Tiểu luận Tư tưởng triết học Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tư tưởng triết học Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tư tưởng triết học Việt Nam
PHỤ LỤC LỜI MỞ ĐẦU Nền văn hoá lâu đời ở Việt Nam đã hình thành,lưu giữ và tiếp thu nhiều tư tưởng phản ánh tiến trình dựng nước, giữ nước và những khả năng sáng tạo của nhiều thế hệ người Việt Nam trong lịch sử dân tộc. Những tư tưởng ấy rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Chúng trở thành nội dung, đối tượng của nhiều ngành khoa học khác nhau như: sử học, văn học, kinh tế học, chính trị học, luật học, xã hội học, khoa học quân sự, khoa học ngoại giaotrong đó có triết học. Thế nhưng lịch sử triết học Việt Nam với tư cách là một bộ môn khoa học chỉ mới ra đời cách đây không lâu ở Việt Nam. Bởi vậy, đòi hỏi các nhà lý luận tiếp tục làm rõ những vấn đề liên quan đến lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam – tư tưởng triết học đã từng định hướng sự phát triển, bao quát một cách rộng rãi, chi phối suy nghĩ và hành động của con người Việt Nam trong từng mốc phát triển lịch sử của nó. Đó là các vấn đề như: Ở Việt Nam có triết học hay không? Nguồn gốc hình thành, đối tượng, phạm vi, nội dung, đặc điểm của tư tưởng triết học Việt Nam là gì? Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “ Tư tưởng triết học Việt Nam - Những nội dung cơ bản và nét đặc trưng của nó ” làm đề tài tiểu luận của mình. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA, TRIẾT LÝ VÀ TRIẾT HỌC TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG CỦA DÂN TỘC: Văn hoá là nguồn nuôi dưỡng các triết lý, các tư tưởng và hệ thống triết học, là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển các hệ thống triết học. Các triết lý, các hệ thống triết học lại là những bộ phận cốt lõi nhất trong nền văn hoá của một dân tộc. Xét trên nhiều khía cạnh, triết lý luôn ở tầm thấp hơn so với các hệ thống triết học, song nó chính là chất liệu của các hệ thống triết học bác học.Có thể khẳng định rằng văn hoá, các triết lý và các hệ thống triết học chính là ba tầng bậc khác nhau của văn hoá theo nghĩa rộng. Các thành tố văn hoá trong hệ thống chỉnh thể bao hàm và gắn kết lẫn nhau tạo nên những cái chung, những triết lý mang tính thế giới quan, trong đó tích trữ những kinh nghiệm xã hội đã tích luỹ được. Chúng không phải là những phạm trù triết học dù chúng phản ánh hiện thực, thể hiện thành những quy tắc, chuẩn mực của hoạt động, thành những triết lý, thành các cái chung văn hoá. Các triết lý có thể hoạt động và phát triển cả ở bên ngoài các hệ thống triết học, nhưng chúng lại vốn có trong các nền văn hoá mà ở đó, chưa có những hình thức phát triển của các hệ thống triết học. Trong các triết lý mang tính thế giới quan có thể có những phương án sống và hoạt động riêng, đặc trưng cho những kiểu văn hoá khác nhau và ăn sâu trong ý thức con người. Đồng thời chúng cũng gắn liền với những nội dung, phương thức, chương trình hành động của quá khứ lẫn tương lai, thể hiện những đặc điểm của phương thức giao tiếp và hoạt động của con người, của việc bảo tồn, chuyển tải kinh nghiệm xã hội và thang bậc giá trị. Chúng mang đặc trưng dân tộc và chủng tộc trong mỗi nền văn hoá, xác định đặc điểm của các nền văn hoá khác nhau. Ý nghĩa của những triết lý trong văn hoá sẽ được các cá nhân nhận thức và chúng sẽ xác định tầm quan niệm về thế giới, hành động và cách xử thế của các cá nhân. Ý nghĩa của những triết lý ở tầm nhóm và cá nhân sẽ được hiệu chỉnh cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của họ. Trong mỗi một nền văn hoá dân tộc bao giờ cũng bao hàm những triết lý về con người, cuộc sống, xã hội và thế giới nói chung. Nhưng đó chưa phải là hệ thống triết học. Những cái chung, những triết lý đó có thể rời rạc, tản mạn, không liên kết chặt chẽ, lôgíc được với nhau, mặc dù chúng có thể là những triết lý sâu sắc. Chúng thể hiện sự suy tư, đúc kết kinh nghiệm, tri thức của con người về những mặt, những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ trong đời sống. Chúng có thể được thể hiện bằng ca dao, tục ngữ, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, cách hành xử trong cuộc đời. Đối với người Việt Nam, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” từ lâu đã là một triết lý sống, một cách hành xử trong quan hệ giữa người với người. Nhưng đó chưa phải là triết học, càng chưa phải là một hệ thống triết học. Khác với các hệ thống triết học bác học do các nhà tư tưởng, các nhà khoa học hoàn toàn xác định tạo ra, các triết lý, thường là vô danh, xuất hiện và tồn tại trong các hình thức khác nhau: ca dao, tục ngữ, trong cuộc sống thường ngày, trong kiến trúc, v.v.. Không thể xác định được chính xác thời gian ra đời của một cái chung, một triết lý cụ thể nào đó. Nhưng có thể xác định được tác giả và thời gian xuất hiện của một hệ thống triết học cụ thể. Những triết lý, những cái chung phong phú và đa dạng đó tồn tại lâu đời trong cuộc sống của mỗi cộng đồng dân tộc, nhưng chúng chỉ có thể tồn tại bên cạnh nhau, phản ánh các mặt, các quá trình cụ thể của đời sống xã hội mà không thể tạo thành một hệ thống triết học có kết cấu lôgíc bên trong, như