Tiểu luận Vận dụng lý thuyết về lợi ích kinh tế và đặc trưng về quan hệ phân phối để đưa ra các giải pháp giúp Việt Nam đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích phối thu nhập nhằm đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích ở Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Vận dụng lý thuyết về lợi ích kinh tế và đặc trưng về quan hệ phân phối để đưa ra các giải pháp giúp Việt Nam đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích phối thu nhập nhằm đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Vận dụng lý thuyết về lợi ích kinh tế và đặc trưng về quan hệ phân phối để đưa ra các giải pháp giúp Việt Nam đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích phối thu nhập nhằm đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích ở Việt Nam
KTCT Nhóm 9 Thảo luận bc - kinh tế vĩ mô 1 bài thảo luận nhóm 9 trường Đại học Thương Mại Kinh tế chính trị Mác- Lênin (Trường Đại học Thương mại) lOMoARcPSD|12184112 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH -----🙦🙦🙦🙦🙦----- BÀI THẢO LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN Đề tài: Vận dụng lý thuyết về lợi ích kinh tế và đặc trưng về quan hệ phân phối để đưa ra các giải pháp giúp Việt Nam đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích phối thu nhập nhằm đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích ở Việt Nam. Giảng viên: Đặng Thị Thu Giang Lớp học phần: 2203RLCP1211 Nhóm: 9 Hà Nội, tháng 4 năm 2022 1 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 9 ST T Tên thành viên MSV Đánh giá 81 Nguyễn Thị Thúy Quỳnh 21D100323 /10 82 Trịnh Thị Quỳnh 21D100369 /10 83 Nguyễn Quang Sáng 21D100324 /10 84 Bùi Đức Tài 21D100370 /10 85 Nguyễn Phương Thảo (thư kí) 21D100371 /10 86 Nguyễn Xuân Thịnh 21D100326 /10 87 Lý Thị Thu 21D100327 /10 88 Nguyễn Thị Thu 21D100372 /10 89 Nguyễn Anh Thư 21D100328 /10 90 Trần Quỳnh Thư 21D100373 /10 2 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 PHỤ LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................................................4 B. PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................................................4 Phần I. Cơ sở lý thuyết............................................................................................................................4 1. Lợi ích kinh tế..................................................................................................................................4 1.1. Khái niệm lợi ích kinh tế..........................................................................................................4 1.2. Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế..................................................................................4 1.3. Vai trò của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế - xã hội.................................................5 2. Quan hệ lợi ích kinh tế.....................................................................................................................7 2.1. Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế.............................................................................................7 2.2. Sự thống nhất và mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế.......................................................7 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế..................................................................8 2.4. Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh tế thị trường..........................................9 2.5. Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu...............................12 2.6. Vai trò của Nhà nước trong đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích...........................................13 Phần II. Cơ sở thực tiễn.........................................................................................................................15 1. Nêu thực trạng về lợi ích kinh tế và quan hệ phân phối của Việt Nam hiện nay...........................15 1.1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam............................................................................................15 1.2. Thực trạng lợi ích kinh tế Việt Nam hiện nay.........................................................................16 1.3. Thực trạng quan hệ phân phối ở Việt Nam hiện nay..............................................................19 2. Đưa ra giải pháp giúp Việt Nam đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích phối thu nhập nhằm đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích ở Việt Nam......................................................................................21 C. PHẦN KẾT LUẬN...............................................................................................................................16 3 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 A. PHẦN MỞ ĐẦU Lợi ích kinh tế và những đặc trưng về