không có 
hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả. 
Do qui luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không ngừng, 
thành, trụ, hoại, diệt (sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt vong). Quá trình đó 
phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất lượng của sự 
vật và hiện tượng. Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hóa vô thường của 
vạn vật, đã xây dựng nền thuyết “ nhân duyên”. trong thuyết “nhân duyên” có ba 
khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên. 
� Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được gọi là 
Nhân. 
� Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả. 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 8 
� Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không 
phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để 
giúp cho sự biến chuyển của vạn Pháp. 
Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây lúa 
sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và những mối 
liên hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những yếu tố đó chính là 
Duyên. 
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hóa vô thường 
của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lại. Phật giáo đã trình bày 
thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” (mười hai quan hệ nhân duyên) được coi là cơ sở 
của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu của sự liên kết nghiệp 
quả. 
� Vô minh: (là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng 
tỏ). 
� Hành: (là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo 
ra cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho 
vô minh và là nhân cho Thức). 
� Thức: (là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả cho 
hành và làm nhân cho Danh sắc). 
� Danh sắc: (là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của 
ta. Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân 
cho Lục xứ). Lục xứ hay lục nhập: (là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, 
lưỡi, tai, thân và tri thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc 
với vạn vật do Lục nhập mà có xúc - tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho 
Danh sắc và làm nhân cho Xúc.) 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 9 
� Xúc: (là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên, mở 
rộng xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và 
làm nhân cho Thụ). 
� Thụ: (là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình. 
Do thụ mà có ái, ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái). 
� Ái: (là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái làm 
quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ). 
� Thủ: (là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ 
làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu). 
� Hữu: (là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp. 
Do Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh). 
� Sinh: (hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm súc 
sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử). 
� Lão tử: (là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết. 
Nhưng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác 
tan đi là hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang 
cái nghiệp rơi vào vòng luân hồi ( khổ não)). 
Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn, không 
bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau lại mà sinh 
mãi mãi gọi là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả cho đoạn trước, 
rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân Duyên mà vạn vật cứ 
sinh hóa vô thường. 
Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ là 
dòng biến hóa hư ảo vô cùng, không có gì là thường định, là thực, là không thực có 
sinh, có diệt, có người, có mình, có cảnh, có vật, có không gian, có thời gian. Đó 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 10 
chính là cái chân lý cho ta thấy được cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được 
điều đó gọi là “chân như” là đạt tới cõi hạnh phúc, cực lạc, không sinh, không diệt, 
niết bàn. 
Thế giới của chúng sinh (loài người) cũng do nhân duyên kết hợp mà thành. 
Đó là sự kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý. 
� Cái tôi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố “sắc” (địa, thuỷ, hóa, 
phong) tức là cái cảm giác được. 
� Cái tôi tâm lý (tinh thần) linh hồn tức là “tâm” với 4 yếu tố chỉ có tên gọi 
mà không có hình chất gọi là “Danh”. 
Trong “Sắc” gồm những cái nhìn thấy được cũng như những thứ không nhìn 
thấy được nếu nó nằm trong quá trình biến đổi của “sắc” gọi là “vô biến sắc” như 
vật chất chuyển hóa thành năng lượng chẳng hạn. Bốn yếu tố do nhân duyên tạo 
thành phần tâm lý (tinh thần) của con người là: 
� Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng, đưa đến sự xúc chạm 
lĩnh hội thân hay tâm. 
� Tưởng: Suy nghĩ, tư tưởng. 
� Hành: ý muốn thúc đẩy hành động. 
� Thức: Nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta. 
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi sinh vật 
cụ thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ uẩn thì là diệt. 
Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng tận. 
Các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hóa theo qui luật nhân hóa 
không ngừng không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt còn. 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 11 
Không có sự vật riêng biệt, cố định, không có cái tôi, cái tôi hôm qua không 
còn là cái tôi hôm nay. Kinh Phật có đoạn viết “Sắc chẳng khác không, không chẳng 
khác sắc, sắc là không, không là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”. 
2. Luân Hồi 
Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết học Phật 
giáo mà có từ trong Upanishad. Nghiệp chữ phạn và Karma là cái do những hoạt 
động của ta, do hậu quả việc làm của ta, do hành động của thân thể ta. Được gọi là 
“Thân nghiệp”, còn hậu quả của những lời nói của ta, phát ngôn của ta thì được gọi 
là “khẩu Nghiệp”. Hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm trí của ta gây nên được 
gọi là ”ý Nghiệp”. Tất cả những Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, Ý nghiệp là do ta tham 
dục mà thành, do ta muốn thỏa mãn tham vọng của mình gây nên. Sở dĩ ta tham dục 
vì ta chưa hiểu đươc chân bản vốn có của ta cũng như vạn vật là luôn luôn biến đổi 
không có gì là thường định và vĩnh viễn cả. 
Cuộc đời con người là sự ghánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời và các 
kiếp sống trước rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau. Nghiệp báo trong một đời là sự 
tổng hợp của các nghiệp gây ra trong hiện tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá 
khứ, nó quyết định đời sau xấu hay tốt, thiện hay ác. 