một lý thuyết hay hệ thống lí luận triết học. Chúng không thể có tính khái quát cao và tính hệ thống chặt chẽ như các hệ thống triết học bác học. Các triết lý đó nằm ngay trong văn hoá dân tộc, chúng không tách rời mà gắn chặt với văn hoá theo cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp, trong cả văn hoá vật chất lẫn văn hoá tinh thần. Chúng hoà vào văn hoá dân tộc và là một yếu tố cấu thành căn bản có ý nghĩa quyết định chiều sâu của văn hoá dân tộc. Ở một góc độ nhất định, có thể nói, các triết lý ấy chính là lớp trầm tích cô đọng của văn hoá dân tộc. Tuy không phải là toàn bộ nền văn hoá, nhưng chúng là yếu tố cốt lõi tạo nên chất lượng của nền văn hoá, làm cho văn hoá phong phú và sâu sắc hơn. Chính vì vậy, các triết lý là bộ phận cấu thành cốt lõi và quan trọng của văn hoá. Hơn nữa, trong mỗi nền văn hoá dân tộc, các triết lý thường gần gũi, gắn bó trực tiếp với đời sống thường ngày của con người, nó được truyền tải thông qua giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình; được con người tiếp thu qua kinh nghiệm, học hỏi ở bạn bè Mặt khác, các triết lý mới đạt tầm kinh nghiệm chứ chưa phải ở tầm trình độ lý luận. Do vậy, chúng dễ hiểu, dễ vận dụng, sát hợp với tâm thức, bản sắc, tính cách của cộng đồng và dễ đi sâu vào con người, dễ tiếp thu và định hướng hoạt động, giao tiếp của con người nhẹ nhàng hơn so với các nguyên lý lý luận. Văn hoá dân tộc là môi trường sống, nguồn nuôi dưỡng các hệ thống triết học bác học. Các hệ thống triết học bác học là sản phẩm trước hết của nền văn hoá dân tộc, chúng được tích tụ, chưng cất và thăng hoa qua tài năng nhận thức, suy tư và bản lĩnh của các triết gia. Không chỉ chất liệu của các hệ thống triết học bác học được tích tụ và trầm lắng, tinh luyện từ văn hoá mà cả năng lực nhận thức, suy tư và bản lĩnh cùng những phẩm chất khác của các triết gia sáng tạo nên các hệ thống triết học bác học cũng đều được nẩy mầm, nuôi dưỡng trong nền văn hoá dân tộc. Như vậy, văn hóa, triết lý và triết học của mỗi dân tộc có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành tư tưởng đặc trưng cho dân tộc đó. Vấn đề đặt ra đối với nước ta là: Việt Nam có một nền văn hoá rất lâu đời, một nền triết lý (chủ yếu là triết lý dân gian) rất sâu sắc và đặc sắc. Vậy, nước ta có tư tưởng triết học hay không? Trả lời câu hỏi đó về cơ bản có hai quan điểm khác nhau: Thứ nhất, Việt Nam không có triết học. Ở quan điểm này, các nhà lý luận cho rằng, Việt Nam không có các nhà triết học, không có các trường phái triết học cũng như không có các tác phẩm triết học. Vấn đề cơ bản của triết học, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình.... chưa được đặt ra và giải quyết. Nếu có những tư tưởng triết học nào đó, thì nó cũng hoà lẫn trong văn, sử hoặc tôn giáo. Thậm chí có quan điểm còn cho rằng, người Việt Nam chỉ biết tiếp thu, sao chép những tư tưởng từ bên ngoài và sử dụng cho phù hợp với thực tế đất nước, chứ không có sáng tạo gì thêm. Thứ hai, Việt Nam có triết học. Tôi đồng ý với quan điểm này. Mặc dù ở Việt Nam không có các triết gia lỗi lạc, không có các trường phái triết học tiêu biểu. Vấn đề cơ bản của triết học, duy vật, duy tâm, khả tri, bất khả tri hay biện chứng và siêu hình cũng chưa được đặt ra một cách rõ ràng và sáng tỏ. Song, khi đặt vấn đề rằng phải có các triết gia, phải đưa ra và giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. mới xét tới một dân tộc nào đó có triết học hay không, thì e rằng đó là cách xem xét không biện chứng. Bởi vì, khi xét nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội về sự ra đời của triết học, cũng như xem xét các chức năng cơ bản của triết học, như chức năng thế giới quan, chức năng phương pháp luận, chức năng nhân sinh quan của triết học thì Việt Nam hoàn toàn có triết học. Vấn đề đặt ra ở đây là, sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của triết học Việt Nam thông qua những hình thức đặc thù như thế nào? Trước khi xuất hiện triết học Mác – Lênin, ở Việt Nam đã có truyền thống văn, sử, tôn giáo bất phân. Bởi vậy, ở Việt Nam không có triết học với tư cách là một bộ môn khoa học độc lập hiểu theo nghĩa hiện đại, mà chỉ có những tư tưởng hay học thuyết triết học nằm trong các cuốn sách về văn, sử hay tôn giáo. Nếu xét ở góc độ những vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của triết học hiện nay thì quả thật ở Việt Nam, khía cạnh này rất mờ nhạt. Nếu theo tiêu chí của một nền triết học là phải có triết gia, triết thuyết và trường phái thì Việt Nam không có một nền triết học nào. Suốt mấy thập kỷ qua, quan niệm này chiếm ưu thế trong đánh giá hoạt động văn hóa tinh thần của đất nước. Tuy nhiên, một số học giả, một số nhà nghiên cứu vẫn khẳng định rằng, dân tộc Việt Nam có một nền văn hiến riêng, trong đó chứa đựng một sắc thái tư tưởng không giống với các nền triết học và văn minh lớn lân cận. Sự nghiên cứu tư tưởng dân tộc khiến việc khẳng định Việt Nam có tư tưởng triết học dần dần trở nên tự tin hơn. Đến nay, có xu hướng cũng cho rằng, chúng ta không chỉ có những tư tưởng triết học, mà còn có cả những học thuyết triết học theo đúng nghĩa của nó. CHƯƠNG II: NGUỒN GỐC, ĐỐI TƯỢNG VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM: 2.