Tiểu luận Việt Nam “xử sự” với ASEAN như thế nào sau ngày giải phóng (Giai đoạn 1975-1985)

doc 29 trang yenvu 21/09/2024 430
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Việt Nam “xử sự” với ASEAN như thế nào sau ngày giải phóng (Giai đoạn 1975-1985)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Việt Nam “xử sự” với ASEAN như thế nào sau ngày giải phóng (Giai đoạn 1975-1985)

Tiểu luận Việt Nam “xử sự” với ASEAN như thế nào sau ngày giải phóng (Giai đoạn 1975-1985)
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
Khoa Chính trị quốc tế và Ngoại giao
Bộ môn Chính sách đối ngoại
TIỂU LUẬN
VIỆT NAM “XỬ SỰ” VỚI ASEAN NHƯ THẾ NÀO SAU NGÀY GIẢI PHÓNG?
(GIAI ĐOẠN 1975-1985)
Nhóm thực hiện: Phạm Trang Nhung 
Lớp CT36B Nguyễn Thảo Trang
Đỗ Huyền Trang
Trần Thị Phương Anh
Vi Ngọc Ngà
LỜI MỞ ĐẦU
Đại thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân 1975 đã đưa nước ta vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và cả nước hào hứng đi vào công cuộc xây dựng hòa bình, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các bè bạn năm châu. So với giai đoạn ngoại giao phá vây (1945 – 1946), thời kì sau 1975 Việt Nam có những điều kiện quốc tế hết sức thuận lợi để phát triển trên mọi lĩnh vực cả trong và ngoài nước, thế giới đang từng bước công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tạo đà cho vị trí ngày một đi lên trên trường quốc tế của dân tộc. Công cuộc xây dựng đất nước giai đoạn 1975 – 1985 đã đạt được một số thành tựu quan trọng “Với những thắng lợi giành được trong thế kỉ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.” Bộ chính trị(2001)Báo cáo chính trị Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Tuy vậy, bên cạnh những thành quả được lịch sử ghi nhận (từ năm 1975 đến năm 1977 Việt Nam mở rộng thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 nước, tham gia vào nhiều tổ chức có tầm ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế), giai đoạn 1975 – 1985 cũng là giai đoạn để lại nhiều bài học về sai lầm trong chính sách đối ngoại, đặc biệt là chính sách đối với các nước láng giềng khu vực Đông Nam Á (các nước ASEAN).
Nhằm tái hiện một thời kì đầy sóng gió trong nền ngoại giao nước nhà, khái quát cách “ứng xử” của Việt Nam với ASEAN, bài tiểu luận được thực hiện trên cơ sở những tài liệu của các bậc đàn anh đi trước:  Ngoại giao Việt Nam 1945-2000 (Nguyễn Vũ Tùng), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp Đổi mới (1975-2002) (Vũ Dương Huân), Chính sách đối ngoại Việt Nam: Tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, tập II (1975-2006) (Nguyễn Vũ Tùng), Hỏi đáp về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Nội dung đi sâu tái hiện bối cảnh thế giới, khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng những năm đầu sau Ngày giải phóng, trên cơ sở đó phân tích chính sách đối ngoại của ta đối với các nước ASEAN thể hiện qua các kỳ Đại hội IV (1976) và Đại hội V (1982), làm sáng tỏ những sai lầm dẫn đến hạn chế trong công tác đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985. Kinh nghiệm và bài học được rút ra sẽ là câu trả lời xác đáng nhất cho câu hỏi vì sao Việt Nam cần một cuộc cách mạng trong tư duy đối ngoại, thể hiện qua kỳ Đại hội Đổi mới năm 1986. 
Định nghĩa 
ASEAN là Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asia Nations, viết tắt là ASEAN) là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8/8/1967 với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, và Philippines. Đến năm 1999, ASEAN gồm 10 thành viên và ngày càng có vai trò quan trọng trong khu vực cũng như trên thế giới.