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo phật cho 
rằng, sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác và 
đầu thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có thể là con người, loài 
vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả báo hành động của những kiếp 
trước gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn nguyên nỗi khổ ở đời con người. Sau khi lý 
giải được nỗi khổ ở cuộc đời con người là do “thập nhị nhân duyên” làm cho con 
người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chương tìm con đường diệt khổ. Con 
đường giải thoát đó không những đòi hỏi ta nhận thức được nó mà cao hơn ta phải 
hành động, phải thấm nhuần tứ diệu đế. 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 12 
3. Tứ diệu đế 
Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng sinh phải thấu hiểu 
và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm: 
 Khổ đế: Con người và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu là 
khổ, chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà 
phải chia lìa nhau là khổ, mất là khổ mà được cũng là khổ, ... Những nỗi 
khổ ấy từ đâu, chúng ta tiếp tục tìm hiểu Tập đế. 
 Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Vậy do những gì tụ tập lại mà 
tạo ra nỗi khổ cho chúng sinh. Đó là do con người có lòng tham, dâm 
(giận dữ), si (si mê, cuồng mê, mê muội) và dục vọng. Lòng tham và dục 
vọng của con người xâu xé là do con người không nắm được nhân duyên. 
Vốn như là một định luật chi phối toàn vũ trụ. Chúng sinh khômg biết 
rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, không không. Cái tôi tưởng là có nhưng 
thực là không. Vì không hiểu được ra nỗi khổ triền miên, từ đời này qua 
đời khác. 
 Diệt đế: Là phải thấu hiểu được “Thập nhị nhân duyên” để tìm ra được 
căn nguyên của sự khổ - để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ. 
Thực chất là thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, sinh tử. 
 Đạo đế: Là con người ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ 
trong thế giới nội tâm (thực nghiệm tâm linh). Tuy luyện tâm trí, đặc biệt 
là thực hành YOGA để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi 
phận là đạt tới trình độ giác ngộ bát nhã. Tới chừng đó sẽ thấy được chân 
như và thanh thản tuyệt đối, hết ham muốn, hết tham vọng tầm thường, 
tức là đạt tới cói “niết bàn” không sinh, không diệt. 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 13 
4. Bát chính đạo 
Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật tập 
trung thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đường hay 8 nguyên tắc (Bát 
chính Đạo) buộc ta phải tuân thủ, bát chính đạo gồm: 1) Chính kiến: Phải nhận thức 
đúng, phân biệt được phải trái, không để cho những cái sai che lấp sự sáng suốt, ii) 
Chính tư duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn, iii) Chính nghiệp: Hành 
động phải chân chính, phải đúng đắn, iv) Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, 
không vu oan cho người khác, v) Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ 
lợi, gian tà, không được bỏ điều nhân nghĩa, vi) Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng 
năng học tập, có ý thức vươn lên để đạt tới chân lý, vii) Chính niệm: Phải luôn luôn 
hướng về đạo lý chân chính, không nghĩ đến những điều bạo ngược gian ác, viii) 
Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chính, không bị t hóai 
chí, lay chuyển trước mọi cán dỗ. 
Muốn thực hiện được “Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện 
nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người làm 
điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp đó là 
thực hiện “Ngũ giới” (năm điều răn ) và “Lục độ” (sáu phép tu ). 
 “Ngũ giới” gồm: Bất sát: Không sát sinh; Bất đạo: Không làm điều phi 
nghĩa; Bất dâm: Không dâm dục; Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu 
oan giáo họa cho kẻ khác, không nói dối. 
 “Lục độ” gồm: Bố thí: Đêm công sức, tài trí, của cải để giúp người một 
cách thành thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn; Trí giới: Trung thành 
với điều răn, kiên trì tu luyện; Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường 
nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình; Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn 
lên; Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính không để 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 14 
cho cái xấu cho lấp; Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện 
trên thế gian. 
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát chính 
đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát chính mình ra khỏi 
nỗi khổ. Phật giáo không chủ trương giải phóng bằng Cách mạng xã hội. Mặc dù 
Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ người bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm 
cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhược điểm đồng thời cũng là ưu điểm 
nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trương cải 
tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực. Như vậy Phật giáo nguyên 
thủy có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo (vô ngã, vô tạo giả) và có tư tưởng 
biện chứng (vô thường, lý thuyết Duyên khởi). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo cũng 
thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và do cái tâm vô 
minh của con người tạo ra. 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 15 
PHẦN III: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI 
SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT 
 Qua nghiên cứu các tư tưởng triết học của Phật giáo, có thể nhận thấy Đạo 
Phật hướng người Việt tới việc suy nghĩ về làm những điều thiện, làm lành lánh giữ. 