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng triết học Việt Nam: Như chúng ta đã biết, triết học ra đời với hai nguồn gốc: nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. 2.1.1. Về nguồn gốc nhận thức: Triết học với tiêu chí như là một hệ thống những tri thức chung nhất của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy chỉ ra đời khi nhận thức của con người đạt tới một giới hạn nhất định. Đó là ở trình độ nhận thức lý luận. Điều đó cũng có nghĩa là khi ngôn ngữ đã phát triển tới giai đoạn có chữ viết. Ở Việt Nam, theo các nhà khoa học, cách nay bốn nghìn năm, vào thời kỳ Tiền Đông Sơn, thông qua các mối quan hệ với tự nhiên và xã hội, mà trước hết là hoạt động sản xuất, nhận thức của cư dân người Việt đã đạt đến trình độ tư duy trừu tượng. Những nhận thức này được biểu hiện thông qua kỹ thuật chế tác công cụ lao động bằng đá và bằng kim loại. "Do đó, chúng ta phải đánh giá cao hoạt động tư duy trừu tượng của cư dân Tiền Đông Sơn, mà trong một chừng mực nào đó, có thể gọi là tư duy khoa học của họ. Chính thứ tư duy chính xác đó được phát triển nhờ hoạt động sản xuất, nhưng nó lại có tác động ngược lại một cách tích cực với kỹ thuật sản xuất". Theo suy đoán, từ thời kỳ Đông Sơn về sau, đã hình thành các huyền thoại, hơn nữa có quan điểm còn cho rằng thời kỳ này cũng bắt đầu xuất hiện một hệ thống thần thoại khá ổn định. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, nền sản xuất nước ta cho tới nay vẫn là một nền sản xuất nhỏ, có nguồn gốc xa xưa từ chế độ công xã nông thôn kéo dài hàng ngàn năm và sự ảnh hưởng tiêu cực của nó tới nhận thức của dân tộc ta là không nhỏ. Những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, thói quen cục bộ, địa phương, tư tưởng đẳng cấp, địa vị, vô chính phủ, mê tín dị đoan cùng những phong tục, tập quán lạc hậu khác chính là vật cản đối với nhận thức lý luận. Đúng như C.Mác đã chỉ rõ: "Những công xã ấy đã hạn chế lý trí của con người trong những khuôn khổ chật hẹp nhất, làm cho nó trở thành một công cụ ngoan ngoãn của mê tín, trói buộc nó bằng những xiềng xích nô lệ của cái quy tắc cổ truyền, tước đoạt nó mọi sự vĩ đại, mọi tính chủ động lịch sử”. 2.1.2. Về nguồn gốc xã hội Gắn liền với nguồn gốc nhận thức là nguồn gốc xã hội. Triết học chỉ xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp, cũng như có sự xuất hiện đội ngũ trí thức. Tuy nhiên, với quan điểm lịch sử - cụ thể, nguồn gốc xã hội của triết học Việt Nam lại có những nét đặc thù của nó. Quá trình ra đời của triết học Việt Nam không gắn với sự xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp ở trong nước một cách rõ nét, mà chủ yếu là gắn với công cuộc chống ngoại xâm để giành và giữ độc lập dân tộc. Thời kỳ Bắc thuộc bắt đầu bằng sự xâm lược của nhà Hán năm 110 trước công nguyên cho tới khi Ngô Quyền giành được độc lập vào năm 939. Trong thời gian này, kẻ thù đã tìm mọi cách để Hán hoá dân tộc ta, về tư tưởng là truyền bá Nho giáo. Những âm mưu thâm độc này đều bị nhân dân ta kiên quyết chống lại để bảo vệ nền văn hiến của mình. Cùng với Nho giáo còn có Phật giáo và Đạo giáo cũng được truyền vào nước ta. Sự tương tác của tam giáo này trên cơ sở những tư tưởng 'triết học của dân tộc Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn quật cường của đất nước, đã từng bước tạo nên tư tưởng triết học Việt Nam. "Cái quý giá” trong di sản ấy là trình độ nhận thức vững chắc về tự nhiên và xã hội, về cuộc sống đấu tranh chống thiên tai địch hoạ và mỗi tâm lý có bản sắc riêng thể hiện trong phong tục, nếp sống và sự ứng xử giữa mọi người. Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần chiến đấu dũng cảm để bảo vệ Tổ quốc và lật đổ ách thống trị của ngoại bang nhất giải phóng dân tộc như một ngọn lửa cháy trong di sản ấy". Thời kỳ xây dựng quốc gia độc lập thịnh vượng (thế kỷ X đến thế kỷ XV) là thời kỳ mà dân tộc ta đã giành được độc lập, tự chủ bằng xương máu của mình. Những thắng lợi vĩ đại của công cuộc dựng nước và giữ nước ấy được phản ánh sinh động và rực rỡ trong đời sống ý thức của dân tộc, trong đó tư tưởng triết học về dân, về con người, về dân tộc hay nói chung hơn, những tư tưởng triết học về xã hội, về thực tiễn giữ vai trò là trung tâm của nó và xuyên suốt về sau. Triết học Việt Nam tiếp tục được kế thừa, bổ sung và phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn dựng nước và giữ nước của dân tộc và đỉnh cao của sự phát triển ấy được toả sáng rực rỡ trong tư tưởng triết học của Chủ tịch Hồ Chí Minh. "Chính những tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh là kim chỉ nam chỉ đạo hệ thống những luận điểm cách mạng nổi tiếng của Người. Nó quyết định tính đúng đắn của đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vạch ra, là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Như vậy, xét về nguồn gốc ra đời, triết học Việt Nam hoàn toàn có cơ sở nhận thức và xã hội của nó. Việc tiếp tục tìm hiểu khái quát để làm rõ những nội dung phong phú, sâu sắc, trong tính chỉnh thể của nó, thiết nghĩ, đó là trách nhiệm cấp bách của các nhà lý luận. 2.2. Đối tượng của tư tưởng triết học Việt Nam Giới nghiên cứu đều thấy