Tiểu luận Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả của phép biện chứng duy vật vào phân tích thực trạng nợ xấu ngân hàng ở Việt Nam hiện nay

docx 22 trang yenvu 02/11/2023 3100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả của phép biện chứng duy vật vào phân tích thực trạng nợ xấu ngân hàng ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả của phép biện chứng duy vật vào phân tích thực trạng nợ xấu ngân hàng ở Việt Nam hiện nay

Tiểu luận Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả của phép biện chứng duy vật vào phân tích thực trạng nợ xấu ngân hàng ở Việt Nam hiện nay
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU	1
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài	1
Tài liệu sử dụng để thực hiện đề tài	2
Bố cục của bài tiểu luận	2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ	3
Khái niệm về cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả	3
Tính chất của mối quan hệ nhân quả	3
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân – kết quả	4
Nguyên nhân sinh ra kết quả, xuất hiện trước kết quả	4
2 Nguyên nhân nào kết quả ấy	4
Tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa của nguyên nhân – kết quả	5
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN - KẾT QUẢ VÀO PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NỢ XẤU TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY	6
Khái niệm và bản chất nợ xấu	6
Tình hình nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay	7
Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả vào phân tích thực trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng ở Việt Nam hiện nay	8
Nguyên nhân sinh ra và xuất hiện trước kết quả nợ xấu của hệ thống ngân hàng ở Việt Nam hiện nay	8
Nguyên nhân nào kết quả ấy	8
Tác động trở lại của kết quả nợ xấu đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa của nguyên nhân – kết quả	10
KẾT LUẬN	12 TÀI LIỆU THAM KHẢO	13 PHẦN PHỤ LỤC	i
Phụ lục 1: Số liệu nợ xấu tính đến quý 3/2014	i
Phụ lục 2: Giải pháp xử lý nợ xấu từ góc nhìn chuyên gia	iii
LỜI MỞ ĐẦU
Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất, bao quát các lĩnh vực kinh tế, tự nhiên, xã hội, và tư duy vào các cặp phạm trù cơ bản. Trong đó, mối quan hệ nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ cơ bản của triết học và liên quan tới mọi mặt trong đời sống xã hội. Chính vì vậy, mối quan hệ này đã được nhận thức từ sớm và đưa vào nhiều học thuyết thời cổ đại. Các nhà triết học Hy Lạp như Lơxip và Đêmôcrit khẳng định: “không có sự vật nào xuất hiện nếu thiếu nguyên nhân, mọi sự vật đều xuất hiện trên cơ sở nào đó do tính tất yếu”. Sở dĩ cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả được các thời đại quan tâm như vậy vì bất cứ biến cố nào cũng có nguyên nhân của nó. Chỉ khi nào tìm đúng nguyên nhân thì ta mới có thể định ra những phương pháp xử lý có hiệu quả. Thời gian qua, hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Vấn đề trọng tâm hiện nay là xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại, bởi nó làm tắc nghẽn dòng tín dụng trong nền kinh tế Việt Nam. Do vậy, nợ xấu không chỉ là vấn đề của các ngân hàng cần phải giải quyết mà cần có sự chỉ đạo chung của nhà nước. Các ngân hàng cần phải nhận thức đúng về nợ xấu, đồng thời tìm và phân tích được nguyên nhân để từ đó đưa ra giải pháp khắc phục phù hợp. Chính vì lẽ đó, để góp phần đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn nêu trên nhóm chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả của phép biện chứng duy vật vào phân tích thực trạng nợ xấu ngân hàng ở Việt Nam hiện nay”.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Thứ nhất là: Tìm hiểu rõ phần lý thuyết lý luận triết học Mác - Lênin về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả của phép biện chứng duy vật và biết cách ứng dụng nó vào thực tiễn xã hội.
Thứ hai là: Trên cơ sở phân tích sáu cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả của phép biện chứng duy vật để vận dụng vào phân tích thực trạng nợ xấu ngân hàng ở Việt
Nam hiện nay. Từ đó nhận thức đúng về nợ xấu, đồng thời có thể tìm ra được nguyên nhân dẫn đến việc phát sinh nợ xấu, kết quả của thực trạng này.
Tài liệu sử dụng để thực hiện đề tài:
Phần lý thuyết sử dụng nhóm sử dụng tài liệu: “Triết học – tài liệu tham khảo cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học” do TS. Bùi Văn Mưa và nhóm tác giả biên soạn.
