Tiểu luận Vấn đề Campuchia trong chính sách đối ngoại Việt Nam - ASEAN giai đoạn 1986-1991

doc 14 trang yenvu 20/09/2024 110
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Vấn đề Campuchia trong chính sách đối ngoại Việt Nam - ASEAN giai đoạn 1986-1991", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Vấn đề Campuchia trong chính sách đối ngoại Việt Nam - ASEAN giai đoạn 1986-1991

Tiểu luận Vấn đề Campuchia trong chính sách đối ngoại Việt Nam - ASEAN giai đoạn 1986-1991
Lời mở đầu
Sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi đầy đủ tầm cỡ của những điều khủng khiếp do Khơ-me đỏ gây ra đối với nhân dân Campuchia. Chẳng bao giờ có thể đếm hay phân loại xuể hàng triệu những bộ xương và đầu lâu vô danh dưới những hố chôn người và những nấm mồ tập thể. Ban lãnh đạo Khơ-me đỏ đã phạm phải những tội ác gần như có một không hai trong lịch sử đối với chính nhân dân của họ. Mọi tội ác của bọn Quốc xã đều được Khơ-me đỏ lặp lại “có sáng tạo”, phát minh thêm nhiều cái mới. Hitler, Gơ-rinh, Gơ-ben và những tên Đức quốc xã khác đều là những tên quỷ sứ, hiện thân của những gì được cho là tột cùng của “cái ác” trong thời đại chúng ta. Thế nhưng, tội ác của chúng vẫn chưa thấm tháp vào đâu nếu đem so với những tội ác của Khơ-me đỏ do bọn Pol Pot, Iêng Xa-ry và Khiêu Xăm-phon cầm đầu.
 Với tình đoàn kết tương trợ được hình thành lâu đời, cùng với yêu cầu giúp đỡ của nhân dân Campuchia, Việt Nam đã đưa quân đội của mình sang Campuchia giúp nước bạn thoát khỏi nạn diệt chủng và ổn định tình hình trong nước .
Tuy nhiên, không dừng lại ở đó, “vấn đề Campuchia” đã bị quốc tế hóa do có sự nhúng tay của nhiều nước trên thế giới. Họ vin vào việc Việt Nam giữ lại quân đội của mình từ 1979 đến 1989 trên đất Campuchia để buộc tội xâm lược cho Việt Nam và thực hiện chính sách cấm vận cùng các hành động chống phá khác. Không phải ngoại lệ, các nước ASEAN cũng nhìn Việt Nam dưới con mắt đầy nghi kỵ. Mười năm làm nghĩa vụ quốc tế với Campuchia khiến quan hệ Việt Nam – ASEAN ít có tiến triển. Các nước ASEAN yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi Campuchia như điều kiện tiên quyết cho một giải pháp chính trị về Campuchia và cải thiện quan hệ, bình thường hóa với Việt Nam. Như vậy, “vấn đề Campuchia” chính là rào cản cơ bản trong quan hệ giữa Việt Nam va ASEAN trong giai đoạn này.
Đứng trước những thay đổi và yêu cầu khách quan có tính bước ngoặt, giai đoạn 1986 - 1991 có thể coi là giai đoạn khó khăn của Việt Nam, đặt Việt Nam trước yêu cầu cấp thiết cần đổi mới để tồn tại, phát triển kinh tế và thoát khỏi thế bao vây cấm vận. Xây dựng quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng khu vực, chuyển từ đối đầu sang đối thoại với các nước ASEAN như nội dung Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị được coi là chính sách xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Giải quyết được vấn đề Campuchia chính là điểm mấu chốt giúp ta thực hiện được chính sách đã đặt ra đồng thời đẩy nhanh quá trình hợp tác, đưa chính sách đối ngoại với ASEAN trở thành hiện thực.
Bài tiểu luận “Vấn đề Campuchia trong chính sách đối ngoại của Việt Nam - ASEAN” đi vào luận giải cho câu hỏi “Nếu vấn đề Campuchia không tồn tại, quan hệ Việt Nam – ASEAN sẽ đi theo hướng nào?” Do tính chất phức tạp của vấn đề cũng như nhận thức còn hạn chế nên chúng em chưa thể lý giải trọn vẹn được. Chúng em rất mong nhận được sự góp ý, chỉnh sửa của cô giáo!
Sơ lược chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN giai đoạn trước 1986
Việt Nam - ASEAN đã trải qua một giai đoạn vô cùng căng thẳng trước năm 1986 xoay quanh những nghi kỵ hoặc về ý thức hệ, hoặc về vấn đề Campuchia.
Cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi năm 1975 làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho Chủ nghĩa xã hội. Điều này tất yếu dẫn tới những tác động mạnh mẽ đến các nước trong khu vực.
Thời gian này ta coi ASEAN là phản động, chống Cộng, là một SEATO khác - một tổ chức quân sự trá hình. Đánh giá như vậy là hoàn toàn có cơ sở. Đất nước mới bước ra từ cuộc chiến khốc liệt, tư duy thời chiến vẫn còn tồn tại. Trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, một số nước ASEAN cũng tham chiến, đứng về phía Mỹ: Thái Lan có đến hai sư đoàn bộ binh; Philipine có hai nghìn công dân vụ; đồng thời hai nước này lại có căn cứ quân sự phục vụ Mỹ; Singapore là nơi tiếp liệu, nghỉ ngơi; còn Malaysia là nơi huấn luyện cảnh sát Ngụy. Vì những điều đó, hi vọng một cách nhìn khác với ASEAN vào thời điểm này là điều không hề dễ dàng.