rằng, triết học phương Tây thường gắn với những thành tựu của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Còn triết học phương Đông thường gắn với tôn giáo (Ấn Độ), với chính trị -xã hội, đạo đức (Trung Quốc), những tư tưởng triết học Việt Nam thì gắn liền với công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Nói Việt Nam có tư tưởng triết học vì Việt Nam được xem là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, ngoài ra còn dựa trên một số căn cứ sau: Thứ nhất, Việt Nam có một khả năng tư duy khái quát phát triển rất sớm, biết rút ra những cái chung từ việc quan sát các hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người, nghĩa là biết tìm ra quy luật chung. Thêm nữa, Việt Nam biết lấy quá khứ để soi vào hiện tại, căn cứ vào hiện tại để định hướng cho tương lai; biết xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động phát triển... Thứ hai, Việt Nam có nhiều chiến công oanh liệt trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước, sau mỗi chiến công ấy đều có sự tổng kết để nâng lên thành lý luận. Chẳng hạn, tổng kết từ thời đại nọ sang thời đại kia, tổng kết từ thời loạn lạc, chiến tranh sang hoà bình, tổng kết sau khi khắc phục những thiên tai... Đó là những khái quát ít nhiều có tính triết học. Thứ ba, Việt Nam có sự giao lưu, tiếp biến với nhiều nền văn hóa thế giới: tiếp biến với nền văn hóa vĩ đại của Trung Hoa khi phong kiến phương Bắc vào xâm chiếm Việt Nam; tiếp biến với văn hóa Ấn Độ đồ sộ một phần do đạo Phật từ Ấn Độ du nhập sang, hoặc tiếp nhận đạo Kitô giáo qua cuộc xâm lược của thực dân phương Tây. Những tư tưởng triết học trên đây đó được Việt Nam tiếp nhận một cách có chọn lọc, sau đó bản địa hóa. Như vậy, đối tượng của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam là: - Nghiên cứu sự phát triển tư tưởng triết học bản địa qua hoạt động sống của con người: sản xuất, đấu tranh xã hội, đấu tranh với tự nhiên. - Nghiên cứu quá trình nội địa hóa những tư tưởng triết học bên ngoài qua sự giao lưu, tiếp biến với văn hóa phương Tây và văn hóa phương Đông. 2.3. Những nội dung cơ bản: 2.3.1.Tư tưởng về xây dựng và phát triển quốc gia phong kiến độc lập: - Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn: Thể hiện sự nhận thức chính trị căn bản và sâu sắc. Lý Công Uẩn gắn việc dời đô với việc dựng nước nhằm củng cố nền độc lập dân tộc. Dời đô nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn chứ không phải việc làm tùy tiện của cá nhân. Với chiếu dời đô Lý Công Uẩn đã khẳng định ý thức, tư tưởng về việc xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập. Việc dời đô về Thăng Long phản ánh yêu cầu phát triển mới của đất nước, chứng tỏ khả năng, lòng tin và quyết tâm của cả dân tộc giữ vững nền độc lập. - Năm 1054 vua Lý Nhân Tông cho đổi tên nước thành Đại Việt, điều đó thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc và ý thức bình đẳng sâu sắc - Bài thơ thần của Lý Thường Kiệt: Trong cuộc kháng chiến chống Tống quyết liệt - Nguyễn Trãi với bài Cáo Bình Ngô. - Lê Thánh Tông với việc ý thức về quốc gia dân tộc là việc cho vẽ bản đồ đất nước Việt Nam. 2.3.2. Tư tưởng yêu nước: Tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm là một nội dung chủ đạo trong đời sống xã hội thời kỳ xây dựng và phát triển quốc gia phong kiến độc lập. Nó được biểu hiện rất rõ trong tinh thần đoàn kết của quân dân ta trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược: - Đầu tiên, phải kể đến chiến thắng của Lê Hoàn (vua Lê Đại Hành) đánh tan quân xâm lược Tống tại cửa sông Bạch Đằng. - Khi nói đến chiến thắng quân xâm lược thời kỳ này không thể không nói tới ba lần chiến thắng quân Nguyên – Mông của quân dân nhà Trần với những chiến thắng đã đi vào vào lịch như Bạch Đằng, Chương Dương, Đông Bộ Đầu - Và một chiến thắng không thể không nói tới trong giai đoạn này đó là thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh tan quân xâm lược Minh, giành lai độc lập tự do, đưa đất nước ta bươc vào một giai đoạn phát triển mới. Giai đoạn phát triển cực thịnh của nhà nước phong kiến độc lập ở Việt Nam. Đây là những bằng chứng hùng hồn nói lên tinh thần yêu nước của quân dân Đại Việt, những chiến công chống giặc ngoại xâm oanh liệt khiến cho lòng tự hào dân tộc được bồi đắp, niềm tin vào tương lai của dân tọc được khẳng định, nhận thức mới về sự tồn tại phát triển của đất nước được nâng lên. 2.3.3. Tư tưởng thân dân: Tư tưởng thân dân được hình thành và phát triển là một yếu tố góp phần làm tăng thêm sức mạnh của các triều đại phong kiến Việt Nam. - Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn: Ông đã rất chú trọng đến ý dân, lòng dân khi tiến hành các hoạt động chính trị. Để thực hiện việc dời đô ông nói: trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân. - Các vị vua nhà Trần: tiêu biểu là vua Trần Minh Tông “hết thảy dân sinh đều là đồng bào của ta, nỡ lòng nào ta để cho bốn bể khốn cùng”. Dưới triều Trần những nông nô, nô tỳ có công đánh giặc như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão đều được đánh giá rất cao và đều trở thành những tướng cầm quân giỏi. Đây là tư tưởng tiến bộ mang tính nhân văn sâu sắc. Nó phản ánh sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam khi lợi ích giai cấp thống trị còn gắn với lợi ích quốc gia dân tộc và không đối kháng gay gắt với lợi ích của dân chúng. Tuy nhiên, tư tưởng này vẫn còn bị hạn chế bởi thế giới quan của giai cấp địa chủ phong kiến, người dân lao động chưa được nhìn nhận và đánh giá đầy đủ, họ chỉ được coi là thứ dân, là dân đen, là bậc tiểu nhân mà thôi. 2.3.4.Tư tưởng đạo đức: Việc xây dựng và phát triển nhà nước phong kiến đòi hỏi phải có ý thức hệ phong kiến trong đó có ý thức đạo đức. Lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng, giai cấp phong kiến đặc biệt đề cao tư tưởng về trung, nghĩa, hiếu, nhân xem đó là những đức tính cơ bản của con người. Và tư tưởng đạo đức ở giai đoạn này trên lập trường tư tưởng Nho giáo đạt đến đỉnh cao ở Nguyễn Trãi. Ông không quan niệm trung quân một cách máy móc giáo điều khô cứng như quan niệm của Tống Nho là: Quân xử thần tử thần bất tử bất trung. Mà ông biết đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Khi nhà Hồ không còn đại diện cho quyền lợi của quốc gia dân tộc thì ông đã phò Lê Lợi cứu nước. Không phải nhà Nho nào thời bấy giờ cũng có lập trường, quan điểm tiến bộ và làm được như ông. 2.3.5.Tư tưởng tôn giáo: - Phật giáo: sau gần 10 thế kỷ du nhập vào nước ta đến nay có điều kiện phát triển. Đây là giai đoạn phát triển cực thịnh của phật giáo Việt Nam, đặc biệt là dưới triều Lý – Trần, phật giáo đã trở thành quốc giáo. Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng và lớn mạnh trong đời sống xã hội lúc bấy giờ. Các nhà sư đồng thời cũng là những nhà trí thức của xã hội và cũng là những trụ cột của triều đình. Nhưng phật giáo dần mất vị trí của mình trong đời sống xã hội bắt đầu từ cuối thời Trần và nó đã nhường dần vị trí của mình trên vũ đài chính trị cho nho giáo. Song nó vẫn được phát triển trong đời sống của nhân dân, của xã hội , nó vẫn song hành cùng tồn tại với nho giáo và đạo giáo. - Nho giáo: Với tư cách là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, được coi là nguyên tắc, khuôn mẫu soi sáng cho hoạt động quản lý xã hội của các vương triều phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X – XV. Nho giáo du nhập vào Việt Nam cùng với bước chân của quân xâm lược phương Bắc từ những năm đầu công nguyên, nhưng chính vì nó theo bước chân của quân xâm lược vào nước ta và nó chủ yếu là công cụ thống trị của giai cấp cầm quyền nên nó đã không thể phát triển mạnh được tại nước ta. Mà mãi đến thế kỷ 10 nó mới bắt đầu được các triều đình phong kiến Việt Nam chú ý phát triển và nó phát triển cực thịnh trở thành quốc giáo của Việt Nam vào thế kỷ 15 dưới thời Lê sơ và đạt được những thành tựu rực rỡ nhất dưới triều đại vua Lê Thánh Tông. Nho giáo đề cao những qui tắc đạo đức hướng xã hội vào khuôn phép, trật tự phong kiến với phương châm: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. - Đạo giáo: Cùng với phật giáo, nho giáo đạo giáo cũng có vị trí khá quan trọng trong đời sống xã hội. Nếu phật giáo giúp con người rõ lẽ sinh tử, hướng tới tự do tuyệt đối. Nho giáo giúp con người đạt được danh vọng thì đạo giáo đề cao cá nhân, góp phần giải tỏa những bức xúc tâm lý trong con người. Thường lúc trẻ người ta tìm đến nho giáo mong đường công danh, lúc về già hoặc lúc không gặp thời, thất thế người ta tìm đến với đạo giáo sống cảnh an nhàn. Đạo giáo ảnh hưởng khá sâu sắc tới nhiều tầng lớp trong xã hội kể cả những người đã theo phật giáo, đạo giáo. Tư tưởng tôn giáo là một yếu tố tạo nên kiến trúc thượng tầng xã hội phong kiến, là một thành tố của văn hóa, tư tưởng tôn giáo còn góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Đại Việt. Nó phản ánh một giai đoạn lịch sử đầy hào hùng và oanh liệt trong sự nghiệp xây dựng quốc gia độc lập tự chủ 2.3.6. Tư tưởng Hồ Chí Minh: a. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. - Thứ nhất: Bằng việc đặt ra câu hỏi và trả lời câu hỏi “chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì?”, trên cơ sở tiếp cận chủ nghĩa Mác-Lênin từ các phương diện đạo đức, văn hóa, xã hội,.. tùy vào các đối tượng người Việt Nam khác nhau, các góc độ xem xét và mục đích của mỗi Hội nghị khác nhau, mà Hồ Chí Minh đưa ra nhiều định nghĩa về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ những quan điểm cụ thể khác nhau ấy của Người về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có thể khái quát những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vào những năm 60 của thế kỷ XX theo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là: Một: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một chế độ chính trị mà ở đó mọi quyền làm chủ đều thuộc về nhân dân. Hai: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, với lực lượng sản xuất tiên tiến hiện đại và khoa học kĩ thuật tiên tiến hiện đại, dần xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất để thực hiện chế độ công hữu đối với tư liệu sản xuất. Ba: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là giai đoạn xã hội phát triển cao hơn CNTB về văn hóa, đạo đức. Bốn: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mới chỉ là một xã hội thực hiện công bằng hợp