Phần phân tích vận dụng vào thực tế nhóm sử dụng tài liệu: số liệu của NHNN, đồng thời đọc qua các bài luận văn, tạp chí về phân tích tình hình nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Bố cục của bài tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận triết học Mác - Lênin về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả.
Chương 2: Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả vào phân tích thực trạng nợ xấu trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ
Khái niệm về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả:
Trong triết học, phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau từ đó tạo ra sự biến đổi nhất định kèm theo.
Trong triết học, phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi nhất định xuất hiện do sự tác động giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng.
Tính chất của mối quan hệ nhân quả:
Tính khách quan: Mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Dù con người biết hay không biết, thì các sự vật vẫn tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất yếu gây nên biến đổi nhất định. Con người chỉ phản ánh vào trong đầu óc mình những tác động và những biến đổi, tức là mối liên hệ nhân quả của hiện thực, chứ không sáng tạo ra mối liên hệ nhân quả của hiện thực từ trong đầu mình. Quan điểm duy tâm không thừa nhận mối liên hệ nhân quả tồn tại khách quan trong bản thân sự vật. Họ cho rằng, mối liên hệ nhân quả là do Thượng đế sinh ra hoặc do cảm giác con người quy định.
Tính phổ biến: Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực.
Tính tất yếu: Cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau. Tuy nhiên trong thực tế không thể có sự vật nào tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh hoàn toàn giống nhau. Do vậy tính
tất yếu của mối liên hệ nhân quả trên thực tế phải được hiểu là: Nguyên nhân tác động trong những điều kiện và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chúng gây ra càng giống nhau bấy nhiêu.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân sinh ra kết quả, xuất hiện trước kết quả
Điều này có nghĩa là không có nguyên nhân nào không dẫn đến kết quả nhất định và ngược lại không có kết quả nào không có nguyên nhân. Nguyên nhân sinh ra kết quả nêu nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả còn kết quả lúc nào cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Tuy nhiên không phải mọi sự nối tiếp nhau về mặt thời gian của các sự vật hiện tượng cũng là biểu hiện của mối liên hệ nhân quả. Cái để phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian là ở chỗ quan hệ nhân quả bao giờ cũng là quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân phải sản sinh ra kết quả.
Nguyên nhân nào kết quả nấy
Trong hiện thực, mối quan hệ nhân quả biểu hiện hết sức phức tạp. Một kết quả thường không phải do một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân gây ra; đồng thời một nguyên nhân cũng có thể sản sinh ra nhiều kết quả. Vì sự phối hợp tác động của nhiều nguyên nhân đòi hỏi phải phân tích tính chất, vai trò của mỗi loại nguyên nhân đối với kết quả cũng như sự liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nguyên nhân và phân loại các nguyên nhân. “Tuy nhiên, trong nhận thức, con người thường bỏ qua một số nguyên nhân không cơ bản, thứ yếuhay bỏ qua những kết quả không quan trọng, không có ý nghĩavới mình mà xem xét mối quan hệ nhân quả trong những trường hợp đặc biệt như: một nguyên nhân tác động gây ra một kết quả duy nhất; nhiều nguyên nhân tác động sinh ra nhiều kết quả; nhiều nguyên nhân tác động để ra một kết quả.” (Bùi Văn Mưa, 2014, trang 131-132).
Những nguyên nhân có tác động cùng hướng hoặc khác hướng sẽ tăng cường hoặc triệt tiêu tác dụng của nhau trong quá trình sinh ra kết quả. Nếu nhiều nguyên nhân cùng tồn tại và tác động cùng chiều trong một sự vật, hiện tượng thì chúng sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều đến sự hình thành kết quả, làm cho kết quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược lại, nếu các nguyên nhân tác động đồng thời theo các hướng khác nhau thì sẽ cản trở tác dụng của nhau hay thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau và ngăn cản sự xuất hiện của kết quả.
Tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa của nguyên nhân-kết quả
Mối liên hệ nhân quả có tính chất tác động qua lại lẫn nhau trong đó không những nguyên nhân sinh ra kết quả mà kết quả còn tác động trở lại đối với nguyên nhân đã sinh ra nó, làm cho những nguyên nhân cũng biến đổi bởi vì nguyên nhân sinh ra kết quả bao giờ cũng là một quá trình. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân chính là sự ảnh hưởng thường xuyên lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết quả, gây nên sự biến đổi giữa chúng. Nguyên nhân và kết quả thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau.Trong thế giới vô tận, nguyên nhân sinh ra kết quả, đến lượt nó kết quả chuyển hóa thành nguyên nhân mới sinh ra kết quả mới,.. là vô tận. Chính vì thế, trong thế giới ta không thể chỉ ra được đâu là nguyên nhân đầu tiên và đâu là kết quả cuối cùng.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN KẾT QUẢ VÀO PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NỢ XẤU TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Khái niệm và bản chất của nợ xấu
Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, đã quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã làm ăn thua lỗ liên tục, tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc thường quá ba tháng, căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm nợ thích hợp.
Nợ xấu theo khoản 6 Điều 2 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để XLRR tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của NHNN Việt Nam “là các khoản nợ thuộc các nhóm nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3), nợ nghi ngờ (nhóm 4) và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5)”.
Cụ thể nhóm 3 trở xuống gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày, đồng thời tại Điều 7 của Quyết định nói trên cũng quy định các ngân hàng thương mại căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Như vậy nợ xấu được xác định theo 2 yếu tố (định nghĩa của VAS):
Đã quá hạn trên 90 ngày
Khả năng trả nợ đáng lo ngại.
Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê – Liên hợp quốc,“về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”. Như vậy, nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá
hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của IAS đang được áp dụng phổ biến hiện hành trên thế giới.
Tình hình nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay:
Ở diễn biến chung, theo cơ quan chuyên trách của Ngân hàng Nhà nước đưa ra gần đây, đến hết tháng 2/2014, nợ xấu của toàn hệ thống vào khoảng 122.000 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ 3.86%). Nếu tính cả các khoản nợ được cơ cấu theo Quyết định 780, nợ xấu của toàn hệ thống lên tới gần 308.000 tỷ đồng (chiếm 9.71% dư nợ).
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10/2014, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết, việc xử lý nợ xấu thời gian qua đạt kết quả khả quan. Tính đến giữa tháng 9, nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng là 5,43% và đến cuối năm 2015, có thể đạt được mục tiêu đưa nợ xấu về mức 3%.
Tăng trưởng tín dụng tiếp tục có những cải thiện trong những tháng gần đây, cụ thể đến ngày 20/8 tăng 4,07%; đến ngày 22/9 tăng 6,62% và đến ngày 20/10 tăng 7,46% so với cuối năm 2013 (cùng kỳ tăng 6,43%). Theo Ngân hàng Nhà nước, tăng trưởng tín dụng chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, khoản đầu tư vào trái phiếu Chính phủ của các tổ chức tín dụng không tính vào số liệu tăng trưởng tín dụng.
Như vậy, từ khi triển khai Đề án xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng từ năm 2012 đến tháng 10/2014, cả nước đã giảm tỷ lệ nợ xấu từ 17% xuống còn 5,43%; giảm từ khoảng 460 ngàn tỷ đồng xuống còn 252 ngàn tỷ đồng (giảm 54,3%). VAMC đến hết tháng 9 đã mua vào khoảng 125 ngàn tỷ đồng nợ xấu và phấn đấu hết năm 2014 phấn đấu mua từ 130 đến 150 ngàn tỷ đồng nợ xấu. Hiện VAMC cũng đã bán được 4.000 tỷ đồng nợ xấu và tiếp tục bán khi thị trường đảm bảo việc bán nợ xấu có lợi nhất.
Tuy tỷ lệ nợ xấu trong thời gian vừa qua đã có sự giảm xuống rõ rệt sau khi thực hiện đề án xử lý nợ xấu đi cùng với tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tuy nhiên tình hình vẫn còn rất khó khăn nguy cơ nợ xấu tăng cao trở lại vẫn còn đe dọa hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả vào phân tích thực trạng nợ xấu của Việt Nam hiện nay.
Nguyên nhân sinh ra và xuất hiện trước kết quả nợ xấu của hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện nay:
Nợ xấu tăng cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân do cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay, dẫn đến tình hình kinh tế trong nước gặp rất nhiều khó khăn, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều đình trệ làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng trả nợ ngân hàng của doanh nghiệp. Ngoài ra việc thị trường bất động sản và chứng khoán trải qua giai đoạn tăng trưởng nóng cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến tình trạng nợ xấu ngân hàng cao như hiện nay.