Trong cuộc sống thường nhật, từ “xử sự” được hiểu đơn giản là việc thể hiện thái độ, cách thức giải quyết, đối xử với việc và người trong xã hội.Trong quan hệ quốc tế, “xử sự” là một cách ẩn dụ nhằm nói tới chính sách đối ngoại của nước này với nước kia. Chính sách đối ngoại là sự kéo dài của chính sách đối nội do một nhóm nhà lãnh đạo đề ra, nhằm phục vụ cho chính sách đối nội, đảm bảo lợi ích quốc gia. Chính sách đối ngoại nhằm thực hiện ba mục tiêu cơ bản: an ninh, phát triển và ảnh hưởng. Chính sách liên quan đến quyết định lựa chọn hướng và phương cách hành động để giải quyết một vấn đề cụ thể sinh ra bởi hoàn cảnh và điều kiện cụ thể. 
“Lợi ích quốc gia là toàn bộ những nhu cầu sống còn và phát triển của quốc gia, được lãnh đạo quốc gia nhận thức dưới dạng mục tiêu chiến lược an ninh đối nội và chiến lược đối ngoại của quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.” Vũ Dương Huân (2007) “Bàn về lợi ích dân tộc và lợi ích quốc gia trong quan hệ quốc tế”, Chính sách đối ngoại Việt Nam (II) NXB Thế giới, Hà Nội, 168.
Có nhiều nhân tố để xác định lợi ích quốc gia như: trình độ phát triển văn hóa-xã hội, yếu tố lịch sử, văn hóa dân tộc, vai trò địa- chính trị, vị thế và vai trò của quốc gia đó trên trên trường quốc tế. Lợi ích quốc gia là lợi ích chung của tất cả các giai cấp, lực lượng trong xã hội. Lợi ích quốc gia thay đổi theo từng thời kỳ và phụ thuộc vào sự vận động trong quan hệ quốc tế. Xét trong trường hợp của nước ta vào giai đoạn sau ngày giải phóng, vấn đề “lợi ích quốc gia” vẫn chưa được coi là ưu tiên hàng đầu, khi ấy ta bị chi phối quá nhiều bởi ý thức hệ và coi việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao hơn lợi ích quốc gia. Chính vì thế trong thời kì này, nhà nước Việt Nam non trẻ đã phải đương đầu với rất nhiều khó khăn. 
Toàn cảnh thế giới và khu vực những năm đầu sau Ngày giải phóng
Bối cảnh quốc tế
Bối cảnh thế giới những năm 70 của thế kỉ XX có nhiều biến động to lớn, ảnh hưởng tới các nước trên toàn cầu. 
Khủng hoảng kinh tế những năm 1970s đã làm kinh tế nhiều nước, đặc biệt là các nước tư bản chủ nghĩa sa sút nghiêm trọng đồng thời cũng kích thích các nước này tìm kiếm giải pháp cải tổ nền kinh tế, ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Điều này đã khiến bộ mặt kinh tế của mỗi quốc gia thay đổi, trật tự thế giới đổi khác và mỗi quốc gia cũng thay đổi chính sách đối ngoại của mình.
Sau chiến tranh Việt Nam, Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa, thế và lực đều suy giảm. Chính trường nước Mỹ rối ren do hội chứng Việt Nam, đồng thời, Mỹ không còn chiếm vị trí độc tôn trong thế giới tư bản nữa. Tây Âu và Nhật Bản đang vươn lên, cạnh tranh với Mỹ, tạo nên ba trung tâm kinh tế thế giới. Đại sứ Nguyễn Đình Bin (2002) Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 292.
 Cùng với kinh tế, xu hướng độc lập về chính trị với Mỹ cũng nở rộ. Mỹ cũng dần dần điều chỉnh chiến lược của mình, giảm cam kết bên ngoài, bắt tay hòa hoãn với Liên Xô và Trung Quốc.
Trong khi đó, kinh tế Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũng có xu hướng trì trệ, bất ổn. Quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa có nhiều bất đồng. Các nước Đông Âu có xu hướng độc lập với Liên Xô, đảng cộng sản ở các nước Tây Bắc Âu tìm kiếm một mô hình chủ nghĩa cộng sản châu Âu. Mâu thuẫn Xô-Trung ngày càng gay gắt. Lúc này, Liên Xô đã đạt được thế cân bằng về vũ khí chiến lược với Mỹ. Năm 1975, Liên Xô thúc đẩy việc ký định ước Helsinki về an ninh và hợp tác châu Âu, đồng thời tăng cường mở rộng ảnh hưởng ở Mỹ La tinh, châu Á và châu Phi.