quan hệ phân phối là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự sáng tạo của các cá nhân trong một xã hội, các quan hệ lợi ích chủ yếu trong nền kinh tế thị trường và những biện pháp đảm bảo hài hoà lợi ích kinh tế trong phát triển ở Việt Nam. Đặc biệt vấn đề lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề kinh tế lớn của Nhà nước mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế hiện nayTrên cơ sở đó để đưa ra hướng giải quyết giúp Việt Nam đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích phối thu nhập nhằm đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích ở Việt Nam. Sau đây là một số phân tích cụ thể dựa vào lý luận và thực tiễn của nhóm 9 chúng tôi . B. PHẦN NỘI DUNG Phần I. Cơ sở lý thuyết 1. Lợi ích kinh tế 1.1. Khái niệm lợi ích kinh tế Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà sự thỏa mãn nhu cầu này phải được nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội đó. Trong mỗi điều kiện lịch sử, tùy từng bối cảnh mà vai trò quyết định đối với hoạt động của con người là lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần. Nhưng xuyên suốt quá trình tồn tại của con người và đời sống xã hội thì lợi ích vật chất đóng vai trò quyết định thúc đẩy hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức cũng như xã hội. Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động kinh tế của con người. 1.2. Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế Về bản chất, lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các chủ thể trong nền sản xuất xã hội. Các thành viên trong xã hội xác lập các quan hệ kinh tế với nhau vì trong quan hệ đó hàm chứa những lợi ích kinh tế mà họ có thể có được. Về khía cạnh này, Ph. Ăngghen viết: “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích”. Các quan hệ xã hội luôn mang tính lịch sử, do vậy, lợi ích kinh tế trong mỗi giai đoạn cũng phản ánh bản chất xã hội của giai đoạn lịch sử đó. Về biểu hiện, gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích tương ứng: lợi ích của chủ doanh nghiệp trước hết là lợi nhuận, lợi ích của người lao động là thu nhập. Với mỗi cá 4 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 nhân, trong các mối quan hệ xã hội tổng hợp gắn với con người đó. Về lâu dài, đã tham gia vào hoạt động kinh tế thì lợi ích kinh tế là lợi ích quyết định. Nếu không thấy được vai trò này của lợi ích kinh tế sẽ làm suy giảm động lực hoạt động của các cá nhân. Nghiên cứu về sự phân phối giá trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cho ta thấy, mỗi chủ thể tham gia vào quá trình phân phối giá trị thặng dư đó, với vai trò của mình mà có được những lợi ích tương ứng. Lợi ích kinh tế thu được phụ thuộc vào địa vị của mỗi chủ thể trong quan hệ kinh tế . Chẳng hạn họ là chủ sở hữu hay nhà quản lý, là lao động làm thuê thì sẽ hưởng lợi ích kinh tế khác nhau. 1.3. Vai trò của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế - xã hội Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế - xã hội Trong nền kinh tế thị trường, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất tùy thuộc vào mức thu nhập. Do đó, thu nhập càng cao, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành động để nâng cao thu nhập của mình. Thực hiện lợi ích kinh tế của các giai tầng xã hội, đặc biệt của người dân vừa là cơ sở bảo đảm cho sự ổn định và phát triển xã hội, vừa là biểu hiện của sự phát triển... “Nếu nước độc lập mà dân không tưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Về khía cạnh kinh tế, tất cả các chủ thể kinh tế đều hành động trước hết vì lợi ích chính đáng của mình. Tất nhiên, lợi ích này phải đảm bảo trong sự liên hệ với các chủ thể khác trong xã hội. Vì lợi ích chính đáng của mình, người lao động phải tích cực lao động sản xuất, nâng cao tay nghề, cải tiến công cụ lao động; chủ doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đáp ứng các nhu cầu, thị hiếu của khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong phục vụ người tiêu dùng... Tất cả những điều đó đều có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế và nâng cao đời sống của người dân. Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc vào địa vị của con người trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội, vì vậy để thực hiện được lợi ích của mình, các chủ thể kinh tế phải đấu tranh với nhau để thực hiện quyền làm chủ tư liệu sản xuất. Đó là cội nguồn sâu xa của các cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong lịch sử. “... động lực của toàn bộ lịch sử hiện đại,... chính là cuộc đấu tranh của ba giai cấp và những xung đột về lợi ích của họ” và trước hết vấn đề lớn đó là ở “những lợi ích kinh tế - để thỏa mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần”. 5 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện vật chất cho sự hình thành và thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa của các chủ thể xã hội. Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế - xã hội. 2. Quan hệ lợi ích kinh tế 2.1. Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa các chủ thể kinh tế nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối quan hệ với trình độ của lực lượng sản xuất và kiến thức thượng tầng tương ứng của một giai đoạn phát triển xã hội nhất định. Như vậy, quan hệ lợi ích kinh tế có biểu hiện hết sức phong phú, quan hệ đó có thể là các quan hệ theo chiều dọc, giữa một tổ chức kinh tế với một cá nhân trong tổ chức kinh tế đó. Cũng có thể theo chiều ngang giữa các chủ thể, các cộng đồng người, giữa các tổ chức, các bộ phận khác nhau hợp thành nền kinh tế. Trong điều kiện hội nhập ngày nay, quan hệ lợi ích kinh tế còn phải xét tới quan hệ giữa quốc gia với phần còn lại của thế giới. 2.2. Sự thống nhất và mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế Sự thống nhất trong quan hệ kinh tế Quan hệ lợi ích kinh tế thống nhất với nhau về một chủ thể có thể trở thành bộ phận cấu thành của chủ thể khác. Do đó, lợi ích của chủ thể này được thực hiện thì lợi ích của chủ thể khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếp được thực hiện. Doanh nghiệp hoạt động càng có hiệu quả, lợi ích doanh nghiệp càng được đảm bảo thì lợi ích của người lao động càng được thực hiện tốt: việc làm được đảm bảo, thu nhập ổn định và được nâng cao... Ngược lại, lợi ích của người lao động càng được thực hiện tốt thì người lao động càng tích cực làm việc, trách nhiệm với doanh nghiệp càng cao và từ đó lợi ích của doanh nghiệp càng được thực hiện tốt. Trong nền kinh tế thị trường, sản lượng đầu ra và các yếu tố đầu vào đều được thực hiện thông qua thị trường. Điều đó có nghĩa là, mục tiêu của các chủ thể chỉ được thực hiện trong mối quan hệ và phù hợp với mục tiêu của các chủ thể khác. Như vậy, khi các chủ thể kinh tế hành động vì mục tiêu chung và các mục tiêu thống nhất với nhau thì các lợi ích kinh tế của các chủ thể đó thống nhất với nhau. Sự mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau vì các chủ thể kinh tế có thể hành động theo những phương thức khác nhau để thực hiện các lợi ích của mình dẫn đến người này thu được lợi ích kinh tế thì người kia mất đi. Sự khác nhau đó đến mức đối lập thì trở thành mâu thuẫn. 6 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 Lợi ích của những chủ thể kinh tế có quan hệ trực tiếp trong việc phân phối kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng có thể mâu thuẫn với nhau vì tại một thời điểm kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh là xác định. Do đó, thu nhập của chủ thể này tăng lên thì thu nhập của chủ thể khác giảm xuống. Khi có mâu thuẫn thì việc thực hiện lợi ích này có thể sẽ ngăn cản, thậm chí làm tổn hại đến các lợi ích khác. Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế là cội nguồn của các xung đột xã hội. Trong các hình thức lợi ích kinh tế, lợi ích cá nhân là cơ sở, nền tảng của các lợi ích khác, bởi vì: thứ nhất, nhu cầu cơ bản, sống còn trước hết thuộc về các cá nhân tự quyết định hoạt động của các cá nhân; thứ hai, lợi ích thực hiện cá nhân là cơ sở để thực hiện các lợi ích khác vì cá nhân cấu thành nên tập thể, giai cấp, xã hội... ra đó, lợi ích cá nhân chính đáng cần được pháp luật tôn trọng, bảo vệ. 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Là phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, lợi ích kinh tế trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, mà điều này lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế của các chủ thể càng tốt. Thứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội. Quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định vị trí, vai trò của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội. Do đó, không có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ sản xuất và trao đổi, mà nó là sản phẩm của những quan hệ sản xuất và trao đổi, là hình thức tồn tại và biểu hiện của các quan hệ sản xuất và trao đổi trong nền kinh tế thị trường. Thứ ba, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan, thông qua nhiều loại công cụ, trong đó có các chính sách kinh tế - xã hội. Trong các chính sách kinh tế - xã hội, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước làm thay đổi mức thu nhập và tương quan thu nhập của các chủ thể kinh tế. Khi mức thu nhập và tương quan thu nhập thay đổi, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng thay đổi, tức là lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể cũng thay đổi. Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế. Bản chất của kinh tế thị trường là mở cửa hội nhập. Khi mở cửa hội nhập, các quốc gia có thể gia tăng lợi ích kinh tế từ thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế của 7 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 các doanh nghiệp, hộ gia đình sản xuất hàng hóa tiêu thụ trên thị trường nội địa có thể bị ảnh hưởng bởi cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài. Thông qua mở cửa hội nhập đất nước có thể phát triển nhanh hơn nhưng cũng phải đối mặt với các nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường... 2.4. Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh tế thị trường Một là, quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động. Người lao động là người có đủ thể lực và trí lực, có khả năng lao động, khi họ bán sức lao động sẽ nhận được tiền lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động. Bản chất của tiền lương là giá cả của hàng hóa sức lao động, chỉ đủ để tái sản xuất sức lao động. Lợi ích kinh tế của người sử dụng lao động thể hiện tập trung ở lợi nhuận kinh tế mà họ thu được trong quá trình kinh doanh. Lợi ích kinh tế của người lao động tập trung thể hiện ở mức thu nhập mà họ nhận được từ việc bán sức lao động của mình cho người sử dụng lao động. Lợi ích kinh tế của người lao động và người sử dụng lao động có quan hệ chặt chẽ, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. => Để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, người lao động và người sử dụng lao động đã thành lập các tổ chức riêng. Công đoàn là tổ chức quan trọng nhất bảo vệ quyền lợi người lao động. Hai là, quan hệ lợi ích kinh tế giữa những người sử dụng người lao động Trong cơ chế thị trường, những người sử dụng lao động vừa là đối tác, vừa là đối thủ của nhau từ đó tạo ra sự thống nhất và mâu thuẫn giữa quan hệ lợi ích của họ. Những người sử dụng lao động liên kết và cạnh tranh với nhau trong ứng xử với người lao động. Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế của những người sử dụng lao động làm họ cạnh tranh quyết liệt. Đồng thời, những người thu được nhiều lợi nhuận sẽ phát triển nhanh chóng. Những người sử dụng lao động không chỉ cạnh tranh cùng ngành mà còn cạnh tranh giữa các ngành bằng việc di chuyển vốn (tư bản) từ ngành này sang ngành khác. Sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa những người sử dụng lao động làm cho họ liên kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau. Những người sử dụng lao động cũng có những nghiệp đoàn, hội nghề nghiệp riêng. Sự thống nhất về lợi ích kinh tế làm cho những người sử dụng lao động liên kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Ba là, quan hệ lợi ích giữa những người lao động. Để đạt được lợi ích kinh tế của mình, người lao động không chỉ phải quan hệ với người sử dụng lao động mà còn phải quan hệ với nhau. Nếu có nhiều người bán sức lao động, người lao động phải cạnh tranh với nhau. Hậu quả là làm cho tiền lương người lao động bị giảm xuống, 8 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 một bộ phận người lao động còn bị sa thải. Nếu những người lao động thống nhất với nhau, họ có thể thực hiện được các yêu sách của mình (ở một mức nhất định) đối với giới chủ (những người sử dụng lao động). Để hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế trong nội bộ, đặc trưng với những người sử dụng lao động, những người lao động đã thành lập tổ chức riêng. Bốn là, quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội Trong cơ chế thị trường, cá nhân tồn tại dưới nhiều hình thức. Người lao động, người sử dụng lao động họ đều có lợi ích cá nhân và quan hệ chặt chẽ với lợi ích xã hội. Nếu người lao động và người sử dụng lao động làm việc theo đúng quy định của pháp luật và thực hiện được các lợi ích kinh tế của mình thì họ đã góp phần phát triển nền kinh tế, thực hiện lợi ích kinh tế của xã hội. Khi lợi ích kinh tế của xã hội được thực hiện, xã hội phát triển sẽ tạo lập môi trường để người lao động và người sử dụng lao động thực hiện tốt hơn lợi ích kinh tế của mình. Ngược lại, nếu giữa người lao động và người sử dụng lao động nảy sinh mâu thuẫn không giải quyết được; hoặc người lao động và người sử dụng lao động cộng tác là hàng giả, hàng nhái, trốn thuế,... thì lợi ích kinh tế xã hội sẽ bị tổn hại. Biểu hiện là nền kinh tế chậm phát triển, chất lượng đời sống người dân chậm được cải thiện... Từ đó ảnh hưởng xấu đến lợi ích kinh tế của người lao động và người sử dụng lao động. Sự tồn tại và phát triển của cộng đồng quyết định sự tồn tại và phát triển của cá nhân nên lợi ích xã hội đóng vai trò định hướng cho lợi ích cá nhân và các hoạt động thực hiện lợi ích cá nhân. Lợi ích xã hội là cơ sở của sự thống nhất các lợi ích cá nhân, tạo ra sự thống nhất trong hoạt động của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Ph. Ăngghen từng khẳng định: “Ở đâu không có lợi ích chung thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục đích và cũng không thể có sự thống nhất về hành động được”. Quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trên cho thấy: lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có quan hệ nhiều chiều. Các cá nhân, tổ chức hoạt động trong cùng ngành, lĩnh vực, liên kết với nhau trong hành động để thực hiện tốt hơn lợi ích riêng (lợi ích cá nhân, tổ chức) của họ hình thành nên “lợi ích nhóm”. Đó là các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức chính trị - xã hội, các nhóm dân cư chung lợi ích theo vùng, theo sở thích. Các cá nhân, tổ chức hoạt động trong các ngành, lĩnh vực khác nhau nhưng có mối liên hệ với nhau, liên kết với nhau trong hành động để thực hiện tốt hơn lợi ích của mình hình thành nên “nhóm lợi ích”. Đó là mô hình liên kết 4 nhà trong nông nghiệp: nhà nông - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học - nhà nước; mô hình liên kết trên thị trường nhà ở: nhà doanh nghiệp kinh doanh bất động sản - ngân hàng thương mại - người mua nhà;... 