Phía ASEAN cũng vậy. Họ không yên tâm về chiến lược của Việt Nam với các nước trong khu vực. Do chiến tranh lạnh cùng với sự chi phối mạnh mẽ của nhân tố ý thức hệ, ASEAN cùng với Mỹ, Nhật, Trung Quốc đều muốn làm suy yếu Việt Nam, Đông Dương và hạn chế ảnh hưởng của Liên Xô. 
Trên cơ sở đó, đại hội IV đã đề ra chính sách: “Hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Đông Nam Á vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và trung lập thật sự và không có quân đội đế quốc trên đất nước mình, sẵn sàng thiết lập và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực này.” (VKĐH IV)
Phía Việt Nam nêu ra bốn nguyên tắc trong quan hệ với ASEAN vào ngày 25 tháng 7 năm 1976:
Một, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình.
Hai, không để lãnh thổ của mình cho bất cứ nước nào sử dụng lập căn cứ xâm lược và can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào nước kia và các nước khác trong khu vực.
Ba, thành lập quan hệ hữu nghị láng giềng tốt, hợp tác kinh tế và trao đổi văn hóa trên cơ sở cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tranh chấp giữa các nước trong khu vực thông qua thương lượng theo tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.
Bốn, phát triển hợp tác trong khu vực theo điều kiện riêng của mỗi nước vì lợi ích của độc lập, hòa bình, trung lập thật sự ở Đông Nam Á, góp phần vào sự nghiệp hòa bình thế giới.
Trong quá trình triển khai, Singapore thể hiện thái độ phản ứng gay gắt về bốn chữ: “Trung lập thật sự”. Chính quyền các nước ASEAN cũng ngại ý đồ lâu dài của Việt Nam, ngại Việt Nam sẽ sử dụng lực lượng vũ trang, du kích hay dùng chiến thuật “đánh-đàm”. Về phía Việt Nam, ta cũng tuyên bố rõ ràng rằng sẽ không ủng hộ các Đảng Maoist.
Bước sang giai đoạn 1979 - 1986, vấn đề Campuchia xuất hiện, khiến cho những bất đồng, nghi ngại tồn tại trong quan hệ Việt Nam - ASEAN trước đó càng thể hiện rõ ràng hơn.
 Việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia tạo ra rất nhiều ánh nhìn không thiện cảm từ phía quốc tế. Lúc này, ASEAN cũng chia làm hai chiều quan điểm. Indonesia và Malaysia không thể hiện sự phản đối gay gắt như Thái Lan và Singapore. Họ muốn có một Việt Nam vững mạnh và ổn định như là một đồng minh tiềm năng, hoặc ít nhất là một bộ đệm chống lại sự bành trướng của Trung Quốc. Tuy nhiên, từ năm 1980, sự khác biệt về quan điểm trong các nước ASEAN đã bị gạt sang một bên, khi quân đội Việt Nam vượt biên giới vào Thái Lan. Các ngoại trưởng ASEAN lên án đó là một “hành động xâm lược” và tái khẳng định sự ủng hộ của họ đối với nghị quyết của Liên Hợp Quốc về việc yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi Campuchia.
Giai đoạn 1979-1986, mục tiêu của ASEAN là ngăn Việt Nam mở rộng ảnh hưởng sang khu vực; giữ Campuchia trung lập, cân bằng phe phái và lợi ích giữa các nước lớn; Việt Nam rút quân và đi vào giải pháp chính trị. Để thực hiện mục tiêu đó, các nước ASEAN áp dụng tất cả các biện pháp về ngoại giao, chính trị và kinh tế. Họ ủng hộ chính phủ ba phái. Thái Lan giúp đỡ Khome đỏ, viện trợ lương thực, đất Thánh. Từ tháng 3/1980, ASEAN áp dụng công thức Kuantan với nội dung là Đông Nam Á hòa bình, cần giải pháp chính trị, có tính tới lợi ích chiến lược của Việt Nam; Việt Nam độc lập với Liên Xô, Trung Quốc; Campuchia trung lập hóa; Trung Quốc, Liên Xô không can thiệp vào Đông Nam Á.
Về phía Việt Nam, chủ trương là thiết lập quan hệ láng giềng tốt với ASEAN, “sẵn sàng cùng ASEAN xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định”(VKĐH V)
Nhìn chung, trong giai đoạn này, phía ASEAN còn chịu tác động mạnh của Mỹ, Trung Quốc và phía ta còn nặng về đấu tranh: đấu tranh bằng quân sự ở Campuchia, nặng về phê phán ASEAN. Ta kêu gọi đối thoại với ASEAN, thi hành chính sách tranh thủ và đấu tranh với ASEAN nhưng trên thực tế lại nặng về đấu tranh, phê phán, đối lập khối Đông Dương - Xã hội chủ nghĩa và ASEAN - Tư bản chủ nghĩa. Hai phía vẫn tiếp tục bất đồng về nguyên nhân căng thẳng ở Đông Nam Á. Riêng với Thái Lan, Việt Nam nặng về đấu tranh, gắn vấn đề rút quân với yêu cầu Thái Lan chấm dứt viện trợ, đất Thánh.
Như vậy, quan hệ Việt Nam - Đông Nam Á giai đoạn trước 1986 là căng thẳng. Vấn đề Campuchia càng làm cho cái nhìn của ASEAN và cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam không mấy tốt đẹp. Nhưng sau năm 1986, quan hệ đó dần phát triển theo chiều hướng tốt hơn.
II. Chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN giai đoạn 1986 – 1991
1. Thái độ và sự can dự của các nước lớn trong vấn đề Campuchia trong giai đoạn 1986 - 1991
1.1. TRUNG QUỐC (TQ)
Hiếm có một nước nào có duyên nợ với Việt Nam nhiều như Trung Quốc. Trong vấn đề Campuchia, điều cốt yếu chính là tháo bỏ chiếc mặt nạ của Trung Quốc. Ẩn sâu trong một khuôn mặt hài hòa kiểu-Khổng-Tử lại chứa đựng những mưu mô, những tính toán chiến lược biến hóa khôn lường. Một trong vấn đề quan trọng nhất khi hoạch định chính sách với Trung Quốc là ta cần làm rõ bản chất của họ: Trung Quốc là một nước mang tính chất xã hội chủ nghĩa – đồng chí hay một nước theo chủ nghĩa bá quyền – kẻ thù? Thật khó có thể phân định rạch ròi. Bởi thực tế đã chỉ ra rằng, Trung Quốc là một phiên bản nâng cấp của cả 2 nhận định trên. Trung Quốc có thể là bạn, có thể là thù, tùy theo lợi ích quốc gia tối cao của họ. 
Trong vấn đề Campuchia, lợi ích của TQ là gì mà họ lại tăng cường lấn ép quan hệ giữa ta và ASEAN đến vậy?
Giai đoạn 1986 – 1991 là giai đoạn đi vào hồi kết của chiến tranh Lạnh. Các đối thủ chính của TQ ở châu Á – Thái Bình Dương đều đang gặp khó khăn. Liên Xô đối mặt với sự sụp đổ. Mỹ đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở châu Á – Thái Bình Dương và tránh can thiệp vào các xung đột khu vực nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không bị đụng đến. TQ cho rằng tình hình lúc đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện yêu cầu tăng thế và lực nhằm tạo cho mình một vị thế đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong đó có ý đồ gấp rút biến biển Nam Trung Hoa thành vùng biển độc chiếm của TQ, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á. TQ muốn lợi dụng Campuchia như là một trong những công cụ tay sai đắc lực để quấy rối an ninh của Đông Nam Á, tạo mâu thuẫn, gây khó khăn cho quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - ASEAN. Nếu cho đây là một cuộc nội chiến trong ASEAN thì sẽ không nhìn thấy được mối đe dọa về an ninh của khu vực từ TQ.
Cũng trong giai đoạn này, TQ nhận thấy mình không còn đủ sức kiểm soát toàn bộ hoàn toàn tình hình ở Campuchia. Trong hòa hoãn 3 nước lớn, vai trò TQ lúc này vẫn lép nhất, hòa hoãn Xô – Mỹ phát triển mạnh nhất. Xô – Mỹ đã thỏa thuận giải quyết vấn đề Afghanistan là một vấn đề châu Á mà không có vai trò của TQ. TQ lo ngại với cái đà đó Xô – Mỹ rồi sẽ giải quyết các vấn đề châu Á khác như vấn đề Campuchia mà cũng không có vai trò của TQ. TQ muốn giữ vai trò của một trong 3 nước lớn giải quyết vấn đề Campuchia. Như thế sẽ lợi cho TQ hơn là để vấn đề Campuchia được giải quyết trong nội bộ Campuchia, giữa ASEAN – Đông Dương hay giữa TQ – VN. Vì vậy, TQ chống thỏa thuận VN – Indonesia năm 1987 ở thành phố Hồ Chí Minh, ra sức phá diễn đàn Hunxen – Sihanouk, đòi VN đàm phán với Sihanouk, hỗ trợ Thái Lan gây xung đột biên giới Thái – Lào.
Thông qua cuộc nói chuyện với Kayson ngày 7/10/1989 mà Đặng Tiểu Bình đã bộc lộ rõ phần nào những tính toán sâu xa của mình với VN: phân hóa Việt – Lào, Việt – Campuchia, Việt – Xô và phân hóa cả nội bộ VN. 
Cuối những năm 1990, Trung Quốc mềm mỏng hơn trong thái độ đối với VN về vấn đề Campuchia do quan hệ của TQ với Mỹ và các nước phương Tây chậm khôi phục sau vụ Thiên An Môn. TQ không còn có khả năng “dựa hơi” vấn đề Campuchia tiếp tục phá quấy quan hệ của Việt Nam và ASEAN. Trong các cuộc họp 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An tháng 2 và tháng 3/1990. TQ ở thế bị cô lập đã buộc phải có nhân nhượng và phải chấp nhận vai trò của LHQ trong vấn đề đối xử với Khmer Đỏ. TQ đề nghị Liên Hợp Quốc đứng ra tổ chức một hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề Campuchia và đàm phán với Mỹ, Pháp, ASEAN nhằm làm cho quá trình giải quyết dễ dàng hơn.
Tóm lại, TQ thể hiện rõ mưu đồ muốn lợi dụng vấn đề Campuchia để “dạy cho Việt Nam một bài học”, kéo dài quá trình bình thường hóa quan hệ của VN với các quốc gia khác, cũng như gây “sóng gió” cho mối quan hệ giữa VN – ASEAN, phân hóa sự đoàn kết của các nước thuộc khu vực Đông Nam Á nhằm mục đích dễ bề bành trướng quyền lực xuống phía Nam.
1.2. LIÊN XÔ (LX)
Thái độ của LX trong giai đoạn 1986 – 1991 là không muốn có liên hệ trong vấn đề tranh chấp giữa 2 nước XHCN, dù LX vẫn là anh-cả của các nước XHCN nhằm cải thiện quan hệ Xô – Trung và tác động lên quan hệ Trung – Mỹ. Vấn đề Campuchia là một trong 3 vấn đề được TQ đưa ra làm điều kiện để LX bình thường hóa quan hệ với TQ nên LX vì lợi ích của mình cùng nhất trí với TQ trong hành động dùng sức ép nước lớn can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm chủ quyền Campuchia; gây mâu thuẫn, nghi kị chia rẽ sự đoàn kết trong các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Khi Mikhail Gorbachev được bổ nhiệm làm Tổng Bí Thư của Đảng Cộng Sản, các chính sách phần lớn theo xu hướng thân Mỹ và không muốn gây hấn với TQ. Thậm chí LX bắt đầu cắt giảm viện trợ kinh tế cho Việt Nam và giữ thái độ im lặng ngay cả khi có sự giao tranh giữa Việt Nam và TQ trên đảo Trường Sa. LX cũng cắt giảm hoạt động quân sự và hải quân ở vịnh Cam Ranh.