Có thể nói hoạt động ngân hàng là hoạt động luôn tiềm ẩn rủi ro cao và để giúp giảm thiểu rủi ro đòi hỏi phải có sự hậu thuẫn của hệ thống chính sách pháp luật, tuy nhiên hệ thống khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng vẫn chưa hoàn thiện làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các ngân hàng, làm cho các ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong công tác xử lý và thu hồi nợ xấu. Đặc biệt các quy định pháp luật về xiết nợ xử lý tài sản đảm bảo.
Ngoài ra việc điều hành thị trường tài chính ngân hàng bằng quá nhiều các biện pháp hành chính cũng làm ảnh hưởng nhiều đến hoạt động ngân hàng.
Nguyên nhân nào kết quả nấy
Kết quả nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay do nhiều nhóm nguyên nhân gây ra như:
Thứ nhất là nhóm nguyên nhân từ sự yếu kém trong chính nội bộ của hệ thống ngân hàng Việt Nam, có thể nói đây là một nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nợ xấu nghiêm trọng như hiện nay:
Năng lực quản trị rủi ro của các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng còn yếu kém. Các ngân hàng chưa chú trọng đến công tác quản trị danh mục cho
vay dẫn đến việc tập trung cho vay vào một số ít khách hàng với dư nợ lớn làm gia tăng nguy cơ xảy ra nợ xấu. Ngoài ra một nguyên nhân không kém quan trọng nữa là công tác dự báo thị trường còn yếu kém dẫn đến tình trạng chạy theo lợi nhuận, tập trung cho vay vào các ngành nghề rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán,
Các quy định về công bố thông tin chưa đầy đủ và hiệu lực thi hành thấp gây ra sự thiếu minh bạch. Các ngân hàng lợi dụng kẽ hở này để tiến hành phân loại nợ không đúng quy định nhằm che dấu tỷ lệ nợ xấu thực của mình, tránh sự thanh tra kiểm tra của các cơ quan giám sát ngân hàng.
Nợ xấu tăng cao là hệ quả của quá trình tăng trưởng tín dụng quá nóng: Việc quá nhiều tổ chức tín dụng được thành lập và mở rộng quy mô trong thời gian ngắn đã dẫn đến tình trạng mở rộng tín dụng quá mức, nhằm tăng trưởng dư nợ các ngân hàng đã nới lỏng tiêu chuẩn cho vay dẫn đến các khoản nợ dưới chuẩn tăng rất cao và hình thành nợ xấu.
Thông tin tín dụng có độ tin cậy kém, trong khi đó đội ngũ nhân viên ngân hàng còn yếu kém trong các khâu phân tích thông tin dự báo thị trường dẫn đến việc ra quyết định tín dụng thiếu thận trọng.
Hoạt động mua bán, thâu tóm sáp nhập các công ty sân sau, sở hữu chéo ngân hàng đã tạo ra vòng luẩn quẩn của dòng tiền, điều này làm nguy cơ xảy ra nợ xấu tăng cao.
Ngoài ra còn một nguyên nhân nữa đó chính là đến từ sự xuống cấp về đạo đức của một bộ phận cán bộ ngân hàng, xảy ra tình trạng cán bộ ngân hàng cấu kết với khách hàng che giấu gian lận, vi phạm quy trình cho vay gây thiệt hại cho ngân hàng.
Thứ hai là nhóm nguyên nhân từ cơ chế xử lý nợ xấu:
Tiêu chí phân loại nợ chưa phản ánh đúng số lượng nợ xấu thực sự, dẫn đến số liệu nợ xấu có nhiều sai lệch.
Vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ.
Thị trường mua bán nợ chưa phát triển, do đó việc xử lý một số lượng nợ xấu lớn trong một khoảng thời gian ngắn là vô cùng khó khăn.
Thứ ba là nhóm nguyên nhân từ môi trường kinh doanh và hoạt động của các doanh nghiệp:
Tình hình kinh tế khó khăn đã làm một số lượng lớn các doanh nghiệp phá sản và giải thể.