Các nước châu Á đi theo con đường tư bản chủ nghĩa có sự phát triển về mạnh về kinh tế.Trung Quốc lúc này vừa kết thúc Đại cách mạng văn hóa vô sản, Đặng Tiểu Bình bắt đầu thực hiện “Bốn hiện đại hóa”, cải cách nền kinh tế nhằm đưa Trung Quốc hướng tới vị trí dẫn đầu thế giới Nguyễn Văn Lập (2010) Giấc mộng Trung Hoa, Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội, 25-26.
. Trung Quốc từng bước đẩy mạnh quan hệ với Mỹ, Nhật Bản và các nước phương Tây cũng như với các nước thế giới thứ ba và các nước khu vực Đông Nam Á.
Bối cảnh khu vực Đông Nam Á
Về quan hệ quốc tế tại Đông Nam Á, Mỹ cho rằng, sau chiến tranh, sẽ có sự sắp xếp lại lực lượng quan trọng ở Đông Nam Á, Campuchia và Lào sẽ là chư hầu của Hà Nội, còn Thái Lan và Inđônêxia sẽ tự động liên minh với Việt Nam. Trung Quốc sẽ giữ không cho Việt Nam có bất kỳ hành động quyết liệt nào. ( Kissinger) Trần Quang Cơ, Hồi ức và Suy nghĩ
Sau gần 10 năm thành lập, ASEAN đã có những thành tựu bước đầu.
Nếu như thời kỳ từ 1967 đến 1975, ASEAN còn là tổ chức khu vực non yếu, chương trình hợp tác giữa các nước thành viên còn rời rạc thì kể từ 1976 ASEAN đã mở ra thời kì phát triển mới trong lịch sử của mình. 
Những năm 1976-1978, ASEAN nhấn mạnh hợp tác kinh tế giữa các nước thành viên và hình thành cơ cấu tổ chức chặt chẽ hơn. ASEAN điều chỉnh chính sách đối ngoại, nhấn mạnh hòa bình, trung lập, tăng cường quan hệ với các nước tư bản phương Tây và Nhật Bản đồng thời cải thiện quan hệ với các nước Đông Dương, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Trong văn kiện của Hội nghị cấp cao ASEAN lần 2 năm 1977, các nước ASEAN bày tỏ mong muốn “phát triển mối quan hệ hòa bình cùng có lợi với tất cả các nước trong khu vực, bao gồm cả Campuchia, Lào và Việt Nam”, “củng cố quan hệ giữa các nước ASEAN và các nước Đông Dương” The second ASEAN Summit ( 1977) Joint Communiqué of The Second ASEAN Heads of Government Meeting, Kuala Lumpur, Regional development. truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2011
 Bối cảnh trong nước
Nước Việt Nam ta trong những năm 70 của thế kỷ 20 đã trải qua những sự kiện to lớn: Hiệp định Paris 1973 về Việt Nam kết thúc cuộc đàm phán “ma-ra-tông” 1968-1973 giữa Việt Nam và Mỹ, toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã đưa Việt Nam tới đỉnh cao của giải phóng dân tộc và uy tín quốc tế. Thắng lợi của Việt Nam không chỉ dẫn đến những thay đổi quan trọng trong chiến lược của các nước lớn mà còn thay đổi cục diện chính trị khu vực Đông Nam Á. Trần Quang Cơ, Hồi ức và Suy nghĩ
Thẳng lợi của cuộc chiến đã nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn từ 1975 đến 1977, ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 nước trên thế giới.
Sau chiến tranh, đất nước bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế kiệt quệ và hoàn toàn mang tính chỉ huy thời chiến. Đất nước bắt đầu bước vào công cuộc xây dựng khôi phục nền kinh tế với nhiều khó khăn, thử thách.
Nhìn chung, đất nước sau giải phóng có được môi trường hòa bình, độc lập, có vị thế trên trường quốc tế nhưng cũng gặp nhiều khó khăn trở ngại. Trong khung cảnh biến động của nền chính trị thế giới, với nhiều thuận lợi và thách thức, lãnh đạo ta sẽ có chính sách đối ngoại như thế nào để đảm bảo an ninh quốc gia, phát triển đất nước cũng như tăng cường ảnh hưởng của mình?