9 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 “Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” nếu phù hợp lợi ích quốc gia và không tổn hại đến những lợi ích khác thì cần được tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện thực hiện vì đất nước có thêm động lực để phát triển; ngược lại, khi chúng mâu thuẫn lợi ích quốc gia và gây tổn hại những lợi ích khác thì cần bị ngăn chặn. Trong thực tế, “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có sự tham gia của công chức, viên chức hoặc cơ quan công quyền sẽ tác động tiêu cực đến lợi ích xã hội và các lợi ích kinh tế khác vì quyền lực nhà nước bị lạm dụng và phục vụ cho lợi ích cá nhân. Điều cần lưu ý, “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” tiêu cực thường không lộ diện. Vì vậy, việc chống “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” tiêu cực là vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội đòi hỏi việc chống “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” tiêu cực phải được thực hiện quyết liệt, thường xuyên. 2.5. Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu Mặc dù có nhiều quan hệ lợi ích đan xen, tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có hai phương thức cơ bản để thực hiện lợi ích kinh tế gồm: Thứ nhất, thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường. Các quan hệ lợi ích, các chủ thể lợi ích kinh tế mặc dù đa dạng, song để có thể thực hiện được lợi ích của mình, trong bối cảnh kinh tế thị trường cần phải căn cứ vào các nguyên tắc của thị trường. Đây là phương thức phổ biến trong mọi nền kinh tế thị trường, bao gồm cả kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thứ hai, thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trò của các tổ chức xã hội. Khi thực hiện lợi ích kinh tế, nếu chỉ căn cứ theo nguyên tắc thị trường, tất yếu sẽ dẫn đến những hạn chế về mặt xã hội. Do đó, để khắc phục những hạn chế của phương thức thực hiện theo nguyên tắc thị trường, phương thức thực hiện lợi ích dựa trên chính sách của nhà nước và vai trò của các tổ chức xã hội cần phải được chú ý nhằm tạo sự bình đắng và thúc đẩy tiến bộ xã hội. 2.6. Vai trò của Nhà nước trong đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích Thứ nhất, bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế. Môi trường kinh tế thuận lợi góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh tế, từ đó nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế. Tạo môi trường kinh tế thuận lợi gồm sự ổn định về chính trị, kết cấu hạ tầng kinh tế được xây dựng, hoàn thiện, các chính sách kinh tế phải phù hợp với sự vận động phát triển của nền kinh tế, hệ thống luật pháp đồng bộ, bảo vệ lợi ích của chủ thể 10 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 kinh tếNgoài ra còn phải tạo lập môi trường văn hoá phù hợp với sự phát triển kinh tế thị trường tạo ra con người năng động, sáng tạo, giữ chữ tín. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã thực hiện rất tốt việc tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, trước hết là giữ vững ổn định về chính trị. Nhờ đó, các nhà đầu tư trong và ngoài nước rất yên tâm khi tiến hành đầu tư. Thứ hai, điều hòa lợi ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã hội. Lợi ích là một trong những động lực hoạt động của con người, của sự biến đổi xã hội và là một trong những vấn đề căn bản, có ý nghĩa quyết định bản chất các mối quan hệ trong xã hội. Và sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi ích kinh tế của một bộ phận dân cư được thực hiện rất khó khăn, hạn chế. Vì vậy, nhà nước cần có các chính sách phân phối thu nhập nhằm bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế, và phải tính đến một số vấn đề sau: phải thừa nhận sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các tập thể, các cá nhân là khách quan; nhưng mặt khác phải ngăn chặn sự chênh lệch thu nhập quá đáng. Thêm nữa, phân phối không chỉ phụ thuộc vào quan hệ sở hữu, mà còn phụ thuộc vào sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao, hàng hóa, dịch vụ càng dồi dào, chất lượng càng tốt, thì thu nhập của các chủ thể càng lớn. Do đó, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát triển khoa học – công nghệ sẽ góp phần nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế. Đó là những điều kiện vật chất để thực hiện ngày càng đầy đủ sự công bằng trong phân phối. Thứ ba, kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển xã hội. Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không được giải quyết sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế. Do đó, khi các mâu thuẫn phát sinh cần được giải quyết kịp thời. Hiện nay, công bằng trong phân phối có hai quan niệm chính: công bằng theo mức độ và công bằng theo chức năng. Mỗi quan niệm đều có ưu điểm và nhược điểm, vì vậy cần sử dụng kết hợp cả hai quan niệm này. Tuỳ vào điệu kiện giai đoạn cụ thể mà có những chính sách kế hoạch phù hợp. Để lợi ích kinh tế thật sự là động lực của các hoạt động kinh tế, người lao động và người sử dụng lao động phải có nhận thức và hành động đúng trong lĩnh vực phân phối thu nhập. Do vậy, tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế - xã hội là những giải pháp rất cần thiết để loại bỏ những đòi hỏi không hợp lý về thu nhập. Trong trường hợp người lao động và người sử dụng lao động không tự nhận thức và thực hiện được. Nhà nước cần có sự tư vấn, điều tiết hợp lý. 11 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 Ngoài ra, trong cơ chế thị trường, thu nhập từ các hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu, tham nhũng... ngày càng gia tăng, càng làm tổn hại lợi ích kinh tế của các chủ thể làm ăn chân chính. Để chống các hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế, trước hết, phải có bộ máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực. Theo đó, việc thực hiện công khai, minh bạch mọi cơ chế, chính sách và quy định của Nhà nước sẽ giúp người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ được quyền lợi. Thứ tư, giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế. Mọi mâu thuẫn xã hội đều có nguồn gốc từ mâu thuẫn giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng, tầng lớp, giai cấp, quốc gia mà ra. Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không được giải quyết sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế Nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là phải có sự tham gia của các bên liên quan, có nhân nhượng và phải đặt lợi ích đất nước lên trên hết. Tuy ngăn ngừa là chính, nhưng khi mâu thuẫn xảy ra giữa các lợi ích kinh tế bùng phát có thể dẫn đến xung đột (đình công, bãi công...). Khi đó, cần có sự tham gia hoà giải của các tổ chức xã hội có liên quan, đặc biệt là nhà nước. Phần II. Cơ sở thực tiễn 1. Nêu thực trạng về lợi ích kinh tế và quan hệ phân phối của Việt Nam hiện nay 1.1. Thực trạng lợi ích kinh tế Việt Nam hiện nay Sự say mê làm giàu hiện nay của xã hội ta thực chất là sự say mê các lợi ích kinh tế - lợi ích vật chất. Thế nhưng đời sống con người không phải chỉ có kinh tế, vật chất. Đời sống của một xã hội cũng không phải chỉ có vật chất. Vào những thời điểm nhất định của tiến trình phát triển của xã hội, có thể phương diện này hay phương diện kia của đời sống xã hội được ưu tiên, được tập trung nhiều hơn. Thế nhưng, điều ấy không có nghĩa là hạ thấp hay bỏ qua các mặt các phương diện khác. Sự tồn tại và phát triển của đời sống, xã hội là một quá trình liên tục. Do đó, sự gián đoạn hay gãy khúc của mặt này hay mặt kia của đời sống xã hội bao giờ cũng gây ra những tổn thương, những biến động, thậm chí tạo ra những lực lượng phá vỡ hoặc đẩy lùi quá trình phát triển của toàn thể cộng đồng. Chính vì thế, trong thời gian vừa qua, do bị cuốn hút vào thực hiện các nhu cầu tồn tại tối thiểu - nhu cầu vật chất - mà ta ít có điều kiện quan tâm nhiều đến các phương diện, các khía cạnh khác của cuộc sống xã hội. Điều đó trong chừng mực nhất định đã dẫn đến việc làm nảy sinh một số vấn đề về văn hoá xã hội khác khá bức xúc. Vì vậy, trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, để phát triển cộng đồng một cách toàn diện và bền vững cần sớm tạo lập một cơ chế kết hợp hài hoà một số quan hệ sau: Thứ nhất, quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá - xã hội. 12 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 Đây là một quan hệ cơ bản, bao trùm và chi phối hầu như toàn bộ đời sống xã hội. Thế nhưng nó không hề trừu tượng mà hết sức cụ thể trong cộng đồng. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các quan hệ kinh tế thời gian qua cũng gây nên sự thay đổi hết sức căn bản các vấn đề văn hoá - xã hội. Có thể nói, sự chuyển đổi trong lĩnh vực văn hoá - xã hội chủ yếu mang tính tự phát và có rất nhiều biểu hiện lúng túng. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để tạo lập được một cơ chế linh hoạt: có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế đồng thời thúc đẩy sự phát triển phong phú và đa dạng các lĩnh vực văn hoá - xã hội. Đó là một cơ chế được thiết lập và chế định thống nhất từ trung ương đến địa phương, được quản lý, điều tiết và tài trợ, tài chính theo các cấp chính quyền của nhà nước. Dĩ nhiên, đây là một cơ chế mở để có thể thu hút và huy động được các nguồn tài chính và tài trợ trong nhân dân. Chỉ có như thế mới tạo cho xã hội phát triển một cách thực sự bền vững. Thứ hai, lợi ích kinh tế và các vấn đề chính sách xã hội. Trong giai đoạn kinh tế thị trường mở cửa hiện nay, sự đề cao lợi ích kinh tế của các chủ thể hoạt động bị quy định bởi tính tất yếu khách quan chứ không phải do ý muốn chủ quan của bất cứ cá nhân nào. Đó chẳng qua chỉ là sự tuân thủ các quy luật khách quan đang chi phối đời sống kinh tế xã hội đất nước. Vấn đề là, trên cơ sở những thành quả hết sức đáng khích lệ do nền kinh tế thị trường mang lại, ta cần sớm tập trung và giải quyết những vấn đề thuộc về chính sách xã hội, có thể khẳng định đây là những vấn đề luôn đặt ra trong mọi xã hội, nhưng riêng với nước ta có những nét rất đặc biệt. Thứ nhất, xã hội ta vừa trải qua hai cuộc kháng chiến, sự mất mát với một bộ phận dân cư là vô cùng lớn, không gì bù đắp nổi, chúng ta phải có những chính sách hậu chiến như thế nào để tương ứng với công trạng và những hy sinh của họ. Đây là những khía cạnh hết sức nhạy cảm và nó càng nhạy cảm hơn, do sự phân hoá giàu nghèo ngày càng diễn ra mạnh mẽ trong xã hội ngày nay. Giải quyết đúng đắn vấn đề này là những hành động thực tiễn khẳng định lí tưởng cao đẹp của Đảng và nhà nước ta. Thứ hai, xã hội ta mấy chục năm qua đã thực hiện cơ chế quản lý mang tính bao cấp. Những hạn chế của nó thì không ai có thể bào chữa được nhưng những ưu điểm của nó thì chắc chắn không ai có thể phủ định được. Trong những ưu điểm thể hiện tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa của chúng ta có những vấn đề thuộc chính sách xã hội, trong đó đặc biệt là khía cạnh phúc lợi xã hội và đảm bảo xã hội. 13 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 Hiện nay chế độ bao cấp bình quân không còn nữa, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng mạnh mẽ thì khả năng và cơ hội của người dân thì ngày càng cách biệt nhau. Sự bất bình đẳng về kinh tế sẽ dẫn đến bất bình đẳng về xã hội. Thói quen, nếp nghĩ và lối sống của thời bao cấp khi va đập vào cơ chế thị trường đã tạo nên những "cú sốc" khá nặng nề về tâm lý đối với không ít người. Thứ ba, lợi ích kinh tế và vấn đề môi trường sống Trong nhiều năm qua chúng ta rất ít quan tâm đến vấn đề môi trường sống - cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Vì vấn đề này trong suốt gần nửa thế kỷ qua có thể nói chưa khi nào đặt ra một cách gay gắt, đòi hỏi xã hội phải đầu tư giải quyết như hiện nay. Thực vậy, có thể nói việc quản lý và điều khiển cộng đồng theo mô hình hành chính thống nhất trước đây đã tạo ra một môi trường xã hội thực sự ổn định và thuần nhất. Những chuẩn mực xã hội, những giá trị đạo đức, những đặc trưng cơ bản của con người mới được đề cao tạo nên những khuôn đúc sẵn có về thế hệ con người. Khi ấy, nếu có một người nào đó hay những biểu hiện nào đó khác với khuôn mẫu thì sẽ bị cộng đồng, toàn xã hội lên án, ngăn chặn và cô lập. Bây giờ nhìn lại, ta có thể phê phán những hạn chế của cách quản lý và điều khiển xã hội theo mô hình ấy. Nhưng rõ ràng, môi trường xã hội ngày đó thực sự trong sạch và lành mạnh. Những tệ nạn xã hội như tình trạng phạm pháp, mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, buôn lậu gần như bị loại bỏ ở đời sống xã hội trong nhiều chục năm. Đối với tự nhiên cũng thế. Có lẽ là do trước đây dân cư còn thưa thớt, nhu cầu con người còn đơn giản và được quản lý tập trung thống nhất; hơn thế, chúng ta lại được điều kiện tự nhiên ưu đãi, đồng thời cả xã hội ta còn đang dồn sức vào sự nghiệp thống nhất đất nước ở một chừng mực nhất định, có thể nói trong hàng chục năm chúng ta không phải bận tâm đến nạn phá rừng, ô nhiễm môi trường hay chất thải công nghiệp Nhưng trong khoảng hơn mười năm trở lại đây nhất là mấy năm qua, vấn đề môi trường sinh sống của xã hội ta nổi lên hết sức gay gắt. 1.2. Thực trạng quan hệ phân phối ở Việt Nam hiện nay Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường. Chúng ta đã trải qua một thời gian dài của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Hậu quả của nó để lại trong nền kinh tế vẫn còn rất nặng nề. Trải qua một thời gian dài của thời kỳ cấp phát, tem phiếu người dân đã quen với tư tưởng chấp hành, mệnh lệnh một số có tư cách dựa dẫm vào đặc biệt là mang nặng tác phong của sự sản xuất nông nghiệp nhỏ bé, thiếu hẳn tác phong công nghiệp. Kết quả nền kinh tế đất nước phát triển chậm chạp. 14 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 Nước ta được đánh giá ở trình độ chậm phát triển so với thế giới thậm chí có nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế so với kinh tế thế giới. Thêm vào đó là một cơ chế quản lý cứng nhắc cồng kềnh làm cản trở bước tiến của nền kinh tế, các quốc liên hệ kinh tế xơ cứng đời sống nhân dân ở mức thấp. Để xoá bỏ những hậu quả này, Đảng và Nhà nước ta đã đưa nền kinh tế phát triển nền kinh tế hàng hoá dựa trên nền kinh tế nhiều thành phần nền kinh tế hàng hoá đã tỏ rõ những ưu thế của nó trong hoàn cảnh nước ta. Nó thúc đẩy xã hội hoá sản xuất, đưa phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, gắn sản xuất với thị trường thúc đẩy quá trình tích cực tập trung sản xuất, giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mặt khác chúng ta cũng đang phát triển nền kinh tế theo hướng mở cửa, mở rộng quan hệ hợp tác, kinh tế đối ngoại với nước ngoài. Điều này là phù hợp với xu thế khu vực hoá toàn cầu hoá. Một nền kinh tế hướng ngoại sẽ giúp chúng ta tận dụng được các nguồn lực trong nước đồng thời tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế đất nước. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này sự quản lý của nhà nước là hết sức cần thiết. Vì trong giai đoạn này các hiện tượng tiêu cực vẫn còn tồn tại, đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát khủng hoảng phân hoá bất bình đẳng ô nhiễm. Mặt khác chúng còn có xu hướng gia tăng, tác động xấu tới nền kinh tế, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Do đó sự quản lý của nhà nước về kinh tế sẽ góp phần ngăn chặn những tình trạng này, tạo sự phát triển ổn định bền vững trong nền kinh tế. Như vậy sự phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần về cơ bản là phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Nó đã tỏ ra có nhiều ưu điểm song bên cạnh đó nó cũng thể hiện ra những điểm yếu cần được khắc phục. Đó là mặt trái của nền kinh tế thị trường. Do đó chúng ta cũng cần đẩy mạnh hơn nữa vai trò quản lý của nhà nước phải luôn nghiên cứu đề ra những chính sách kinh tế phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong điều kiện khống chế được các khuyết tật của nó. Có như vậy mới có thể tạo ra sự tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế đưa nền kinh tế nước nhà thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. 2. Đưa ra giải pháp giúp Việt Nam đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích phối thu nhập nhằm đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích ở Việt Nam Trước hết, nhà nước phải chăm lo đời sống vật chất cho mọi người dân. Ở mỗi giai đoạn phát triển, người dân phải đạt mức sống tối thiểu, từng bước thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập Để làm được điều này, nhà nước cần thực hiện có hiệu quả các chính sách xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thoát đói nghèo vững chắc tại các vùng nghèo và các bộ phận 15 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 dân cư nghèo, khắc phục tư tưởng ỷ lại. Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội, vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn. Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện, giúp đỡ người nghèo, đồng vào các vùng gặp thiên tai, Không những thế tiếp tục hoàn thành chính sách tiền lương, tiền công, chống chủ nghĩa bình quân, thu nhập bất hợp lý bất chính. Tiếp theo, nhà nước cần có các chính sách khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện và giúp đỡ họ bằng mọi biện pháp. Về nguyên tắc, người dân được làm tất cả những gì luật pháp không cấm, luật pháp chỉ cấm những hoạt động tổn hại lợi ích quốc gia và các lợi ích hợp pháp khác. Người lao động và người sử dụng lao động phải có nhận thức và hành động đúng trong lĩnh vực phân phối thu nhập. Cần phải hiểu được các quy tắc phân phối của kinh tế thị trường để có sự phân chia hợp lý giữa tiền lương và lợi nhuận, chủ doanh nghiệp phải hiểu và tự nguyện thực hiện nghĩa vụ nộp thuế,... Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế – xã hội là những giải pháp rất cần thiết để loại bỏ những đòi hỏi không cần thiết về thu nhập. Trong trường hợp người lao động và người sử dụng lao động không tự nhận thức và thực hiện được, nhà nước cần có sự tư vấn, điều tiết hợp lý. C. PHẦN KẾT LUẬN Hài hòa các lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế của các chủ thể, khi đó các mặt mâu thuẫn được hạn chế, từ đó tránh được va chạm, xung đột; mặt thống nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, từ đó tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế, góp phần thực hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích xã hội. Để có sự hài hoà giữa các lợi ích kinh tế chỉ dựa vào sự vận động của nền kinh tế thị trường thôi là chưa đủ: chúng ta đều biết rằng trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh việc các chủ thể kinh tế hợp tác với nhau để kinh doanh tìm kiếm lợi ích lợi nhuận thì còn còn có các chủ thể kinh tế cạnh tranh quyết liệt với nhau. Các doanh nghiệp lớn sẵn sàng chi một khoản tiền lớn đề “nuốt chửng” các công ty bé hơn. Đơn giản hơn, một doanh nghiệp bán phá giá một sản phẩm nào đó sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp cùng ngành, hoặc nếu họ nâng giá bán quá cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người tiêu dùng... Do đó, sự tham gia của “bàn tay hữu hình” bằng các công cụ giáo dục, pháp luật, hành chính, kinh tế... từ chính phủ sẽ góp phần hạn chế những bất ổn do “bàn tay vô hình” trong nền 16 |2 2 lOMoARcPSD|12184112 kinh tế thị trường gây ra. Hơn nữa còn giúp gia tăng thu nhập cho các chủ thể kinh tế, tăng cường sự thống nhất, xử lý kịp thời khi xảy ra xung đột. 17 |2 2 lOMoARcPSD|12184112
File đính kèm:
- tieu_luan_van_dung_ly_thuyet_ve_loi_ich_kinh_te_va_dac_trung.pdf