1.3. MỸ
Nước Mỹ không còn giữ vị trí độc tôn và buộc phải chấp nhận sự san sẻ quyền lực, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, kĩ thuật mà còn cả chính trị. Trên thế giới xuất hiện những khu vực đối trọng với Mỹ như Tây Âu, Nhật Bản hay Trung Quốc. Mỹ có nhiều chuyện để lo hơn là dồn tiền của vào những cuộc chiến tranh hao phí. Những bài học lịch sử chỉ ra nhiều điều còn hơn thế. Vì vậy, Mỹ không dồn trọng tâm vào theo đuổi những cuộc chiến khu vực. Giai đoạn 1986 – 1991, nhằm chống lại ảnh hưởng của Liên Xô lên Đông Nam Á mà Mỹ bắt tay với TQ chống lại VN trong vấn đề Campuchia. Nhưng rõ ràng rằng, Mỹ cũng không lấy làm mừng khi TQ dần bộc lộ mưu đồ bành trướng khu vực phía Nam. TQ là một đối tác quan trọng của Mỹ nhưng Mỹ cũng không thể làm ngơ hay khuyến khích TQ lợi dụng vấn đề Campuchia chia tách Đông Nam Á và có khả năng trở thành đối thủ số 1 mới của Mỹ, vì nó hoàn toàn trái mục tiêu chiến lược của Mỹ. Việc giải quyết êm thấm vấn đề Campuchia là cái chốt để mở ra câu trả lời cho bài toán chiến lược của Mỹ.
 Vì thế, những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, khi sự tan rã của LX là một điều tất yếu, Mỹ quay sang khuyến khích sự mở rộng của Đông Nam Á, thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ của Việt Nam – ASEAN nhằm tạo ra một khối ASEAN đủ mạnh để chống lại TQ.
2. Hoạch định chính sách
Bước sang giai đoạn 1986 - 1991, tình hình đã có sự biến chuyển. Từ giữa thập niên 80, các nước lớn đã đi vào hòa hoãn, hợp tác và đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình, hợp tác giải quyết vấn đề khu vực trong đó có vấn đề Campuchia.
Các nước ASEAN lo ngại các nước lớn, nhất là Liên Xô, Trung Quốc bình thường hóa quan hệ với nhau sẽ giải quyết vấn đề Campuchia bất lợi cho khu vực nên đã từng bước điều chỉnh quan hệ với Việt Nam, hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho hòa bình, ổn định khu vực, nâng cao vai trò của ASEAN.
Về phía Việt Nam, ta đã thấy rõ khoảng cách về kinh tế giữa ASEAN và Việt Nam. Chúng ta có thể bị tụt hậu hơn nữa nếu không mở rộng quan hệ. Đông Nam Á có vị trí quan trọng trực tiếp trong toàn bộ đường lối, chính sách hòa bình và phát triển của Việt Nam. ASEAN có thể giúp mở ra xu thế đối thoại, tìm kiếm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, tạo dựng một khu vực hòa bình, ổn định và môi trường tốt cho Việt Nam thực hiện nhiệm vụ hòa bình và phát triển.
Theo tình hình đó, chính sách của ta là chuyển từ đối đầu sang đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình với ASEAN.
Tại Đại hội VI của ĐCSVN (1986), Việt Nam đã có sự đổi mới tư duy về tất cả các mặt an ninh - phát triển, lợi ích quốc gia - nghĩa vụ quốc tế, hợp tác - đấu tranh. Đồng thời, Việt Nam cũng xác định những nhiệm vụ chiến lược: hòa bình và phát triển, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, thoát khỏi bao vây - cấm vận. Một đường lối đổi mới toàn diện đã được đưa ra, trong đó Việt Nam chủ trương chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Đại hội VI chủ trương: 
“Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác.” (VKĐH VI- T.79)
“ Chủ trương chuyển từ đối đầu sang đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình, với các đối tác chính” (Nghị quyết 32)
“Thêm bạn bớt thù” (Nghị quyết 13)
“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” (Đại hội VII, VIII)
Rõ ràng, nếu trước đây Việt Nam chú trọng an ninh thì giờ mục tiêu phát triển kinh tế đã được đưa lên hàng đầu. (Nghị quyết 13 Bộ Chính trị).
Trước đây, Việt Nam coi nghĩa vụ quốc tế quan trọng, có ý nghĩa chiến lược thì nay, lợi ích quốc gia là trên hết. Làm nghĩa vụ quốc tế phải phục vụ lợi ích của Việt Nam, hợp khả năng của Việt Nam, hợp bối cảnh quốc tế và tuân thủ theo nguyên tắc: không xuất khẩu cách mạng, không làm thay.
Về hợp tác, đấu tranh: nếu trước đây Việt Nam hợp tác một chiều với xã hội chủ nghĩa và đấu tranh một chiều với đế quốc thì lúc này là đấu tranh tùy lúc, tùy vấn đề. Đấu tranh để hợp tác.
Thực hiện đường lối này, Việt Nam đã rút hết quân khỏi Campuchia, trở ngại lớn nhất trong quan hệ hai bên dần được dỡ bỏ, vấn đề Campuchia dần đi vào giải pháp hòa bình.