Nhiều doanh nghiệp có năng lực tài chính yếu kém, hoạt động chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng, vốn chủ sở hữu nhỏ và khả năng thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh kém. Do đó khi môi trường kinh doanh xấu đi, chính sách vĩ mô của nền kinh tế thắt chặt, lãi suất tăng cao đã gây khó khăn cho việc trả nợ ngân hàng.
Nhiều doanh nghiệp dùng nợ ngắn hạn để đầu tư dài hạn, đặc biệt là đầu tư ngoại ngành vào BĐS, dẫn đến khi thị trường BĐS đóng băng thì mất khả năng trả nợ.
Sự làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp, đặc biệt là khối các doanh nghiệp nhà nước. Đây là các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn vay của các ngân hàng do có sự bảo lãnh của các cơ quan nhà nước.Tuy nhiên những doanh nghiệp này thường làm ăn thua lỗ, chi phí vốn lớn, năng suất lao động thấp lại đi vay ngân hàng với số lượng lớn.
Tác động trở lại của kết quả nợ xấu đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa của nguyên nhân-kết quả.
Có thể nói một trong những vấn đề nghiêm trọng của nền kinh tế Việt Nam đó chính là nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại. Chính tỷ lệ nợ xấu cao đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi hoạt động của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn do một lượng vốn lớn bị tắc nghẽn trong nợ xấu.Việc đối mặt với tỷ lệ nợ xấu cao đã làm cho các ngân hàng hạn chế cho vay đồng thời áp dụng tiêu chuẩn khắt khe trong việc phê duyệt cho vay, và chính điều này vô hình chúng đã khiến cho doanh nghiệp rất khó tiếp cận được với nguồn vốn vay, dẫn đến đình trệ sản xuất ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế, còn ngân
hàng thì sẽ ngày càng bị ăn mòn vào lợi nhuận. Một khi nợ xấu đã đến ngưỡng báo động, nếu cứ để các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp tự xử lý, thì số lượng doanh nghiệp dừng hoạt động, phá sản sẽ tiếp tục gia tăng do vẫn đang có nợ xấu tại ngân hàng, hàng hóa chậm tiêu thụ.
Khi nợ xấu càng kéo dài thì các chi phí bỏ ra về mặt hữu hình và vô hình đối với xử lý nợ xấu càng lớn. Về mặt hữu hình là việc các tài sản cầm cố tại ngân hàng sẽ ngày càng bị hao mòn, hư hỏng, giá trị và giá trị sử dụng sẽ mất dần, nếu nợ xấu được xử lý nhanh thì các tài sản này sẽ được đem ra sử dụng nhanh chóng tạo nên giá trị và giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Về mặt vô hình khi quá trình xử lý nợ xấu kéo dài, dẫn tới hệ số tín nhiệm của Việt Nam sẽ khó mà duy trì được mức tín nhiệm như hiện nay, điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường đầu tư.
Tình trạng BĐS xuống giá như thời gian vừa qua càng làm cho nhu cầu đối với BĐS giảm mạnh, hàng tồn kho về BĐS ngày càng tăng lên, các doanh nghiệp BĐS bắt buộc phải hạ giá bán nhưng vẫn không thể bán được, quá trình này diễn ra liên tục trong thời gian dài dẫn tới hiện tượng bán tháo, tuột dốc không phanh, khi đã dẫn tới tình trạng bán tháo mà vẫn không có người mua thì số tiền mà các doanh nghiệp BĐS bán được cũng không thể nào trả hết được nợ gốc cho ngân hàng.
Nợ xấu gia tăng gây mối nguy hại lớn cho nền kinh tế và trực tiếp ảnh hưởng đến các doanh nghiệp. Có thể thấy kết quả nợ xấu đã thành nguyên nhân mới làm xuất hiện các kết quả mới. Quá trình cứ như thế tiếp diễn tạo nên chuỗi nhân quả vô tận.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức nguyên nhân vấn đề nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, ta phải xuất phát từ bản thân sự vật để tìm ra nguyên nhân cho nó, phải căn cứ vào những hiện tượng có trước về mặt thời gian, phải căn cứ vào quan hệ sản sinh. Từ đó, có cách nhìn và đề ra các giải pháp để khắc phục và loại bỏ những nguyên nhân gây ra kết quả xấu, tiêu cực.