Tư tưởng từ bi bác ái, chủ trương khuyến thiện trừ ác, hỷ xả, cứu khổ, cứu nạn là 
những tư tưởng lôi cuốn đông đảo người Việt và trở thành người giàu lòng thương 
người, nhân đạo. Chính vì quan tâm cứu vớt con người trước bất công đau khổ nên 
người Việt đã tiếp thu và nhiệt tình ủng hộ đạo Phật. Do đó những tác động của tư 
tưởng Phật giáo đến đời sống tinh thần người Việt là rất to lớn, ảnh hưởng đến các 
mặt sau: 
1. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền thống 
Khi được truyền vào Việt Nam, Phật Giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng 
bản địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này. Biểu tượng chùa Tứ 
Pháp thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên Mây, 
Mưa, Sấm, Chớp và thờ Đá. Lối kiến trúc của chùa chiền Việt Nam là tiền Phật hậu 
Thần cùng với việc thờ trong chùa các vị thần, các vị thánh, các vị thành hoàng thổ 
địa và vị anh hùng dân tộc. 
2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tôn giáo khác 
Đó là kết quả của sự phối hợp và kết tinh của Đạo Phật với đạo Nho và đạo 
Lão, được các nhà vua thời Lý công khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì đặc tính 
dung hòa và điều hợp này mà Phật Giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưởng truyền 
thống của dân tộc Việt. Nó chẳng phải Phật giáo Ấn Độ hay Trung Hoa, Tiểu Thừa 
hay Đại Thừa, mà nó là tất cả những khuynh hướng tâm linh của người dân Việt. Nó 
thực ra là cái "Đồng Qui Nhi Thù Đồ", cùng về một đích mà đường lối khác nhau, 
chính tinh thần khai phóng của Phật Giáo Việt Nam đã kết tinh lấy Chân, Thiện, Mỹ 
làm cứu cánh để thực hiện. Nho giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường Thiện, 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 16 
tức là hành vi đạo đức để tới chỗ nhất quán với Mỹ và Chân. Đạo giáo thực hiện cứu 
cánh ấy bằng con đường Mỹ, tức là tâm lý nghệ thuật để tới chỗ nhất quán với Thiện 
và Chân. Phật giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường trí tuệ giác ngộ để đạt tới 
chỗ nhất quán Chân, Thiện, Mỹ. Đó là thực tại Tam Vi Nhất của tinh thần tam Giáo 
Việt Nam. Trong nhiều thế kỷ hình ảnh tam giáo tổ sư với Phật Thích Ca ở giữa, 
Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên phái đã in sâu vào tâm thức của người dân Việt. 
3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa giữa các tông phái Phật Giáo 
Đây là một nét đặc trưng rất riêng biệt của Phật Giáo Việt Nam so với các 
quốc gia Phật Giáo láng giềng. Chẳng hạn như Thái Lan, Tích Lan, Lào, Campuchia 
chỉ có Phật Giáo Nam Tông, ở Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ thuần tuý 
chỉ có Phật Giáo Bắc Tông. Nhưng ở Việt Nam thì lại dung hòa và điều hợp cả Nam 
Tông và Bắc Tông. Chính vì tinh thần khế lý khế cơ của Phật Giáo cộng với tinh 
thần khai phóng của Phật Giáo Việt Nam mới có được kết quả như vậy. Tuy thiền 
tông chủ trương bất lập văn tự, song ở Việt Nam chính các vị thiền sư xưa lẫn nay 
đã để lại rất nhiều trước tác có giá trị, đặc biệt các thiền viện ở Việt nam điều tụng 
kinh gõ mõ như các tự viện Tông Tịnh Độ. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì kết 
hợp với Mật Giáo, có nhiều thiền sư phái này như ngài Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, 
Nguyễn Minh Không điều nổi tiếng là giỏi phép thuật trong việc trừ tà, chữa bệnh. 
Điều đặc sắc ở đây là trong khi khai triển Phật Giáo Việt Nam, các thiền sư 
Việt Nam đã không theo thiền kiểu mẫu của các thiền sư Ấn Độ và Trung Hoa mà 
mở lấy một con đường riêng, phù hợp với dân tộc. Và trong khi tiếp nhận với hai 
luồng ảnh hưởng ấy, các thiền sư Việt Nam đã khéo léo điều chỉnh tính hai cực, Ấn 
Độ-Trung Hoa: một bên thì quá ham chuộng sự bay bổng, thần bí, một bên quá thực 
tiễn duy lý. Khi Phật Giáo vào Trung Hoa đã gây cho các nhà Phật học những cuộc 
tranh luận sôi nổi về giáo pháp. Rồi suốt cả quá trình lịch sử của nó là sự phái sinh 
ra những tôn giáo, là những cuộc đấu tranh tư tưởng dữ dội, điển hình là cuộc đấu 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 17 
tranh giữa phái Thiền Nam Phương của Huệ Năng với Thiền Phái Miền Bắc của 
Thần Tú vào thời kỳ sơ đường. Còn ở Việt Nam thì khác, trên pháp đàn tư tưởng 
thời Lý cũng như thời Trần, thời kỳ vàng son của Phật Giáo Việt Nam và các thời 
kỳ sau này không có những mâu thuẩn đối lập mà tất cả điều quy về một mục đích 
chính là tu hành giải thoát. Phải chăng sự thống nhất về ý thức tư tưởng, dung hòa 
giữa các tông phái và đoàn kết dân tộc đã uốn nắn Phật Giáo Việt Nam theo con 
đường dung hòa thống nhất đó? 
4. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các thế hệ chính trị xã hội 
Phật giáo tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng Phật Giáo Việt Nam có chủ 
trương nhập thế, tinh thần nhập thế sinh động này nổi bật nhất là các thời Đinh, Lê, 
Lý, Trần. Trong các thời này các vị cao tăng có học thức, có giới hạnh điều được 
mời tham gia triều chính hoặc làm cố vấn trong những việc quan trọng của quốc gia. 
Ta thấy có nhiều lý do khiến các thiền sư Việt Nam tham gia vào chính sự, thứ nhất: 
họ là những người có học, có ý thức về quốc gia, sống gần gũi nên thấu hiểu được 
nổi đau khổ của một dân tộc bị nhiều cuộc đô hộ của ngoại bang. Thứ hai: các thiền 
sư không có ý tranh ngôi vị ngoài đời nên được các vua tin tưởng và thứ ba: các 
thiền sư không cố chấp vào thuyết trung quân (chỉ biết giúp vua mà thôi) như các 
nho gia nên họ có thể cộng tác với bất cứ vị vua mào đem lại hạnh phúc cho dân 
chúng. Thời vua Đinh Tiên Hoàng đã phong cho thiền sư Ngô Chân Lưu làm Tăng 
Thống, thời Tiền Lê có ngài Vạn Hạnh, ngài Đỗ Pháp Thuận, ngài Khuông Việt 
cũng tham gia triều chính. Trong đó đặc biệt thiền sư Vạn Hạnh đã có công xây 
dựng triều đại nhà Lý khi đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, chấm dứt chế độ tàn bạo 
của Lê Long Đỉnh, ông vua Ngọa Triều còn có biệt danh kẻ róc mía trên đầu sư. 
Thời nhà Trần có các thiền sư Đa Bảo, thiền sư Viên Thông.. điều được các vua tin 
dùng trong bàn bạc quốc sự như những cố vấn triều đình. 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 18 
Đến thế kỷ 20, phật tử Việt Nam rất hăng hái tham gia các hoạt động xã hội 
như cuộc vận động đòi ân xá cho Phan Bội Châu. Đến thời Diệm, Thiệu (1959-
1975) cũng thế, các tăng sĩ và cư sĩ miền Nam tham gia tích cực cho phong trào đấu 
tranh đòi hòa bình và độc lâp cho dân tộc, nổi bật là những cuộc đối thoại chính trị 
giữa các tăng sĩ Phật Giáo và chính quyền. Đến cuối thế kỷ 20, ta thấy tinh thần 
nhập thế này cũng không ngừng phát huy, đó là sự có mặt của các thiền sư Việt 
Nam trong quốc hội của nước nhà. 
5. Ảnh hưởng Phật Giáo trong đời sống người bình dân và giới trí thức 
Việt Nam 
Cũng như tất cả dân tộc nào trên thế giới từ Đông sang Tây, từ Nam đến Bắc, 
lúc sơ khởi người Việt Nam tín ngưỡng và tôn thờ tất cả những sức mạnh hữu hình 
hay vô hình mà họ cho là có thể giúp đỡ họ hoặc làm hại đến họ như mây, mưa, 
sấm, sét, lửa, gió.. Trong bối cảnh tín ngưỡng đa thần này, Phật Giáo đã xuất hiện và 
nhanh chóng quá thân qua hình ảnh của bộ tượng Tứ Pháp ở chùa Dâu, ngôi chùa 
Phật Giáo đầu tiên của Việt Nam ở Luy Lâu (Hà Bắc ngày nay), đó là bộ tượng 
Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điễn, một hình ảnh sống động và gần gũi với 
người dân nông thôn trong việc cầu xin phước lộc, cầu đảo, cầu siêu, cầu xin tất cả 
những gì mà cuộc sống con người đòi hỏi. Người Phật tử trong thời kỳ sơ khai này 
quan niệm rằng Phật là đấng cứu thế, có thể ban cho con người mọi điều tốt lành. 
Trong buổi đầu của Phật Giáo ở Việt Nam mang dáng dấp của Phật Giáo 
Tiểu Thừa và Mật Giáo, vì vậy đã dễ dàng gắn với phù chú, cầu xin phước lộc hơn 
là tôi luyện trí tuệ và thiền định. Vả lại, tính đời trội hơn tính đạo, trong quần chúng 
đa số là phụ nữ đến với Phật Giáo, đó là hạng người đau khổ nhất trong xã hội cũ. 