Từ năm 1988, ta bỏ chủ trương của 10 năm trước là: “Tăng cường liên minh với 3 nước Đông Dương làm đối trọng với các nước ASEAN và là nhân tố quyết định đối với hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á.”
Từ năm 1988, sự đối đầu giữa 2 nhóm nước không còn, ta không coi ASEAN là khối quân sự trá hình. Ngày 29/7/1988, xu hướng chuyển qua đối thoại thể hiện qua thông cáo Việt Nam - Indonesia, JIM1, JIM2.
Việt Nam cũng tăng cường quan hệ nhiều mặt với Indonesia, phá vỡ bế tắc trong quan hệ với Thái Lan; mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa với các nước trong khu vực, giải quyết vấn đề tồn tại với các nước trong khu vực bằng thương lượng, thúc đẩy việc xây dựng khu vực hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác.
Trong tình hình đó, các nước ASEAN bắt đầu phát triển quan hệ song phương với Việt Nam và hoan nghênh việc tham gia vào hợp tác khu vực. Về phần mình, Việt Nam cũng bày tỏ mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN.
Sự xích lại gần nhau giữa Việt Nam và ASEAN có thêm những nhân tố mới thúc đẩy sau khi Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam và thái độ của Việt Nam kiên trì chính sách đàm phán để giải quyết mọi tranh chấp về lãnh thổ, cùng với việc Việt Nam giữ đúng cam kết rút hết quân khỏi Campuchia trước thời hạn vào năm 1988, mặc dù lúc đó chưa đạt được giải pháp về vấn đề Campuchia.
Bước sang giai đoạn 1991-1996, rõ ràng tầm quan trọng của các nước láng giềng, khu vực liên quan trực tiếp đến chính sách đối ngoại của Việt Nam.
ASEAN là tổ chức khu vực thành công, uy tín cao và trọng lượng tiếng nói ngày càng tăng. Ngoài ra, AFTA (ASEAN Free Trade Area) cũng rất hấp dẫn và ARF (ASEAN Regional Forum) từng bước tiến tới đảm bảo an ninh khu vực. APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation) có thực lực và tiềm lực kinh tế, thương mại lớn hơn hẳn các khối khác và là thị trường có sức cạnh tranh hàng đầu thế giới.
Về chính sách, Việt Nam luôn cần môi trường hòa bình, ổn định để phát triển. Tại Đại hội VII, Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương:
“Phát triển quan hệ hữu nghị với Đông Nam Á và Châu Á-Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị và hợp tác.”
Ngày 15/10/1993, Đồng chí Đỗ Mười nêu ra chính sách bốn điểm như sau:
Một là, chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa.
Hai là, phát triển quan hệ với từng nước và tổ chức ASEAN, sẵn sàng gia nhập ASEAN.
Ba là, sẵn sàng tham gia các diễn đàn đảm bảo hòa bình, an ninh, xây dựng khu vực Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, hợp tác, phát triển, không có căn cứ quân sự nước ngoài, không có vũ khí hạt nhân.
Bốn là, thông qua thương lượng giải quyết vấn đề tồn tại, kể cả tranh chấp ở Biển Đông.
Như vậy, khi vấn đề Campuchia được đi vào giải quyết, quan hệ Việt Nam -ASEAN đã có nhiều biến chuyển ngày càng tốt đẹp hơn. Sở dĩ như vậy là do cả hai phía đều có những thay đổi trong tính toán chiến lược của mình.
3. Triển khai chính sách và kết quả
Với mục tiêu chiến lược: "giữ vững hòa bình, tập trung xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và triển khai các Nghị quyết, chủ trương đối ngoại, chủ động tháo gỡ những khó khăn, phức tạp trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước, từng bước rút quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, cải thiện quan hệ với các nước ASEAN. Có thể nói giai đoạn 1986 - 1991 là giai đoạn đạt kết quả cao trong thực hiện chính sách đối ngoại. Cụ thể là trong giai đoạn này ta đã cơ bản giải quyết vấn đề Campuchia và gỡ bỏ hiểu lầm các nước ASEAN về Việt Nam.
 Nhằm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách Đại hội VI đề ra, Đảng và Nhà nước ta đã tích cực tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia để bình thường hóa quan hệ với các nước ASEAN. Ngày 26/05/1988, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra tuyên bố rút 5 vạn quân và rút bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước. Quân tình nguyện Việt Nam còn lại ở nước này đặt dưới sự chỉ huy của Cộng hòa nhân dân Campuchia. Trong đợt rút quân này, Việt nam đã rút hết số quân đóng gần biên giới Campuchia - Thái Lan (30km). Việc làm này làm thay đổi thái độ của Thái Lan và các nước ASEAN. 
Các hội nghị không chính thức về Campuchia: JIM-I (7/1988), JIM-2(2/1989) và cuộc gặp ko chính thức IMC (2/1990) được tiến hành tại Jacarta nhằm thảo luận một cách cởi mở và tìm ra một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia.
Tại đại hội VI của ĐCSVN (1986), 1 đường lối đổi mới toàn diện đã được đưa ra, trong đó VN chủ trương chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Thực hiện đường lối này, VN đã rút hết quân khỏi Campuchia, trở ngại lớn nhất trong quan hệ 2 bên đang dần được dỡ bỏ, vấn đề Campuchia đi dần vào giải pháp hòa bình. Trong tình hình đó, các nước ASEAN bắt đầu phát triển quan hệ song phương với VN và hoan nghênh việc VN tham gia vào hợp tác khu vực. Tháng 12/1987, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3 họp tại Manila, tổng thống Philipine Aquino tuyên bố không coi VN là mối đe dọa đối với Philipine. Tiếp đó, Tháng 2/1983, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Philipine tuyên bố “không chống việc VN gia nhập ASEAN”. Còn thủ tướng Thái Lan Chatichai khi lên cầm quyền tháng 8/1988 đã đưa ra chủ trương “biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường.” Chính sách trên của Thái Lan đã được Thủ Tướng Malaysia tuyên bố ủng hộ (6/1989). Về phần mình, VN cũng luôn bày tỏ mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước ASEAN.