Khi nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã được xác định đúng bản chất sẽ giúp đề ra các giải pháp xử lý nợ xấu một cách hiệu quả. Tuy nhiên, chỉ với những cố gắng của ngành Ngân hàng trong xử lý nợ xấu là chưa đủ bởi vì nợ xấu là vấn đề của nền kinh tế đòi hỏi cần có sự tham gia, hỗ trợ tích cực của các cơ quan, bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp, đặc biệt trong việc phục hồi, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, xử lý hàng tồn kho, xử lý nợ trong xây dựng cơ bản, thúc đẩy đầu tư, tiêu dùng, tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, Nếu các giải pháp nêu trên không được triển khai đồng bộ thì việc xử lý nợ xấu không triệt để và không đạt kết quả như mong muốn.
Vì thế, để khắc phục nợ xấu chúng ta cần phải xây dựng lộ trình cụ thể và được thực hiện trong một thời gian dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Văn Mưa và cộng sự, 2014. Triết học. Tài liệu tham khảo cho học viên cao học & nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học, ĐH Kinh Tế Tp.HCM - Lưu hành nội bộ.
Phạm Thị Kim Ánh, 2013. Nợ xấu ngân hàng và các vấn đề xử lý, Tạp chí khoa học công nghệ, số 2, 2014.
Nguyễn Thị Thu Hằng, 2013. Nợ xấu ngân hàng Việt Nam: Một năm nhìn lại, Tạp chí Ngân hàng, số 6, 2013.
Thông cáo báo chí NHNN, 2014. Ý kiến của NHNN về tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Đào Thị Hồ Hương, 2013. Bàn về hướng xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Nguyễn Thị Thu Hiền, 2012. Giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Gia lai. Luận văn Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh. Trường Đại học Đà Nẵng.
Thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam và giải pháp tháo gỡ.
. [Ngày truy cập 30/11/2014].
Giải phóng mối lo nợ xấu.
. [Ngày truy cập 6/12/2014].
Liệu nợ xấu đã được hóa giải bớt?
. [Ngày truy cập 10/12/2014].
PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Số liệu nợ xấu tính đến quý 3/2014
Hình 1: Tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng từ đầu năm đến tháng 08/2014
Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước
Hình 2: Tình hình nợ xấu tại 17 ngân hàng đã công bố BCTC quý 3/2014
ĐVT:Tỷ đồng
Nguồn: vietstock.vn
Hình 3: nợ quá hạn và nợ xấu của 17 ngân hàng đã công bố BCTC quý 3/2014
ĐVT: Tỷ đồng
Nguồn: vietstock.vn
Phụ lục 2: Giải pháp xử lý nợ xấu từ góc nhìn chuyên gia
(Nguồn: tapchitaichinh.vn)
Nợ xấu đã và đang tác động tiêu cực đến việc lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế và tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Rất nhiều giải pháp được các chuyên gia “hiến kế” để xử lý.
Tiếp sức cho hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM)
Theo TS. Nguyễn Đức Thành – GĐ Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) - Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, nhìn vào quá trình tái cơ cấu ngân hàng và xử lý nợ xấu ngân hàng tại Việt Nam có thể thấy các bước thực hiện đi theo lộ trình tương đối rõ ràng: Hỗ trợ và khôi phục thanh khoản cho toàn hệ thống ngân hàng thương mại. Sáp nhập hoặc loại bỏ các ngân hàng và tổ chức tín dụng yếu kém trong hệ thống ngân hàng. Quá trình này được thực hiện trong các năm 2013-2014 và vẫn đang tiếp diễn. Như kinh nghiệm của tất cả các nước cần tái cơ cấu hệ thống NHTM, quá trình thu hẹp số lượng các tổ chức tài chính và ngân hàng đều diễn ra trong giai đoạn này.
Song song với hàng loạt biện pháp trên, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) yêu cầu các ngân hàng phải khai báo đầy đủ và chặt chẽ các khoản nợ xấu. NHTM buộc phải trích lập dự phòng với các mức quy định cụ thể. Quá trình xử lý nợ xấu ở Việt Nam có một nguyên tắc là không sử dụng ngân sách, đây là điều khác biệt so với các nước khi họ đều phải sử dụng nguồn lực từ Ngân sách hay khoản vay quốc tế. Có thể nói trọng tâm của thời điểm xử lý nợ là NHNN đã thực hiện thông qua hai biện pháp chính là: yêu cầu các ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro để bù đắp các khoản nợ xấu nhất và thành lập VAMC để tập trung xử lý các khoản nợ xấu trong hệ thống.