Đến thời nhà Lý, có nhiều thiền sư từ Trung Quốc sang và thiết lập nhiều 
thiền phái, phong trào học và tu phật phát triển mạnh ở trong giới trí thức, cung 
đình, đô thị, nhưng trong giới bình dân vẫn tồn tại nhất định một Phật Giáo dân gian 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 19 
với những ảnh hưởng cảm tính vốn có từ trước. Được vua triều Lý, Trần ủng hộ, 
hoạt động của Phật Giáo có mặt ở khắp hang cùng ngõ hẻm, làng nào cũng có chùa 
có tháp, người ta học chữ, học kinh, hội hè, biểu diễn rối nước, họp chợ ngay ở 
trước chùa 
Chùa làng đã từng một thời đóng vai trò trung tâm văn hóa tinh thần của 
cộng đồng làng xã Việt Nam, chùa không những là nơi giảng đạo cầu kinh, thờ cúng 
Phật mà còn là nơi hội họp,. di dưỡng tinh thần, tham quan vãn cảnh. Bởi vì, kiến 
trúc của chùa Việt Nam thường hòa hợp với cảnh trí thiên nhiên, tạo thành một kiến 
trúc hài hòa với ngoại cảnh. Khung cảnh ấy phù hợp với những giờ phút nghỉ ngơi 
sau giờ lao động nhọc nhằn và dinh dưỡng tinh thần của tuổi già. 
Đến thế kỷ mười lăm, Nho Giáo thay chân Phật Giáo trong lãnh vực thượng 
tầng xã hội, Phật Giáo từ giã cung đình nhưng vẫn vững vàng trong làng xã. Ngôi 
đình xuất hiện tiếp thu một số kiến trúc và nghệ thuật Phật Giáo, đồng thời trở thành 
trung tâm hành chính của làng xã Cửa chùa chỉ còn mở cửa cho đàn bà, con gái 
kêu van,nguyện cầu khi chồng bị bắt phu, con bị bắt nợ, ốm đau bệnh tật, mất mùa 
đói rét.. xin Phật gia hộ. Bồ Tát Quan Âm hay Phật Bà được ưa chuộng hơn xưa. 
Nhờ vậy mà ngày nay chúng ta chiêm ngưỡng được pho tượng Quan Âm nghìn tay 
nghìn mắt trong chùa Bút Tháp (tỉnh Hà Bắc) tạc vào năm 1656. Tượng rất đẹp 
nhưng được tạo vào thời điểm Phật Giáo không còn tôn sùng như quốc giáo nữa, 
chứng tỏ Phật Giáo đã ăn sâu vào tâm tư và văn hóa nghê thuật dân gian. 
Nhìn chung không khó khăn gì khi ta phăng tìm dấu ấn Phật Giáo trong quan 
niệm dân gian và ta có thể phát hiện rằng nếu không có sự hiện diện của Phật Giáo ở 
Việt Nam thì ta sẽ mất đi hơn một nữa di tích và danh lam thắng cảnh mà hiện nay 
ta tự hào, sẽ không có chùa Hương rộn ràng, nhộn nhịp sầm uất trong ngày trẩy hội 
đầu xuân, không có chùa Tây Phương vời vợi, không có chùa Yên Tử mây mù, 
không có chùa Keo bề thế, không có chùa Thiên Mụ soi mình trên dòng sông 
Hương.Và cũng không có những chuyện dân gian đầy tính nhân bản như truyện Từ 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 20 
Thức, truyện Tấm Cám, truyện Quan Âm Thị Kính, ... Sẽ không có những lễ hội 
tưng bừng như hội Lim, hội Chùa Hương, ... và trong tâm tư truyền thống cũng vắng 
tư tưởng bố thí vị tha, lòng hưởng thiện và niềm tin vững chắc vào một tương lai 
sáng sủa, vắng tinh thần lạc quan ngây thơ của người dân Việt. 
Quả thật vậy, Đạo Phật đã có mặt ảnh hưởng khắp mọi giai tầng trong ở xã 
hội Việt Nam, không những trong giới bình dân mà còn ở trong giới trí thức nữa. 
Phật Giáo thiền tông ở Việt Nam phát triển mạnh và ảnh hưởng sâu rộng 
trong giới trí thức, cung đình từ đinh (968-980), tiền Lê (980-1009) đến thời Lý 
(1010-1225) đã mang được trong mình một tinh thần Việt Nam, đó là sự ra đời của 
một thiền phái mới, phái Thảo Đường do Lý Thánh Tông một vị vua anh kiệt đứng 
đầu. Nhưng thiền tông Việt Nam phát triển rực sáng nhất là ở giai đoạn nhà Trần 
(1226-1400) với những tư tưởng vừa thăng trầm vừa phóng k hóang của các thiền sư 
thời Trần đã được đúc kết trong các tác phẩm Khóa Hư Lục của Trần Nhân Tông, 
Pháp Loa, Huyền Quang đã làm cho bình diện học thuật Việt Nam lúc bấy giờ bổng 
bừng sáng hẳn lên. Đặc biệt sự xuất hiện thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, do người 
Việt Nam sáng lập ra, thể hiện được đầy đủ mọi đặc trưng, độc đáo của người Việt 
và nó đã để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử văn hóa Việt Nam cho tới ngày nay. 