Quan hệ Việt Nam - ASEAN đã được đẩy mạnh trong năm 1989 và các năm tiếp theo. Sự kiện chính trị nổi bật và quan trọng nhất trong quan hệ hai bên đó là việc tổng thống Suharto, nguyên thủ một nước ASEAN đầu tiên, thăm VN. Tiếp đó là các chuyến viếng thăm của các thủ tướng Singapore và Thái lan. Các quan chức và các học giả ASEAN cũng bắt đầu thể hiện thiện chí và mong muốn có sự hội nhập của VN và các nước Đông Dương khác vào khu vực Đông Nam Á.
Tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á – Thái Bình Dương ở TP. HCM, Tổng Bí Thư ĐCS VN Nguyễn Văn Linh tuyên bố: “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước khác trong khu vực.” Cũng tại hội nghị này, bộ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: “VN sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á”. Tại JIM-2 (2/1989), VN và Lào tuyên bố sẵn sàng tham gia hiệp ước Bali (1976) của ASEAN.
Qua việc giải quyết vấn đề Campuchia và nêu cao vấn đề hợp tác khu vực, sự đoàn kết ASEAN và vai trò của tổ chức ASEAN ngày càng được củng cố và tăng cường ở khu vực và trên thế giới. 
Quan hệ Việt Nam – ASEAN bắt đầu có những chuyển biến tích cực, và việc Hiệp định Paris về Campuchia được kí kết tháng 10/1991 đã đánh dấu sự chấm dứt của “thời kì Campuchia” trong quan hệ Việt Nam - ASEAN, mở ra một thời kì mới, thời kì của hợp tác 2 bên.
Ngày 06/01/1989 nhân dịp sang thăm và dự lễ kỉ niệm ngày chiến thắng mùng 7 tháng 1 của Campuchia tại Phnôm Pênh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh tuyên bố Việt Nam sẽ rút hết quân tình nguyện về nước trong tháng 9/1989 nếu có một giải pháp chính trị về vấn đề Campuchia. Với những chuyển biến nhanh chóng trong quan hệ quốc tế và quan hệ phát triển tốt đẹp trong quan hệ hai nước, ngày 05/04/1989, Việt Nam tuyên bố sẽ rút hết quân trong năm 1989 dù có giải pháp hay không. Tuyên bố này đã thể hiện rõ thiện chí của Việt Nam trong vấn đề Campuchia. Để thực hiện theo đúng đường lối chủ trương Chính sách của Đảng, nước ta chủ động rút quân cho dù có giải pháp chính trị hay không. Tháng 9 năm 1989, Việt Nam hoàn thành việc rút hết quân tình nguyện ở Campuchia về nước.
Thành công lớn nhất trong giai đoạn 1986-1991 đó là, nước ta đã rút toàn bộ quân tình nguyện khỏi Campuchia và bình thường hóa quan hệ với các nước trong khu vực. Nước ta đã ký với các nước ASEAN một số Hiệp định hợp tác trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của các nước vào đầu tư kinh doanh ở nước ta. Sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia, nước ta đã thoát khỏi cấm vận kinh tế, có điều kiện hợp tác phát triển kinh tế với các nước trong khu vực. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam - ASEAN tăng 26,8% năm, nay chiếm 32,4% tổng kim ngạch. Quan hệ Việt Nam - ASEAN ngày càng cải thiện, năm 1995 nước ta chính thức gia nhập tổ chức này. ASEAN ủng hộ Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ký hiệp định khung hợp tác với liên minh Châu Âu. Những năm sau 1991, ASEAN ủng hộ Việt Nam tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vục lớn hơn: APEC, WTO Như vậy, sau năm 1991 quan hệ Việt Nam- ASEAN ngày càng trở nên tốt đẹp.
4. Đánh giá
4.1. Vì sao Việt Nam lại để quân ở Campuchia lâu như thế?
Vào tháng 12 năm 1989, người lính cuối cùng của quân đội nhân dân Việt Nam đã rời khỏi Campuchia để trở về quê hương. Như vậy nghĩa là từ khi bắt đầu tiến vào đất nước láng giềng này để tiêu diệt lực lượng Khơme Đỏ vào tháng 12 năm 1978, xương máu của người Việt Nam đã đổ trên đất nước Campuchia hơn 10 năm và trong ngần ấy năm, ngoài những tổn thất lớn lao về người và của, chúng ta còn phải chịu rất nhiều sức ép về chính trị: sự bao vây cấm vận của Mỹ, sự thù địch của Trung Quốc và sự đối đầu với Asean. Thế nhưng chúng ta đã không còn một sự lựa chọn nào khác bởi vì điều đó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh của đất nước mà còn để phục vụ cho những toan tính chính trị.
