Tiểu luận Vấn đề và bản chất con người vấn đề tha hóa và giải phóng con người trong Triết học Mác-Lênin
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Vấn đề và bản chất con người vấn đề tha hóa và giải phóng con người trong Triết học Mác-Lênin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Vấn đề và bản chất con người vấn đề tha hóa và giải phóng con người trong Triết học Mác-Lênin
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ••••• MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TIỂU LUẬN Đề tài: VẤN ĐỀ VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VẤN ĐỀ THA HÓA VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN GVHD: ThS. Nguyễn Thị Tri Lý SVTH: Nhóm 9 Bùi Cẩm Tú Uyên 19126131 Hoàng Bảo Việt 19126138 Nguyễn Lê Hoàng Yến 19144329 Nguyễn Văn Tươi 19144325 Phạm Văn Tú 19161313 Mã lớp học: 192LLCT130105_09 Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2020 MỤC LỤC VẤN ĐỀ CON NGƯỜI 1 BẢN CHẤT CON NGƯỜI 2 VẤN ĐỀ THA HÓA 5 Khái niệm tha hóa 5 Nguồn gốc và nguyên nhân của sự tha hóa 6 Các hình thức và hậu quả của sự tha hóa 7 Khắc phục sự tha hóa 8 GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI 8 VẬN DỤNG: LIÊN HỆ VIỆT NAM 9 PHỤ LỤC PHÂN CÔNG KẾ HOẠCH THUYẾT TRÌNH 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 16 VẤN ĐỀ VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VẤN ĐỀ THA HÓA VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VẤN ĐỀ CON NGƯỜI Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội học.v.n...Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối với sự hiểu biết và làm lợi cho con người. Hơn bất kì một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu thuẫn trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây nên sự đấu tranh không biết khi nào dừng. Những lập trường chính trị trình độ nhận thức và tâm lý của những người nghiên cứu khác nhau và do đó đã đưa ra những tư tưởng hướng giải quyết khác nhau. Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học để tự hỏi: Thực chất con người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn trong chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là một tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con người là bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của muôn loài. Chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra; quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định và chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất trí cả, và quá trình nhận thức đó không ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được bản chất của con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó. Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy vật máy móc coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Học chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không tôi, mặt khác cho rằng cái tôi không có khả năng vượt quá cảm giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu ớt, phụ thuộc đấng tối cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng tạo của lý tính người, mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên và hoàn cảnh. Tóm lại: Các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những các thức lý luận xem xét người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn thành con người trừu tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con người trừu tượng. Sinh học, tuy nhiên họ vẫn còn nhiều hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người. Sau này chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế đó, đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong các học thuyết triết học trước đây để đi tới quan niệm về con người thiện thực, con người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cách là con người hiện thực. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên. BẢN CHẤT CON NGƯỜI Chủ nghĩa xã hội do con người và vì con người. Do vậy, hình thành mối quan hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát triển xã hội nói chung, trong xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề không thể thiếu được của thế giới quan Mác - Lênin. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Con người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy nhiều quy luật sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Để tồn tại với tư cách là một con người trước hết con người cũng phải ăn, phải uống... Nhưng chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học của con người thì không thể giải thích được bản chất của con người. Không chỉ có “con người là tổng hòa các quan hệ xã hội” mà thực ra quan điểm của Mác là một quan điểm toàn diện. Mác và Ăngghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết học đi trước rằng. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội, nhưng khác với họ, Mác, Anghen; xem xét mặt tự nhiên của con người, như ăn, ngủ, đi lại, yêu thích... Không còn hoàn mang tính tự nhiên như ở con vật mà đã được xã hội hoá. Mác viết: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hòa của những mối quan hệ xã hội” con người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mắc nhiều lần đã so sánh con người với con vật, so sánh con người với những con vật có bản năng gần giống với con người... Và để tìm ra sự khác biệt đó. Mác đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tự nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con người sản xuất ra công cụ sản xuất... Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người. Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội” Mác hoàn toàn không có ý phủ nhận vai trò của các yếu tố và đặc điểm sinh học của con người, ông chỉ đối lập luận điểm coi con người đơn thuần như một phần của giới tự nhiên còn bỏ qua, không nói gì đến mặt xã hội của con người. Khi xác định bản chất của con người trước hết Mác nêu bật cái chung, cái không thể thiếu và có tính chất quyết định làm cho con người trở thành một con người. Sau, thì khi nói đến “Sự định hướng hợp lý về mặt sinh học” Lênin cũng chỉ bác bỏ các yếu tố xã hội thường xuyên tác động và ảnh hưởng to lớn đối với bản chất và sự phát triển của con người. Chính Lênin cũng đã không tán thành quan điểm cho rằng mọi người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực hiện một sự bình đẳng về sfic lực và tài năng con người thì đó là một điều ngu xuẩn... Nói tới bình đẳng thì đó luôn luôn là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị chỉ không phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân”. Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội mà hơn nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sí. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất con người sáng tạo ra lịch sử của mình, lịch sử 7 của xã hội loài ngoài. Từ đó quan niệm đó Mác khẳng định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội có ý nghĩa là sự phát triển phong phú bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân. Bởi vậy theo Mác ý nghĩa lịch sí mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá con người, giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người để con người được sống với cuộc sống đích thực. Và bước quan trọng nhất trên con đường đó là giải phóng con người về mặt xã hội. Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác thực chất của tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cho con người, phát triển con người toàn diện và giải phóng con người, nói theo Ăngghen là đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, con người cuối cùng cũng là người tôn tại của xã hội của chính mình, đồng thời cũng trở thành người chủ của tự nhiên, người chủ bản thân mình. Đó là quá trình mà nhân loại đã tự tạo ra cho mình những điều kiện, những khả năng cho chính mình nhằm đem lại sự phát triển toàn diện, tự do và hài hoà cho mỗi con người trong cộng đồng nhân loại tạo cho con người năng lực làm chủ tiến trình lịch sử của chính mình. Quan niệm của Mác về định hướng phát triển xã hội lấy sự phát triển của con người làm thước đo chung càng được khẳng định trong bối cảnh lịch sử của xã hội loài người. Ngày nay loài người đang sống trong bối cảnh quốc tế đầy những biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sfic rõ ràng tính đa dạng trong các hình thức phát triển của nó xã hội loài người kể từ thời tiền sử cho đến nay bao giờ cũng là một hệ thống thống nhất tuy nhiên cũng là một hệ thống hết sfic phức tạp và chính vì sự phức tạp đó đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh tế xã hội ở các nước, các khu vực khác nhau. Đến lượt mình, tính không đồng đều của sự phát triển này lại hình thành nên một bfic tranh nhiều màu sắc về định hướng nào, thì mọi định hướng phát triển vẫn phải hướng tới giá trị nhân văn của nó - tới sự phát triển con người. Xã hội bao giờ cũng tồn tại nhiều giai cấp đó điều quan trọng là giai cấp đó có phục tùng được lòng dân hay không. Trải qua thời kỳ phát triển của xã hội loài người chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp đáp fíng đầy đủ mọi quy luật của cuộc sống và đó chính là lý do tại sao mác lại lấy giai cấp vô sản để nghiên cứu trong đó Mác tập trung nghiên cứu con người vô sản là chủ yếu. VẤN ĐỀ THA HÓA Khi nghiên cứu sự hình thành, phát triển con người trong quá trình lịch sử, triết học Mác đã khẳng định bên cạnh mặt chủ đạo của con người là sáng tạo, còn có hiện tượng tha hóa con người. Khái niệm tha hóa. Khái niệm tha hóa được Mác kế thừa trực tiếp từ Hêghen và Phoiơbắc nhưng dựa trên sự nghiên cứu các mặt khác nhau của tha hóa gắn liền với cái gọi là “sự phụ thuộc của tư bản vào lao động”, Mác đã phân tích tha hóa trong quan hệ nền tảng giữa con người với con người, giữa con người với sản xuất vật chất, giữa con người với hoạt động kinh tế. Theo đó, tha hóa là khái niệm nói lên quá trình mà trong đó những sản phẩm do con người tạo ra (sản phẩm lao động, đồng tiền, các quan hệ xã hội...) cũng như những thuộc tính hoặc năng lực nào đó của con người trong những điều kiện lịch sử nhất định, lại biến thành những thí độc lập với con người và chi phối lại con người. Chẳng hạn, trong lĩnh vực tôn giáo, Thượng đế là sự chuyển dịch bản chất con người, khiến cho con người từ chủ thể biến thành khách thể, có nghĩa Thượng đế do con người bày đặt ra, nhưng trở lại thống trị con người (tha hóa tôn giáo) Tha hóa còn chỉ những hiện tượng, những quan hệ xã hội nào đó biến thành một cái gì khác với bản thân chúng, trở thành cái thống trị con người, trở thành mục đích sống của con người. Tha hóa là quá trình con người tự đánh mất “những năng lực bản chất người” của mình, trở thành một thực thể khác. Như vậy, tha hóa trước hết là một quá trình xã hội, trong đó, hoạt động của con người và những sản phẩm của nó biến thành lực lượng đối lập, thù địch và chống lại con người. Nguồn gốc và nguyên nhân của sự tha hóa Nguồn gốc của tha hóa là do sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của chế độ tư hữu. Trong tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học" năm 1844, Mác cho rằng chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là nguyên nhân của tha hóa lao động - nền tảng của tha hóa chính trị xã hội và tha hóa ý thức tư tưởng. Mặc khác, tha hóa còn là quá trình con người tự tước bỏ năng lực sáng tạo của mình, trở nên thụ động trước thế giới khách quan, do những tiện ích xã hội mà con người sáng tạo nên “chiều hư” con người. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật có tác động tiêu cực đến sự phát triển của con người. Việc sử dụng máy móc trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho con người bị kiệt quệ, con người trở thành lệ thuộc vào máy móc, sự lệ thuộc đó khiến lao động trở thành cực hình đối với con người. Việc sử dụng máy móc trong xã hội tư bản chủ nghĩa đã loại bỏ đi các phần hoạt động độc lập của con người, làm cho họ không còn thời gian để phát triển nhân cách cũng như phát triển thể chất, họ chỉ còn giống như cái máy. Những tác động tiêu cực của thành tựu kỹ thuật đối với con người là biểu hiện của lao động bị tha hóa. Sự tha hóa đó là kết quả của sự phân công lao động có tính chất đối kháng trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Sự tha hóa lao động dẫn đến sự tha hóa con người, nó biến người lao động thành những con người cùng khổ, biến giai cấp tư sản và các tầng lớp khác trở thành những con người ích kỷ, hẹp hòi, tìm cách khống chế, đánh bại lẫn nhau vì lợi ích riêng của mình. Trong xã hội tư bản, không chỉ có giai cấp công nhân mà cả giai cấp tư sản và các giai cấp khác cũng bị tha hóa. Như vậy, tóm lại sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với chế độ tư bản về chế độ sản xuất đã tập trung những tư liệu sản xuất cơ bản của chủ nghĩa xã hội vào tay một số nhà tư bản, một số tập đoàn tư bản làm tuyệt đại đa số người lao động trở nên vô sản. Nhu cầu sinh tồn đã buộc những con người không có tư liệu sản xuất tự nguyện một cách cưỡng bức đến với các nhà tư sản và họ làm thêm cho nhà tư bản. Và do quá trình người bóc lột người, quá trình lao động bị tha hóa đã diễn ra. Phân công lao động có tính chất đối kháng trong chủ nghĩa tư bản, làm cho con người bị lệ thuộc, bị nô dịch bởi điều kiện lao động và trở nên những con người bị phát triển phiến diện. Sự phát triển của xã hội đã khiến con người không tự kiểm soát được hoạt động của chính mình. Các hình thức và hậu quả của sự tha hóa Các hình thức của sự tha hóa bao gồm: Tha hóa tôn giáo và tha hóa xã hội - chính trị (là biểu hiện của tha hóa ý thức tư tưởng), Tha hóa lao động (là biểu hiện tập trung của tha hóa kinh tế), Tha hóa bản chất con người (là tha hóa con người với con người). Hậu quả của sự tha hóa: Tha hóa quá trình con người tự đánh mất “những năng lực bản chất người” của mình, trở thành một thực thể khác. Như vậy, hậu quả của tha hóa trước hết là một quá trình xã hội, trong đó, hoạt động của con người và những sản phẩm của nó biến thành lực lượng đối lập, thù địch và chống lại con người, con người xa lạ với con người. Khắc phục sự tha hóa Khắc phục sự tha hóa là một quá trình lâu dài mà trước hết là phải gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu. Triết học Mác- Lênin chính là lý luận triết học về khắc phục sự tha hóa của con người, trước hết là lý luận giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức, bóc lột. Giải phóng con người là xóa bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hóa để con người trở về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của mình. GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI Thực chất của triết học Mác-lênin là học thuyết giải phóng con người, vì sự phát triển toàn diện của con người, từ giải phóng con người cụ thể sẽ dẫn đến giải phóng nhân loại. Khái niệm: Giải phóng con người chính là đưa con người thoát khỏi sự tha hoá hay nói cách khác là đưa con người thoát khỏi sự áp bức bóc lột trong quá trình lao động, đó chính là tư tưởng nhân đạo cao cả trong học thuyết Mác-Lênin. Giải phóng con người được các nhà kinh điển triển khai trong nhiều nội dung lý luận và trên nhiều phương diện khác nhau. Đấu tranh giai cấp để thay thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất tư bản chủ nghĩa, để giải phóng con người về phương diện chính trị là nội dung hàng đầu. Khắc phục sự tha hóa của con người về lao động của họ, biến lao động sáng tạo trở thành chíc năng thực sự của con người là nội dung có ý nghĩa then chốt. Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-lênin, việc giải phóng những con người cụ thể lag đi đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và tiến tới giải phóng toàn thể nhân loại. Mục tiêu cuối cùng trong tư tưởng về con người của chủ nghĩa Mác-lênin là giải phóng con người trên tất cả các nội dung và các phương diện: con người cá nhân, con người giai cấp, con người dân tộc, con người nhân loại... Tư tưởng giải phóng con người trong triết học Mác-lênin hoàn toàn khác với các tư tưởng giải phóng con người của các học thuyết khác đã và đang tồn tại trong lịch sí. Tôn giáo quan niệm giải phóng con người là sự giải thoát khỏi cuộc sống tạm, khỏi bể khổ cuộc đời để lên cõi Niết bàn hoặc lên Thiên đường ở kiếp sau. Một số học thuyết triết học duy vật cũng đã đề xuất tư tưởng giải phóng con người bằng một vài phong trào trong đời sống xã hội: pháp luật, đạo đích, chính trị. Tính chất phiến diện, hạn hẹp, siêu hình trong nhận thức về con người, về các quan hệ xã hội các do những hạn chế về điều kiện lịch sử đã khiến cho những quan điểm đó đã vào lập trường duy tâm, siêu hình. “Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về bản thân con người", là “giải phóng người lao động thoát khỏi lao động bị tha hóa”. Tư tưởng đó thể hiện lập trường duy vật biện chứng, khách quan, khoa học trong việc nhận thích nguồn gốc, bản chất và đời sống con người và phương thức giải phóng con người. VẬN DỤNG: LIÊN HỆ VIỆT NAM Vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về con người và giải phóng con người, phát triển con người toàn diện, ngay từ những ngày đầu tiến hành sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định “con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất”. Chăm lo cho hạnh phúc của mọi người, mọi nhà đã được Đảng đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ trung tâm. Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu phát triển con người, vì cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta đã khẳng định: “Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp fíng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Cho đến nay, sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam mới chỉ vượt ra khỏi tình trạng của một nước kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Do vậy, với Việt Nam hiện nay, không có con đường nào khác ngoài con đường “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức” theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó không chỉ là con đường tất yếu, là phương thức tối ưu để đi đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn là “một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội” - cách mạng con người, vì con người và do con người. Bởi lẽ, khi nói về những ưu việt của chủ nghĩa xã hội, chúng ta khẳng định những ưu việt ấy không thể do ai đưa đến cho chúng ta, cũng không thể tự nhiên mà có. Đó phải là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân, với những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo đích, tình cảm và lối sống cao đẹp. Định hướng phát triển xã hội theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức vì mục tiêu phát triển con người Việt Nam được Đảng ta coi là bước rất quan trọng trong thời kỳ phát triển mới - giai đoạn từ nay đến năm 2020. Sự nghiệp đó đòi hỏi phải tập trung rất nhiều trí tuệ, sóc người, sfic của, tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát của Chiến lược phát triển đất nước 5 năm 2016 - 2020 mà Đảng đã thông qua tại Đại hội XII là: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người ngày một gia tăng, vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ được phát huy; kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp fíng yêu cầu phát triển bền vững đất nước... Mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát đó cho thấy, trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, khi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có học thuyết Mác về con người, về sự nghiệp giải phóng và phát triển con người, được xác định là cơ sở lý luận nền tảng, là kim chỉ nam cho hành động, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi phát triển con người Việt Nam - “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” - vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Phát triển con người Việt Nam - đó cũng chính là động lực, là mục tiêu nhân văn, là nền tảng, cơ sở lâu bền, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức mà Đảng đang lãnh đạo nhân dân Việt Nam từng bước thực hiện. Thực tiễn ngày càng khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của C. Mác về vị trí và vai trò không gì thay thế được của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Bên cạnh Việt Nam, nhiều nước trong khu vực và trên phạm vi toàn thế giới đã cho thấy thành công của họ trong chiến lược nâng cao chất lượng con người, coi con người là nguồn tài nguyên vô giá và đầu tư lớn cho việc nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên vô giá ấy, lấy đó làm đòn bẩy phát triển kinh tế, hiện đại hóa xã hội. Trong các Nghị quyết Đại hội X, XI và XII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam, phát triển con người Việt Nam toàn diện, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Với thực tiễn Việt Nam hiện nay, với bối cảnh quốc tế hiện thời, để phát