Phật Giáo không những ảnh hưởng trong đới sống của người bình dân và giới 
trí thức mà còn ảnh hưởng qua gốc độ nhân văn và xã hội. 
6. Ảnh hưởng Phật Giáo qua ngôn ngữ 
 Trong đời sống thường nhật cũng như trong văn học Việt Nam ta thấy có 
nhiều từ ngữ chịu ảnh hưởng ít nhiều của Phật Giáo được nhiều người dùng đến kể 
cả những người ít học. Tuy nhiên không phải ai cũng biết những từ ngữ này được 
phát xuất từ Phật Giáo, chẳng hạn như khi ta thấy ai bị hoạn nạn, đau khổ tỏ lòng 
thương xót, người ta bảo "tội nghiệp quá". Hai chữ tội nghiệp là từ ngữ chuyên môn 
của Phật Giáo. Theo Đạo Phật tội nghiệp là tội của nghiệp, do nghiệp tạo ra từ 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 21 
trước, dẫn tới tai nạn hay sự cố hiện nay, theo giáo lý nhà Phật thì không có một 
hiện tượng hay sự cố tai nạn nào xảy ra là ngẫu nhiên hay tình cờ, mà chỉ là kết quả 
tập thành của nhiều nguyên nhân tạo ra từ trước. 
Hoặc khi muốn diễn tả một vật gì đó quá nhiều, người ta dùng danh từ "hằng hà 
sa số". Nếu hỏi hằng hà sa số là cái gì chắn chắn ít ai hiểu chính xác, họ chỉ biết đó 
là nói rất nhiều, bởi khi xưa Đức Phật thường thuyết pháp gần lưu vực sông Hằng 
(Gange) ở Ấn Độ, cho nên khi cần mô tả một con số rất nhiều, ngài thí dụ như số cát 
sông Hằng. Hoặc khi có những tiếng ồn náo, người ta bảo "om sòm bát nhã", do khi 
đến chùa vào những ngày sám hối, chùa thưởng chuyển những hồi trống bát nhã, 
nhân đó mà phát sanh ra cụm từ trên. Lại có những người rày đây mai đó, ít khi 
dừng chân ở một chổ, khi người ta hỏi anh đi dâu mãi, họ trả lời tôi đi "ta bà thế 
giới". Ta bà thế giới là thế giới của Đức Phật Thích Ca giáo hóa, theo thế giới quan 
của phật giáo thì thế giới ta bà to gấp mấy lần quả địa cầu này, hoặc khi các bà nẹ 
Việt Nam la mắng các con hay quậy phá, các bà nói: "chúng bay là đồ lục tặc", tuy 
nhiên họ không biết từ lục tăc này phát xuất từ đâu? Đó là từ nhà phật, chỉ cho sáu 
thằng giặc: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp của ngoại cảnh luông luôn quấy nhiễu 
ta. 
Còn nghiều từ ngữ khác như từ bi, hỷ xã, giác ngộ, sám hối đã được người dân 
Việt Nam quen dùng như tiếng mẹ đẻ mà không chút ngượng ngập lạ lùng. Sự ảnh 
hưởng phật giáo không ngừng ở phạm vi từ ngữ mà nó còn lan rộng, ăn sâu vào 
những ca dao dân ca và thơ ca của người dân Việt Nam nữa. 
7. Ảnh hưởng Phật giáo qua ca dao và thơ ca 
Ca dao dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, dễ hiểu trong dân gian, 
được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Không ai biết rõ xuất xứ cũa những lời ca 
hát đó ở đâu, chỉ biết rằng nó thường được thể hiện dưới hình thức câu hát ru em, 
những câu hò đối đáp giữa các chàng trai cô gái tuổi đôi mươi hay để kết thúc mỗi 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 22 
câu chuyện cổ tích mà các cụ già kể cho con cháu nghe mang tính chất khuyên răng 
dạy bảo. Ca dao dân ca phổ biến dưới dạng thơ lục bát bao gồm nhiều đề tài khác 
nhau, tư tưởng đạo lý của phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến trong 
ca dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên răng dạy bảo, 
với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui phù hợp với truyền thống đạo đức của 
dân tộc Việt Nam. 
8. Ảnh hưởng Phật giáo qua các tác phẩm văn học 
Bên cạnh ca dao bình dân, trong các tác phẩm văn học của các nhà thơ, nhà 
văn chúng ta cũng thấy có nhiều bài thơ, tác phẩm chịu ảnh hưởng nhiều hay ít của 
phật giáo. Ở đây chúng ta không đề cập đến dòng văn học chính thống của phật 
giáo, tức là tác phẩm do các thiền sư sáng tác trong quá trình tu tập của mình, mà 
chỉ nói đến các thơ văn Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của triết lý phật giáo mà thôi. 
Cái ảnh hưởng đó có ngay từ khi phật giáo du nhập vào nước Việt, nghĩa là khi chữ 
Hán còn thịnh hành, nhưng để thấy rõ ràng hơn, ta chỉ đề cập đến sự ảnh hưởng của 
phật giáo trong thơ văn từ khi người Việt Nam đã viết chữ Nôm, chữ Việt thành 
thạo nghĩa là bắt đầu thừ thế kỷ thứ 18 trở về sau. 