Với mô hình VAMC: Đây là một nỗ lực của NHNN trong bối cảnh bị ràng buộc về nguồn lực nhằm hỗ trợ hệ thống ở hai khía cạnh: giải quyết các khoản nợ xấu theo hướng tập trung và chuyên môn hóa hơn và hỗ trợ thanh khoản khi cần thiết. Tuy nhiên, do từ nửa cuối năm 2013, thanh khoản không còn là vấn đề lớn của hệ
thống ngân hàng, nên VAMC chỉ tập trung vào việc quản lý và rà soát các khoản nợ xấu trong tiêu chuẩn của VAMC.
Theo TS. Thành, do nhiều yếu tố đặc thù nên việc giải quyết chỉ có thể được thông qua một trong các lựa chọn sau đây: Chính phủ phải sử dụng một nguồn lực tài chính để tiếp sức cho hệ thống ngân hàng TM, tạm thời mua lại các khoản nợ xấu và tái cấp vốn cho những NHTM yếu kém và cần có sự hỗ trợ trực tiếp. Thay đổi mạnh mẽ các quy định pháp luật liên quan đến phát mãi, mua bán tài sản thế chấp hoặc công trình, dự án liên quan đến các khoản nợ xấu. Trao thêm những quyền đặc biệt cho VAMC để công ty này có thể thực hiện việc xử lý nợ xấu tại các NHTM.
Sử dụng một phần nguồn lực của NHNN để trực tiếp xử lý các NHTM có vấn đề và các khoản nợ xấu có liên quan, có thể đi liền với quá trình quốc hữu hóa tạm thời hoặc yêu cầu sáp nhập một số ngân hàng kém lành mạnh. Vay một khoản tiền thích hợp từ các tổ chức tài chính quốc tế và phối hợp với họ trong việc giám sát quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và các khía cạnh có liên quan của nền kinh tế.
Dù áp dụng bất cứ giải pháp nào trong số các giải pháp nền trên, thì cũng cần lưu ý rằng việc giải quyết nợ xấu không phải là một việc riêng của NHNN và hệ thống NHTM. Đây là việc liên quan đến toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi sự tham gia và trách nhiệm của toàn bộ các cơ quan nhà nước khác, bao gồm cả Chính phủ và Quốc hội, cùng với hệ thống doanh nghiệp nói chung Đồng thời, đây cũng là là quá trình huy động nguồn lực từ bên ngoài hệ thống ngân hàng để giúp hệ thống lấy lại cân bằng, xử lý nợ xấu, và phục hồi chức năng trung gian tài chính.
Kiểm soát từ khâu cho vay
Để quản lý nợ xấu, tối đa hóa lợi nhuận cho các ngân hàng, Giám đốc dịch vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp của Công ty Grant Thornton Việt Nam Matthew Lourey “hiến kế”: Khi cho vay, các ngân hàng thương mại cần phải kiểm soát mục đích sử dụng các khoản vay của doanh nghiệp; có chứng từ vay vốn rõ ràng; cũng như duy trì các kênh liên lạc giữa ngân hàng và doanh nghiệp để có thông tin
trao đổi kịp thời. Ngược lại, các doanh nghiệp cũng phải tiến hành trích lập dự phòng, khi có những phát sinh khoản thu khó đòi.
Thêm vào đó, doanh nghiệp cũng có thể xử lý nợ xấu thông qua việc bán nợ cho các tổ chức mua bán nợ chuyên nghiệp. Việc bán nợ này cũng có thể coi là phương án xử lý nợ xấu nhanh nhất, giúp chủ nợ thu hồi một phần vốn kinh doanh để phục vụ cho các nhu cầu và cơ hội kinh doanh mới, nhằm cải thiện tình hình tài chính.
Tái cấu trúc doanh nghiệp là một trong những gợi ý cụ thể của vị chuyên gia này trong việc xử lý nợ xấu. “Việc ngân hàng yêu cầu khách hàng thực hiện tái cấu trúc đưa lại kết quả là công ty có được hoạt động bền vững và không bị rơi vào tình trạng phá sản”, ông Matthew Lourey nhấn mạnh..
10 giải pháp của VAFI
Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) vừa có bản đề xuất 10 giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng.