triển con người Việt Nam, để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, phát huy nguồn lực con người, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với tư cách là yếu tố cơ bản cho sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, Việt Nam cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm từng bước hiện đại hóa đất nước và đời sống xã hội. Và, Việt Nam chỉ có thể tăng trưởng nguồn lực con người khi phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo thực sự trở thành “quốc sách hàng đầu”, trở thành nền tảng và động lực; phát huy nguồn lực trí tuệ và sfic mạnh tinh thần của người Việt Nam; đặc biệt là khi quá trình hiện đại hóa các ngành giáo dục, văn hóa, văn nghệ, bảo vệ sức khỏe, dân số và kế hoạch hóa gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Chính vì thế mà mọi kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối liên hệ không thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Trung thành với học thuyết Mác về con người, giải phóng và phát triển con người, giải phóng và phát triển cả cộng đồng nhân loại, trong suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy việc chăm lo cho hạnh phúc của con người làm mục tiêu phấn đấu cao nhất. Luận điểm được coi là then chốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh - “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, “việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sfic làm, việc gì có hại cho dân, ta phải hết sfic tránh” - đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp hoạt động của Đảng. Với tư cách là đảng cầm quyền, mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều hướng tới mục tiêu phát triển con người Việt Nam toàn diện. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng chỉ rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Liên tục trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về phương hướng, mục tiêu, điều kiện và giải pháp thuộc nhiều lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến sự nghiệp chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, nguồn lực con người, nguồn nhân lực chất lượng cao. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội gắn với phát triển kinh tế tri thức cũng là vì sự nghiệp cao cả đó. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức lấy học thuyết Mác về phát triển con người làm nền tảng không có nghĩa là đặt phát triển kinh tế sau phát triển con người, mà là ở chỗ “tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Một nước đang phát triển có thu nhập trung bình như Việt Nam, để nhanh chóng thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình” đó, trước hết cần ưu tiên cho phát triển kinh tế. Trước đây, với căn bệnh chủ quan, duy ý chí, Việt Nam đã làm như vậy và đã phạm sai lầm. Ngày nay, để tránh mắc lại sai lầm đó, phát triển kinh tế không thể không xuất phát từ chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, từ tinh thần nhân văn sâu sắc và gắn liền với hiện đại hóa đời sống xã hội. Bởi lẽ, một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế chính là ở chỗ tạo ra sự cân đối, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và môi trường xã hội an toàn, lành mạnh. Phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta không thể không lưu ý tới lời cảnh tỉnh của C. Mác về nguy cơ “tha hóa” của con người trong nền kinh tế hàng hóa. C. Mác nhắc nhở chúng ta trong phát triển kinh tế phải gắn “sự nghiệp giải phóng con người” với cuộc “đấu tranh chống lại biểu hiện thực tiễn cực đoan của sự tha hóa của con người”. Ngày nay, phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải gắn liền với cội nguồn dân tộc, với những giá trị truyền thống. Chỉ có thể chúng ta mới tránh khỏi “nguy cơ tha hóa”, làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình. Chiến lược phát triển con người toàn diện, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng phải được hoạch định theo hướng đó. Thêm vào đó, nó cần được xuất phát từ quan niệm của C. Mác về tính thiết yếu của việc kết hợp hài hòa sự phát triển tự do của cá nhân với thiết lập mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Bởi lẽ, “chỉ có trong cộng đồng, cá nhân mới có những phương tiện để có thể phát triển toàn diện năng khiếu của mình và do đó, chỉ có trong cộng đồng, mới có thể có tự do cá nhân” và chỉ “trong điều kiện có cộng đồng thật sự, các cá nhân có được tự do khi họ liên hợp lại và nhờ sự liên hợp ấy”. Và, cũng chỉ có trong một cộng đồng như vậy, “sự phát triển tự do của mỗi người” mới trở thành “điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. PHỤ LỤC PHÂN CÔNG KẾ HOẠCH THUYẾT TRÌNH Nội dung Sinh viên thực hiện 1. Vấn đề con người Nguyễn Văn Tươi 2. Bản chất con người 3. Vấn đề tha hóa Hoàng Bảo Việt 4. Giải phóng con người Phạm Văn Tú 5. Liên hệ Việt Nam Bùi Cẩm Tú Uyên 6. Tổng hợp, trình bày word Nguyễn Lê Hoàng Yến 7. Trình bày powerpoint 8. Thuyết trình Hoàng Bảo Việt Phạm Văn Tú Tài liệu tiếng việt: TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình triết học Mác-Lênin. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd.
File đính kèm:
- tieu_luan_van_de_va_ban_chat_con_nguoi_van_de_tha_hoa_va_gia.docx