Trước hết chúng ta cần phải hiểu rằng Khơme đỏ là kẻ thù nguy hiểm của Việt Nam: ngay khi vừa giành được chính quyền ở Campuchia thì chúng đã lên kế hoạch và thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược lãnh thổ nước ta. Khi quân ta chiếm được Phnom Penh vào đầu năm 1979, chính quyền Pol Pot về cơ bản đã bị đánh bại. Tuy nhiên tàn quân Khơme đỏ, theo ước tính là khoảng 30000, đã rút về vùng biên giới Thái Lan và đã thiết lập một vùng căn cứ với sự cho phép của chính quyền Bangkok để từ đó tiếp tục các hoạt động quân sự chống lại quân Việt Nam và chính quyền mới của nước Cộng hòa nhân dân Campuchia. Chính quyền mới của Phnom Penh không thể ngay lập tức đủ sức để tự đảm bảo an ninh cho mình chứ chưa nói đến việc truy quét tàn quân Khơme đỏ, nên trong suốt những năm sau đó, Việt Nam phải duy trì một lực lượng quân sự lớn, bất chấp việc đang xảy ra những xung đột với Trung Quốc tại biên giới phía bắc, để làm nhiệm vụ “bình định”. “Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc,” đó là chân lí đúng đắn từ đời xưa truyền lại. Nếu như để một lực lượng tàn bạo mà lòng căm thù đối với Việt Nam đã được ăn sâu vào tiềm thức như thế tồn tại thì điều đó không những đe dọa đến sự tồn tại của đất nước Campuchia mới mà bao công sức và xương máu mà chúng ta đã phải bỏ ra trong cuộc chiến rất có thể sẽ trở thành vô nghĩa.
Bên cạnh lí do an ninh ở trên thì còn có những lí do về mặt chính trị. Giống như Lào, Campuchia là một quốc gia có một đường biên giới dài với Việt Nam nên một chính phủ thân Việt Nam là một điều quan trọng đối với Hà Nội. Ngoài việc đưa những người có tư tưởng thân Việt Nam như Heng Samri và Hun Xen lên nắm quyền thì sự hiện diện của quân đội Việt Nam ở đây cũng là để tạo và duy trì một “áp lực cần thiết”, có ích cho ảnh hưởng của Việt Nam.
Việc quân đội Việt Nam có mặt trên lãnh thổ Campuchia cũng là một công cụ quan trọng trên bàn đàm phán với Trung Quốc về vấn đề bình thường hóa quan hệ sau này. Mưu đồ của Bắc Kinh là muốn duy trì Khơme đỏ như một lực lượng chính trị nhưng chúng ta kiên quyết loại bỏ hoàn toàn kẻ thù này. Sau nhiều năm đàm phán, cuối cùng thì chúng ta cũng đã thành công trong việc vô hiệu hóa hoàn toàn Khơme đỏ, làm cho chúng không còn có thể là một mối đe dọa đối với ta và chính quyền Hun Xen nữa. Đó là lúc thích hợp cho việc rút quân hoàn toàn để mở ra các cánh cửa mới trên bàn đàm phán.
4.2. Đánh giá triển khai chính sách với ASEAN trong giai đoạn 1986 – 1991?
 Giai đoạn 1986-1991 là giai đoạn ta tiếp tục thực hiện và hoàn thành cam kết rút quân khỏi Campuchia. Nước ta đã đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, tập trung giải quyết vấn đề Campuchia để bình thường hóa quan hệ với các nước ASEAN. Việc Chính phủ Việt Nam rút hết quân sớm hơn dự kiến đã tạo ra đà thúc đẩy nhanh xu thế đối thoại, tăng cường sức ép đối phương đi vào giải pháp, vô hiệu hóa con bài "đòi rút quân Việt Nam" được dùng để chống phá nước ta. Nước ta rút quân tạo điều kiện mở rộng mối quan hệ với các nước khu vực ASEAN, tập trung phát triển kinh tế, phát huy ảnh hưởng với các nước trong khu vực và khiến các nước phải có sự thay đổi thái độ với nước ta. Có thể nói, Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia là sự thay đổi chính sách có tính chất bước ngoặt của ta.
 Cùng với tư duy đổi mới, Đảng đã đánh giá đúng những đặc điểm, những chuyển biến quan trọng của tình hình quốc tế, những yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đề ra đường lối đối ngoại phù hợp, hướng tới các nước láng giềng khu vực, đáp ứng lợi ích của dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện tại. Đường lối đối ngoại đúng đắn rõ ràng đã tạo thế và thời cơ thuận lợi cho việc triển khai có hiệu quả. Những kết quả đạt được giai đoạn 1986- 1991 là sự kết hợp của ba yếu tố: đề ra chính sách đúng đắn, triển khai chính sách phù hợp với đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước; và sự thức thời của nhà lãnh đạo.
IV. Bài học và kiến nghị
1. Bài học
Từ thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại Việt Nam với ASEAN trong giai đoạn 1986 – 1991, ta cần phải lưu ý:
Một là, để xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn thiện trước hết cần phải có kinh tế vững mạnh làm nền tảng, như vậy, thực tiễn đặt ra yêu cầu phải đặt mục tiêu phát triển lên hàng đầu, tập trung mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước. Chế độ quan liêu bao cấp tồn tại trong một khoảng thời gian dài và sự bao vây cấm vận của các nước trên thế giới đã kìm hãm sự phát triển của nước ta. Ta còn chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị và xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, càng làm rõ tính cấp thiết trong việc duy trì một nền kinh tế phát triển ổn định, độc lập, không phụ thuộc vào một Nhà nước nào khác. 
Hai là, phục vụ cho mục tiêu phát triển cần có đối tác chiến lược lâu dài, và quan trọng hơn là tạo ra bước đệm để vươn ra thị trường lớn hơn. Mục tiêu trước mắt đó là các nước trong khối ASEAN, những nước không những gần gũi về địa lý mà còn có nhu cầu mở rộng thị trường. Chính điều này sẽ là tiền đề cho việc mở rộng các quan hệ khác có lợi cho nước ra. Đáp ứng lại xu thế chung trong thời đại đó là xu thế toàn cầu hóa, hợp tác cùng phát triển, cần phải tăng cường mối quan hệ với các nước trong khu vực nhằm tiến tới hình thành khối thịnh vượng chung Đông Nam Á. Việc mở rộng hợp tác trong khu vực cũng đồng nghĩa với việc đảm bảo một môi trường an ninh lành mạnh - điều kiện để phát triển kinh tế.