Tác phẩm chữ nôm nổi tiếng trong thế kỷ thứ mười tám là Cung Oán Ngâm 
Khúc của nhà thơ Việt Nam Nguyễn Gia thiều (1741-1798), tác phẩm viết bằng thơ 
nôm. Thể song thất lục bát, dài 356 câu, là khúc ngâm của người cung nữ bị vua 
ruồng bỏ, oán than về thân phận mình. Nội dung tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của 
phật giáo, nhất là triết lý ba pháp ấn Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. 
Theo cái nhìn của phật giáo, khi mô tả nỗi khổ chúng sanh thường được dùng 
ẩn dụ như khỗ ải (bể khổ). Cái khổ ấy từ đâu mà có, vốn từ chỗ lầm chấp, vô minh 
của con người mà có, từ chỗ mê lầm ấy mà được hình dung bằng mê tân (bến mê), 
Như thế danh từ bể khổ của phật giáo đã giúp ông Nguyễn Gia Thiều diễn tả thấu 
đáo nỗi khổ đau của kiếp người, cái khổ đau ấy, cái vô thường ấy không những chi 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 23 
phối ở con người mà còn ở cả cây cỏ, hoa, lá, thế giới vô tình, tất cả chịu chung qui 
luật khắc nghiệt ấy. 
Qua thế kỷ thứ mười chín, với thi hào Nguyễn Du (2765-1820) ta có được 
một án văn bất hủ là Truyện Kiều, là một truyện thơ nôm viết bằng thể lục bát dựa 
theo tác phẩm Kim Vân Truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), gồm 
3254 câu thơ. Đây là một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật Giáo, trong đó 
ta thấy nổi bật nhất là thuyết về Khổ Đế, một phần quan trọng của giáo lý Tứ Diệu 
Đế, kế đó là tinh thần về hiếu đạo và thuyết về nhân quả và nghiệp báo. Điều đó có 
lý, vì lẽ chính Nguyễn Du đã tự nhận mình là một phật tử và từng đọc Kinh Kim 
Cang Bát Nhã đến cả ngàn lần. 
Thật vậy, Đoạn Trường Tân Thanh dường như chỉ là để chứng minh cho triết 
lý nhân quả của Phật Giáo. Theo thuyết này, những điều họa phúc mà con người 
phải gánh chịu ở kiếp này điều có nghiệp nhân ở kiếp trước, khi mới sinh ra ở đời ta 
phải mang lấy cái nghiệp tức là cái kết quả của những vô minh ái dục mà ta đã gây 
tạo từ trước, và cuộc đời của chúng ta sẽ hạnh phúc hay đau khổ, tai họa hay may 
mắn đều tùy thuộc vào cái nghiệp thiện hay ác, tốt hay xấu, nặng hay nhẹ mà chính 
mình đã gây tạo. 
Trong đoạn trường tân thanh nàng Kiều phải mang một cái nghiệp rất nặng. 
Vì cái nghiệp ấy mà người con gái đầu xanh chưa tội tình gì mới bước chân vào 
cuộc đời đã gặp biết bao khổ lụy: cha và em trai bị tù tội, mối tình đầu tan vỡ, và bắt 
đầu từ đó nàng lăn lóc từ nơi này qua nơi khác, có khi tưởng ra khỏi vòng nhưng rồi 
lại bị lôi cuốn đày đọa, mãi cho đến khi tự vẫn ở sông Tiền Đường, Đạm Tiên mới 
cho biết rằng nàng đã qua khỏi bước đoạn trường và sắp được sống một cuộc đời 
vui tươi sáng lạn. 
Qua ý tưởng phước đức, duyên nghiệp trên của Đoạn Trường Tân Thanh ta thấy 
cụ Nguyễn Du rõ ràng đã chịu ảnh hưởng sâu xa của Phật Giáo. Nàng Kiều bao 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 24 
nhiêu năm chìm nổi điêu đứng vì một chữ nghiệp, cứ mỗi lần thất bại là một lần ý 
nghĩa của chữ ấy càng rõ rệt thấm thía đối với thân phận của nàng. Sự tin tưởng của 
nàng cũng là sự tin tưởng của Nguyễn Du, người đã từng chịu đau khổ và bao phen 
thất bại nên thức tỉnh và tìm đường trở về vớí Chánh pháp. 
Nếu ở đãu thế kỷ thứ mười chín chúng ta có Nguyễn Du thì cuối thế kỷ thứ 
mười chín chúng ta có Mạnh Chu Trinh (1862-1905) một nhà thơ VN người làng 
Phú Thị, huyện K hóai Châu, tỉnh Hải Hưng, ông đậu tiến sĩ năm 1902. Là một 
người tài hoa về thơ, giỏi và thích kiến trúc, ông đã từng vẽ kiểu và trùng tu chùa 
Thiên Trù ở Hương Tích. Cũng trong thời gian (giữa những năm 1891-1892) xây 
dựng chùa này mà ông đã sáng tác nhiều bài thơ độc đáo về phong cảnh Hương Tích 
và tất nhiên thơ của ông cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần của Phật Giáo, 
chẳng hạn như bài:"Hương Sơn Phong Cảnh". 