Thứ nhất, các ngân hàng chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu, chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Việc làm này, theo VAFI, sẽ giúp ngân hàng thương mại nhanh chóng bù đắp tổn thất, giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp. Đồng thời, có thể giảm quỹ lương nhưng làm tăng khả năng tài chính nội tại của ngân hàng.
Thứ hai, các ngân hàng cần có chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý trong giai đoạn khó khăn này. Cách thức này giúp giảm chi phí một cách hợp lý nhằm hỗ trợ cho việc tăng mức trích lập dự phòng tỷ lệ nợ xấu.
Thứ ba, Nhà nước cần chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo 3 phương pháp. Nếu doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển.
Phương pháp thứ hai là chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời, chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần
nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. Theo lý giải của VAFI, đây là cách thức xử lý khá phổ biến theo thông lệ thế giới. Đối với Việt Nam, từ trước tới nay đã có rất nhiều trường hợp thành công, không những cứu được doanh nghiệp khỏi nguy cơ giải thể phá sản mà còn bảo toàn được nguồn vốn của các ngân hàng.
Để các điều kiện cơ bản để tiến trình chứng khoán hóa được thành công, theo VAFI, trong vai trò đồng chủ nợ các ngân hàng cần tích cực nâng cao tính cộng đồng hơn nữa, phối hợp với doanh nghiệp để xử lý nợ xấu. Đồng thời, các ngân hàng nên sử dụng các công ty con của mình như công ty quản lý mua bán nợ, công ty chứng khoán hay công ty quản lý quỹ để tham gia chủ động vào tiến trình chứng khoán hóa.
Thứ tư, ngân hàng cần tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong ngành ngân hàng lên 40%. Đồng thời cũng cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài lên mức 25% hoặc 30% vốn điều lệ.
Thứ năm, Chính phủ cần cho phép một số ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh, quản trị doanh nghiệp tốt mua lại những nhà băng yếu kém. Những ngân hàng yếu kém, theo định nghĩa của VAFI, là những ngân hàng có quản trị kinh doanh yếu kém, có tỷ lệ nợ xấu rất cao.
Thứ sáu, Ngân hàng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng thật sự mạnh mua lại những ngân hàng yếu kém. Tuy nhiên, việc mua lại này cần sự hỗ trợ từ tài chính từ phía Ngân hàng nhà nước.
Thứ bảy, miễn các loại thuế (thuế GTGT, thuế Thu nhập doanh nghiệp) cho các hoạt động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ. VAFI cho rằng, việc miễn các loại thuế về hoạt động mua bán nợ sẽ làm giảm tổn thất về nợ xấu, thúc đẩy các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường mua bán nợ. Đồng thời, thực hiện giải pháp này sẽ không làm tốn kém ngân sách nhà nước.
Thứ tám, Nhà nước cần miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho nghiệp vụ phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính cho rằng, điều này giúp
giảm lãi suất huy động, và giúp hệ thống ngân hàng thương mại có điều kiện huy động vốn dài hạn, thay vì ngắn hạn, đồng thời thúc đẩy tiến trình chứng khoán hóa các khoản nợ.
Thứ chín, phá băng thị trường bất động sản. Hiệp hội này lý giải, trong giai đoạn hiện nay vẫn còn hàng triệu người chưa có khả năng mua nhà, nếu giá nhà chỉ ở mức vài trăm triệu đồng một căn thì nhu cầu thực tế là rất lớn. Vì thế, nhà nước cần nhanh chóng biến sáng kiến căn hộ nhỏ tối thiểu 25m2 thành hiện thực.
Đồng thời, theo VAFI, Nhà nước nên giảm 50% thuế GTGT trong các ngành kinh tế đang gặp khó khăn như xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, kinh doanh bất động sản, sửa chữa tàu biển, vận tải biển nội địa, cơ khí.
Thứ mười, Nhà nước nên cơ cấu lại phân bổ ngân sách cho theo hướng tăng chi ngân sách cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng. Không nên đặt mục tiêu tăng thâm hụt ngân sách mà phải là tăng chi ngân sách cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng trên cơ sở giảm chi ở các ngành lĩnh vực chưa cấp thiết.

File đính kèm:

  • docxtieu_luan_van_dung_cap_pham_tru_nguyen_nhan_va_ket_qua_cua_p.docx