Ba là, phải có sự đánh giá, nhận định đúng tình hình trong nước và quốc tế một cách khách quan. Nhận thức rõ được điều này sẽ tạo thời cơ thuận lợi cho ta giải quyết vấn đề Campuchia nhanh chóng và nối lại quan hệ với cộng đồng quốc tế nói chung và các nước ASEAN nói riêng. Đồng thời, còn phải biết tranh thủ sự ủng hộ của các thành phần tư tưởng tiến bộ trên thế giới và trong khu vực.
Bốn là, ủng hộ cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới, chống lại các chế độ diệt chủng, khủng bố nhưng không có nghĩa là làm thay cách mạng cho nước khác, để họ tự tổ chức cách mạng.
2. Kiến nghị
Khoảng thời gian này, khi nước ta còn chịu bao vây, cô lập từ nhiều phía thì đổi mới là rất cấp thiết. Tuy nhiên, trước hết cần phải xem xét tại sao với mục đích tốt là giải phóng Campuchia khỏi chế độ diệt chủng mà phía quốc tế vẫn lên án Việt Nam âm mưu xâm lược Campuchia?
Trước hết, đó là do quan hệ của Việt Nam với các nước lớn còn chưa tốt, chưa linh hoạt. Liên Xô và Trung Quốc tuy cùng thuộc một phe Xã hội chủ nghĩa nhưng trong nội bộ có nhiều mâu thuẫn, chủ yếu là về cạnh tranh ảnh hưởng trong khối Xã hội chủ nghĩa. Việt Nam duy trì mối quan hệ tốt đẹp với “anh cả” Liên Xô, trong khi đó ít quan tâm “anh hai” Trung Quốc ở ngay sát bên, điều này đã gây nên sự căng thẳng trong quan hệ hai nước.
Những năm cuối thập kỷ 70, tổng thống Mỹ Carter đã đưa ra lời mời bình thường hóa quan hệ vô điều kiện, nhưng phía Việt Nam kiên quyết từ chối, chần chừ, không cân nhắc đến lợi ích lâu dài trong quan hệ hai nước. 
Thêm vào đó, ta đã dấn quá sâu vào vấn đề Campuchia, cho rằng mình nên gánh luôn những khó khăn của các nước anh em trong khối Đông Dương.
Ta không chứng minh được cuộc chiến tranh ở Campuchia là cuộc chiến tranh chính nghĩa, quân đội Việt Nam ở lại trên đất Campuchia với mục đích hòa bình, không nhờ đến sự trợ giúp quốc tế trong vấn đề Campuchia. 
Có lẽ chính vấn đề Campuchia đã làm cho chúng ta nhận thức được rõ ràng rằng trong quan hệ quốc tế cần phải có sự linh hoạt và quan trọng hơn là phải luôn có hơn một đồng minh. Cũng từ vấn đề Campuchia, có thể thấy rằng ta cần phải thay đổi chính sách đối ngoại đa chiều hơn và phù hợp với xu thế chung của thời đại.
V. Kết luận
 Qua phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy, “vấn đề Campuchia” chính là điểm mấu chốt căn bản của đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn 1986-1991. Việc để lại quân quá lâu trên lãnh thổ Campuchia đã khiến cộng đồng quốc tế và ASEAN nhìn Việt Nam một cách thiếu thiện cảm.
Đặt giả thuyết rằng vấn đề Campuchia không tồn tại, nhóm chúng tôi có một số quan điểm khác nhau về chiều hướng phát triển của quan hệ Việt Nam – ASEAN.
Một trong số đó cho rằng: “Nếu không có vấn đề Campuchia” Việt Nam sẽ không bị hiểu nhầm là “kẻ đi xâm lược” và theo đó, ASEAN sẽ không có những cái nhìn quan ngại về Việt Nam. Trong chiều hướng tích cực, quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN sẽ được thúc đẩy nhanh chóng hơn và chặt chẽ ngay trong đầu những năm 80 của thế kỷ XX.
Số khác cho rằng: Dù có hay không vấn đề Campuchia thì lịch sử cũng không thay đổi. Bởi lẽ các nước lớn với những tính toán chiến lược tại khu vực Đông Nam Á sẽ có thể ‘dựng’ nên những “ vấn đề” khác mà không ai có thể biết trước được.
 Dù sao đi nữa, vấn đề Campuchia xuất hiện thực sự đã khiến quan hệ Việt Nam - ASEAN bị chững lại trong một thời gian khá dài. Tuy nhiên, trước những biến chuyển của tình hình thế giới lúc bấy giờ cùng với xu hướng liên kết khu vực, lấy kinh tế làm mục tiêu phát triển trọng tâm thì việc hợp tác giữa Việt Nam với các nước trong khu vực là một điều tất yếu của lịch sử. Hòa bình cho Campuchia, vị thế và tiếng nói của ASEAN cũng được khẳng định thêm trong khu vực. Sau này, sau khi kí hiệp định Paris tìm ra giải pháp hòa bình cho Campuchia, quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN đã phát triển nhanh chóng. Với nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế và ngoại giao, đặc biệt là thành tựu năm 1995 - Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN thì tính đúng đắn và nhạy bén tình hình của chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN càng được khẳng định.

File đính kèm:

  • doctieu_luan_van_de_campuchia_trong_chinh_sach_doi_ngoai_viet_n.doc