Thật vậy qua những bài thơ này, ta thấy thơ của Chu Mạnh Trinh đã phản 
chiếu được lòng tin của ông đối với giáo lý nhà Phật và qua cái nhìn ông một cảnh 
vật ở đó thật giải thoát, an lạc, thanh vắng, và có thể nói cảnh vật Hương Sơn với 
ông trở thành một cõi riêng của Phật trong đó không những người tín đồ mà cho đến 
cả chim, cá, khe, động đều thấm nhuần được ánh sáng của Chánh Pháp. 
Qua đầu thế kỷ thứ hai mươi, chúng ta có một nhà thơ đáng yêu, tuy không phải 
là tín đồ Phật Giáo, nhưng thỉnh thoảng văn thơ của ông cũng đã ảnh hưởng ít nhiều 
từ ngôn ngữ, tư 
Những chữ trời từ bi, chín từng trời, Đao Lợi, Đâu Suất, thành chánh quả..đều 
là danh từ của nhà Phật. Hay với J. Leiba một nhà thơ trẻ Việt Nam đầu thế kỷ thứ 
20 cũng có những bài ảnh hưởng sâu đậm triết lý nhà Phật, có thể nói J. Leiba là nhà 
thơ trẻ nhất thời đó đã quay về với Đạo Phật để tìm lấy sự an lạc cho tâm hồn cho 
những ngày cuối đời mình: 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 25 
Và với Vũ Hoàng Chương (1916-1976) nhà thơ nổi danh khác của Việt nam lại 
đi xa hơn, mượn ngay những giáo lý của Phật như Nhân Quả, Luân Thường, khổ 
đau..để diễn tả nổi niềm khao khát vượt ra khỏi bờ mê, để đến bến giác. 
Điểm qua một số thơ văn Việt Nam có những ảnh hưởng của Phật Giáo như 
trên ta thấy tư tưởng, triết học Phật Giáo đã để lại dấu ấn của mình sâu đậm trên 
diễn đàn tư tưởng của Việt Nam. Không chỉ ảnh hưởng trên mặt văn chương xuất 
bản mà Phật Giáo còn có mặt trong nhiều phong tục tập quán ở Việt Nam. 
9. Ảnh hưởng Phật Giáo qua phong tục, tập quán 
Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa của mỗi dân 
tộc. Thông qua việc tìm hiểu phong tục tập quán, người ta tìm lại được những giá trị 
văn hóa mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối với người Việt Nam, 
những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng phật giáo khá nhiều. Song ở đây người 
viết chỉ đề cập đến những tập tục phổ biến trong đời sống hằng ngày của người Việt. 
a Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ phật, phóng sanh và 
bố thí 
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp sống văn 
hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của phật giáo. Vì khi đã 
trở về với phật pháp, mỗi người phật tử phải thọ giới và trì giới, trong đó giới căn 
bản là không sát sanh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Trong hành động 
lời nói và ý nghĩa, người phật tử phải thể hiện lòng từ bi. Điều không thể có được 
khi con người còn ăn thịt, còn uống máu chúng sanh. 
Về mặt ăn uống, ăn chay rất phù hợp với phong cách ăn uống Á Đông, chú 
trọng ăn ngũ cốc nhiều hơn thực phẩm động vật, vả lại ăn chay giúp cho cơ thể được 
nhẹ nhàng, trí óc được minh mẫn sáng suốt. Gần đây các bác sĩ Soteylo, và bác sĩ 
Varia Kiplami cho biết trong các thứ thịt có nhiều chất độc, rất nguy hiểm cho sức 
Trường Đại học Kinh Tế TP Hồ Chính Minh Bộ môn Triết học 
Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống VH tinh thần của người Việt Trang 26 
khoẻ con người. Và các nhà khoa học đều cho rằng ăn chay rất hợp vệ sinh và 
không kém phần bổ dưỡng. Trên tinh thần đó, nên nguời việt nam dù không phải là 
Phật Tử cũng thích ăn chay, và tập tục này đã ảnh hưởng sâu rộng trong mọi giai 
tầng xã hội Việt Nam từ xưa đến nay. 
Ăn chay và thờ phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Việc thờ 
phật trong dân gian cũng có nhiều điều thú vị. Người phật tử, người mộ đạo thờ phật 
đã đành, nhiều người không phải là phật tử cũng dùng tượng phật hay tranh ảnh có 
yếu tố phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và trang 
nghiêm. Theo quan niệm của nhóm người này, phật giáo là một thành tựu về tư 
tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại. 
b Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa 
Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc 
vọng, tức là ngày mặt 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_tu_tuong_triet_hoc_cua_phat_giao_va_su_anh_huong_c.pdf