lý. Năm: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ấy chứa đựng trong đó một hệ thống các giá trị đặc thù, mà giá trị trung tâm là con người với các nhu cầu lợi ích của nó. Con người là mục tiêu phát triển. Chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là xã hội của con người, vì con người, chế độ xã hội đó mang bản chất dân chủ, nhân đạo trong tiến trình vận động xã hội loài người. Thứ hai, khi trả lời cho câu hỏi “Làm gì để có chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?”, Hồ Chí Minh đã xác định những mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là: Một: phải xây dựng cho được Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hai: phải xây dựng một nền kinh tế công - nông nghiệp tiên tiến hiện đại, khoa học và kĩ thuật tiên tiến hiện đại, trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được xóa bỏ dần, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ngày càng được cải thiện Ba: phải xây dựng ngay lập tức và đi trước một bước là nền văn hóa mới XHCN ở Việt Nam. Bốn: phải thực hiện ngay nguyên tắc “làm tùy sức hưởng theo lao động”, đồng thời thiết lập quỹ phúc lợi công cộng để điều tiết thu nhập cho toàn dân. Năm: phải lấy của dân, tài dân, sức dân mà làm lợi cho dân. Thứ ba, khi trả lời cho câu hỏi “Làm gì để có chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Hồ Chí Minh đồng thời đã chỉ ra các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: Một: Động lực hiểu theo nghĩa rộng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sử dụng đồng bộ các đòn bẩy về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,.. kích thích tính tích cực của người lao động. Ở nghĩa rộng, Người nhấn mạnh hai nội dung: tính đồng bộ trong sử dụng các đòn bẩy và trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý trong sử dụng đòn bẩy. Hai: Động lực hiểu theo nghĩa hẹp trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề con người. Động lực con người với tư cách là con người cộng đồng, Người nhấn mạnh đó là Đại đoàn kết toàn dân tộc. Động lực con người với tư cách là con người cá nhân, Người khẳng định đó là con người mới XHCN. b. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Thứ nhât: Nếu điễn đạt như Mác, Ăngghen và Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, thì Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa và phong kiến tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Người khẳng định tính chất của nó là cuộc đấu tranh một mất một còn giữa CNXH và CNTB ở Việt Nam. Tư tưởng này với thực tiễn đưa miền Bắc lên CNXH, Hồ Chí Minh không chỉ trung thành, mà đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện Việt Nam, làm cho lý luận quá độ gián tiếp lên CNXH theo hình thức thứ hai của Lênin đầu tiên trở thành hiện thực. Thứ hai: Trong điều kiện giáo điều, người ta đã quên lời dạy của Lênin “Không có CNXH giống nhau cho mọi dân tộc, chỉ có CNXH phù hợp với từng dân tộc”, bắt cả thế giới phải tuân thủ một “mô hình CNXH”, Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội có mục tiêu, nguyên lý chung giống nhau, nhưng mỗi nước có đặc điểm lịch sử cụ thể khác nhau nên phương thức, biện pháp, bước đi cách làm khác nhau. Người nhắc nhở, việc học tập những kinh nghiệm nước ngoài là rất cần thiết. Nhưng Người cũng nhấn mạnh: “Ta không thể không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác” . Làm khác, thậm chí làm trái với Liên Xô, ta vẫn là mac-xit. Tư tưởng này và thực tiễn cách mạng Việt Nam của Người, chứng minh sự đúng đắn, khoa học của tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và đổi mới của Người. Thứ ba: Hồ Chí Minh là người đầu tiên ở phương Đông chủ trương xây dựng CNXH với nền kinh tế nhiều thành phần. Thứ tư: Hồ Chí Minh là người đầu tiên trên thế giới chủ trương chia nhỏ thời kỳ quá độ lên CNXH thành nhiều bước đi. Theo Người, quy mô, trình độ, tốc độ của mỗi bước đi phải tùy thuộc vào thành tựu của quá trình CNH, HĐH đất nước ở mỗi thời kỳ. Thứ năm: Xuất phát từ trình độ rất thấp của Việt Nam, mà Người đã chỉ ra tầm quan trọng to lớn của quyết tâm dân tộc khi thực hiện mục tiêu CNXH. Người từng dạy, làm CNXH ở Việt Nam thì “mục tiêu là một, biện pháp phải mười và quyết tâm phải hai mươi”. Thứ sáu: Theo Hồ chí Minh muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải đảm bảo 4 nguyên tắc: Một: Phải đảm bảo một cách tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai: Phải nâng cao trình độ, năng lực quản lý nhà nước đối với toàn xã hội. Ba: Phải mở rộng và tăng cường hoạt động chủ động và tích cực có hiệu quả của các tổ chức chính trị quần chúng. Bốn: Phải đào tạo đủ đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của lịch sử. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam trên đây, là sản phẩm của sự kết tinh những giá trị truyền thống tốt đẹp của Việt Nam với tinh hoa văn hóa của nhân loại trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin, là sự phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin bằng trí tuệ uyên thâm về nhiều lĩnh vực của Hồ Chí Minh trong điều kiện mới. CHƯƠNG III. ĐẶC ĐIỂM CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM: 3.1. Những tư tưởng khác nhau về tư tưởng triết học Việt Nam: Có quan điểm cho rằng tư tưởng triết học Việt Nam là bản sao chép rời rạc, là sự thu nhỏ của triết học Ấn Độ và Trung Quốc. Theo họ, dân tộc Việt Nam có tính thực dụng cao, chỉ biết tiếp thu, chế biến các hệ thống tư tưởng, tôn giáo cho phù hợp với mình, chứ không có sự sáng tạo. Đó là sự thực của lịch sử tư tưởng chính thống Đại Việt . Rồi ngay cả tín ngưỡng, tâm linh của người Việt cũng nhẹ nhàng mà không sâu. Rằng, người Việt đại thể là thông minh, nhưng không mấy ai có trí tuệ lỗi lạc phi thường, có chăng thì chỉ giàu khả năng nghệ thuật hơn khoa học, giàu trực giác hơn luận lý, óc sáng tạo ít, nhưng bắt chước, thích ứng, dung hòa thì tài , v.v.. Tựu trung lại, quan điểm này phủ nhận tư tưởng triết học bản địa. Quan điểm khác cho rằng, ở Việt Nam chỉ có lịch sử tư tưởng nói chung, chứ không có lịch sử tư tưởng triết học. Nếu có tư tưởng triết học thì chỉ là những triết lý, chứ không gọi là tư tưởng triết học. Xu hướng này tuyệt đối hóa tính hệ thống của triết học. Trên thực tế, nhiều nhà tư tưởng của thế giới cổ đại cũng chỉ đưa ra các câu châm ngôn, các triết lý nhân sinh, khái quát một số hiện tượng nào đó của tự nhiên chứ không phải ai cũng xây dựng được các hệ thống tư tưởng, quan điểm hoàn chỉnh như các nhà triết học nổi danh hàng đầu, tiêu biểu như Platôn, Arítxtốt... Trên thế giới, những quốc gia có nền triết học phát triển thì việc tìm ra những đặc thù của nó là cần thiết. Ngay cả khi nó tồn tại dưới dạng triết học thì cũng phải nói lên sự khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác, và dân tộc nào cũng có cái gọi là tư tưởng triết học. Như vậy, việc nghiên cứu tư tưởng triết học Việt Nam là rất cần thiết. 3.2. Một số đặc điểm tư tưởng triết học Việt Nam : Thứ nhất, tư tưởng triết học Việt Nam gắn với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Như chúng ta đã khẳng định, nếu như triết học phương Tây thường gắn với những thành tựu của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên, triết học Ấn Độ thường gắn với tôn giáo, triết học Trung Quốc gắn với chính trị -xã hội, đạo đức thì những tư tưởng triết học Việt Nam gắn liền với công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Do ảnh hưởng của phương thức sản xuất châu Á, nên ở Việt Nam không có sự phát triển của khoa học tự nhiên, không có sự phát triển thương mại (sĩ – nông – công - thương), không có tiền đề ra đời của chủ nghĩa tư bản. Điều đó làm cho chế độ phong kiến kéo dài. Cuối cùng, thế giới quan triết học, tư tưởng triết học Việt Nam luụn cú tớnh chất phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của triết học Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, những vấn đề về chính trị, xã hội bao gồm hệ thống những quan điểm lý luận về dựng nước, đánh giặc giữ nước, dân giàu nước mạnh. Phạm trù "nước", xét trên bình diện triết học, là những cộng đồng người, là dân tộc, quốc gia. Do đó, yêu nước trong tư tưởng triết học chính là ý thức trách nhiệm với giống nòi, với cộng đồng dân tộc được khái quát thành lý luận. Tính đặc thù của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là tinh thần đoàn kết, tinh thần bảo vệ bờ cõi lãnh thổ, bản sắc văn hoá dân tộc. Nó cũng chính là chiếc lăng kính, bộ lọc để các hệ tư tưởng du nhập tè bên ngoài đi qua. Nghiên cứu đặc điểm Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo ở Việt Nam sẽ thấy rõ điều đó. Trong quá trình giao lưu với văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ và phương Tây, tư duy triết học Việt Nam có nền tảng tư duy bản địa mạnh vẫn giữ vai trò chủ thể để tiếp biến văn hoá ngoại lai. Chẳng hạn, Phật giáo Ấn Độ có tính vô vi xuất thế, còn Phật giáo Việt Nam lại hữu vi nhập thế, nghĩa là nhà chùa có ruộng có vườn, nhập thế cùng thế gian làm việc. Phật giáo trước khi vào Việt Nam thì vô ngã, nghĩa là không có cá nhân, không có cái tôi. Nhưng, khi vào Việt Nam, nó biến hiện thành sức mạnh cá nhân và phải được nhập vào sức mạnh cộng đồng. Đạo giáo ở Trung Quốc gắn với tầng lớp quan lại, trí thức thất thế, từ bỏ chốn quan trường, xa lánh chính trị, trở về sống gần gũi với thiên nhiên, về "cái bồng lai thiên cảnh". Nhưng, khi vào đến Việt Nam thì con người lại gắn với trời đất, thần thánh đạo giáo để giáo dục đạo đức xã hội, ổn định gia đình, gắn gia đình với cộng đồng. Tư tưởng chủ đạo của Nho giáo vốn là đức trị, nhân trị, lễ trị. Do đó, có sự bất bình đẳng về giai cấp, thế hệ, giới tính. Nhưng, khi vào Việt Nam, những chuẩn mực đó đó nhoà vào thiết chế cộng đồng làng xã. Người Việt ứng xử theo kiểu: "phép vua thua lệ làng", tính đẳng cấp có, nhưng không khắt khe. Văn hoá Nho là một loại văn hoá mạnh, đồ sộ và choáng ngợp; do đó, trong nhiều thời kỳ, nó áp đặt văn hoá cho các dân tộc khác. Tuy nhiên, Nho giáo sang Việt Nam lại biến đổi. Do tính bản địa mạnh nên tư duy người Việt không bị đồng hoá. Bằng chứng là nhà Minh đô hộ nước ta 20 năm, và trong từng ấy năm chúng tìm nhiều cách để áp đặt văn hoá Hán (như đốt sách vở, di tích...), nhưng khi chiến thắng quân Minh, người Việt đó tự giải phóng khỏi sự áp đặt ấy và tự xây dựng mô hình văn hoá của mình. Triết học Việt Nam coi trọng những vấn đề về xã hội và nhân sinh, coi nhẹ những vấn đề về tự nhiên, tức là chú trọng xây dựng các vấn đề lý lẽ trong chính trị - xã hội và luân lý, giáo dục đạo làm người. Thứ hai, tư tưởng triết học Việt Nam có khuynh hướng trội là đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan. Trong khi triết học phương Tây đi từ thế giới quan đến nhân sinh quan thì ở Việt Nam, vấn đề trung tâm, hang đầu là vấn đề con người, đạo lý làm người, tức nhân sinh quan; sau đó các nhà tư tưởng mới đi tìm cách lý giải, đặt cơ sở cho những vấn đề tạo nên thế giới quan. Điều này bị quy định bời phương thức sản xuất châu Á. Thứ ba, tư tưởng triết học Việt Nam không có tính hệ thống cao. Vì đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan nên tư tưởng triết học Việt Nam phát triển từ những ý niệm thô sơ, chất phác về nhân sinh lên trình độ lý luận về nhân sinh và vũ trụ; bởi vậy dường như nó có vẻ thiếu tính hệ thống chặt chẽ, thường là cải biến nội dung các khái niệm trong các học thuyết du nhập từ bên ngoài. Hệ thống khái niệm, phạm trự triết học trong tư tưởng triết học Việt Nam cùng loại với triết học Trung Quốc, Ấn Độ (triết học Phương Đông), tuy nhiên vẫn có sự dị biệt. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu phải làm rõ sự dị biệt đó. Thứ tư, Trong tư tưởng triết học Việt Nam việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học rất mờ nhạt, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm dường như không rõ rang. Vì đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan nên vấn đề cơ bản của triết học rất mờ nhạt: quan hệ giữa vật chất và ý thức, tư duy và tồn tại, tinh thần và giới tự nhiên không trải ra trên mọi vấn đề. Tư tưởng triết học Việt Nam không phân chia thành trường phái, hoặc không thể phân chia theo các vấn đề: bản thể luận, nhận thức luận, nhân loại luận. Hình thái đấu tranh giữa duy vật và duy tâm không phân tuyến, không trực diện, không rõ ràng mà thường thể hiện qua hình thái đấu tranh giữa khách quan và chủ quan, giữa vô thần và hữu thần, dân chủ và chuyên chế, độc lập và lệ thuộc. Trong đó, lực lượng tiến bộ thường đại diện cho các khuynh hướng khách quan, vô thần, dân chủ, độc lập; còn lực lượng bảo thủ thì đại diện cho các khuynh hướng chủ quan, hữu thần, chuyên chế, lệ thuộc. Vì vậy, trong tư tưởng triết học Việt Nam vẫn có tính đảng. Thứ năm, tư tưởng triết học Việt Nam trên bình diện bác học hơi nghiêng về hướng nội, duy tâm, lấy trạng thái tinh thần để giải thích hiện tượng bên ngoài: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Còn trên bình diện dân gian, nó lại mang màu sắc duy vật chất phác. Các nhà tư tưởng Việt Nam thường xuất phát từ những định đề có sẵn hơn là từ sự phát triển khách quan để khái quát thành lý luận. Mặc dù đã có nhiều lần tổng kết lịch sử, nhưng vẫn chủ yếu xuất phát từ những định đề có sẵn; do đó, thường phạm vào những sai lầm, như rập khuôn, giáo điều, chủ quan, kinh nghiệm, cảm tính. Suy nghĩ của người Việt thường gắn liền với một tín ngưỡng, một tôn giáo đa thần với các thần sông, thần núi, v.v.; từ đó, đi tới thần thánh hoá các nhân vật lịch sử, những người có công với làng, với nước. Thứ sáu, phương pháp biện chứng trong tư duy triết học Việt Nam hơi nghiêng về thống nhất khác với phương Tây nghiêng về đấu tranh; quan niệm về vận động, phát triển của tư duy triết học Việt Nam là hình dung theo vòng tròn còn trong triết học phương Tây thì vận động, phát triển theo đường xoáy trôn ốc. KẾT LUẬN Tóm lại, việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam được nhiều học giả quan tâm. Vì vậy, ở nước ta, xung quanh lĩnh vực này đã có không ít các cuộc hội thảo, các công trình ở mức độ khác nhau đề cập đến, đặc biệt là vấn đề lý luận và phương pháp luận mà cho đến nay, vẫn còn là những vấn đề tranh luận. Về mặt lý luận, đó là việc có hay không có tư tưởng triết học Việt Nam? Nếu có thì ở mức độ nào, và các tư tưởng đó có được trình bày như một học thuyết, một hệ thống triết học hay không? Hầu hết các ý kiến đều thống nhất rằng, nước ta không có các học thuyết triết học được trình bày một cách có hệ thống, nhưng tư tưởng triết học thì chắc chắn là có. Việc khẳng định có tư tưởng triết học trong lịch sử tư tưởng nước ta, trước hết, dựa trên quan niệm duy vật về cho lịch sử cho rằng ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, sự phản ánh đó, trong những hoàn cảnh đặc biệt, đã trở thành những phản tư triết học trước tồn tại xã hội với nhiều sự kiện quan trọng. Vấn đề phương pháp luận chỉ được đề cập tới sau việc khẳng định nói trên; tức là, khi các nhà nghiên cứu khẳng định có tư tưởng triết học thì đương nhiên, khẳng định cả hình thức, đối tượng của các tư tưởng đó. Phương pháp luận của việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam cần cụ thể hoá, chính xác hoá đối tượng nghiên cứu và cách tiếp cận đối tượng đó. Các vấn đề nguồn gốc, đối tượng và đặc điểm của tư tưởng triết học Việt Nam nêu trên chỉ là những nghiên cứu ban đầu đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và làm rõ. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình triết học, Nxb. Chính trị quốc gia-sự thật, Hà Nội, 2013 Website: Website:
File đính kèm:
- tieu_luan_tu_tuong_triet_hoc_viet_nam.docx