 Chính sách đối ngoại
Chính sách và triển khai chính sách 
Sau khi giành độc lập thống nhất đất nước, Đảng đã có những “bước đi” mềm dẻo trong việc thiết lập mối quan hệ giữa ta với các nước ASEAN. Ngày 5.7.1976, ta đã công bố chính sách 4 điểm và tiến hành các cuộc đi thăm chính thức đầu tiên của phái viên chính phủ ta tại các nước ASEAN. Chính sách này đã thể hiện lòng mong muốn của Việt Nam là hữu nghị, hợp tác. Sau chuyến đi thăm tới các nước này, Việt Nam đã đặt quan hệ với tất cả các nước thành viên của ASEAN Đại sứ Nguyễn Đình Bin (2002) Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 299.
. 
Nhưng đó chỉ là những “biểu hiện” tích cực bề ngoài. Theo tính toán thực tế của Đảng lúc bấy giờ ASEAN vẫn là khối quân sự trá hình, đồng minh thân cận của Mỹ. Dù quan hệ giữa ta và họ đã được thiết lập nhưng hai bên vẫn nhìn nhau với con mắt nghi kị thiếu tin tưởng nên đôi khi vẫn xảy ra một số trục trặc nhỏ. Kì thực là sau khi Mỹ rút quân khỏi Châu Á-Thái Bình Dương thì ASEAN đã thay đổi hẳn suy nghĩ và các chính sách của mình, không còn như trước đây nữa. Thật đáng tiếc là ta đã không nhìn ra sự “trở mình” ấy nên đã cố tình xây lên một bức tường thép chắn ngang quan hệ đa phương giữa ta và các nước ASEAN. Bỏ qua những cơ hội quý báu trong việc xây dựng một Đông Nam Á hòa bình, ổn định. Nguyễn Vũ Tùng (2007) Chính sách đối ngoại Việt Nam (II), NXB Thế giới, Hà Nội, 18.
Chính sách của ta với các nước ASEAN tiếp tục được bộc lộ qua Đại hội IV (1976). Với các nước ASEAN, Việt Nam: “ra sức củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác giữa nước ta với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em, làm hết sức mình để góp phần cùng các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khôi phục và củng cố đoàn kết, tăng cường ủng hộ và giúp đỡ nhau”. Bộ Chính trị ( 1977), Báo cáo chính trị của ban chấp hành TW đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, phần 6, 178-180.
Ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ đã tác động nghiêm trọng tới chính sách khiến cho Việt Nam có suy nghĩ rằng mình có nghĩa vụ quốc tế trong việc “làm hết sức mình” vì phong trào cách mạng thế giới. Điều này làm tăng thêm sự nghi kị sâu sắc giữa ta với các nước ASEAN. Họ lo ngại rằng ta sẽ ủng hộ và “giúp đỡ” những phong trào cách mạng chống đối trong nước họ nên đã tỏ ra nghi ngại, dè dặt và “không thật sự yên tâm với ý đồ lâu dài của ta”. Nguyễn Vũ Tùng (2007) Chính sách đối ngoại Việt Nam (II), NXB Thế giới, Hà Nội, 18.
Bởi xét riêng về mặt ý thức hệ thì ta và họ đã đứng từ nhưng quan điểm rất trái chiều.
Trong điều tiếp sau của văn kiện, ta lại tiếp tục khẳng định: “ hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các nước Đông Nam Châu Á, vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và trung lập thật sự, không có căn cứ quân sự và quân đội của đế quốc trên đất nước mình, sẵn sàng thiết lập và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trong khu vực này trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, cùng tồn tại trong hòa bình”. Bộ Chính trị (1977), Báo cáo chính trị của ban chấp hành TW đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, phần 6,178-180.
Có thể hiểu thế nào về quan điểm “trung lập thật sự” nêu ra tại văn kiện này? Phải chăng đây là câu chuyện đồng minh thân cận ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương – sự bắt tay giữa nhóm nước ASEAN và Mỹ. Đáng lẽ ta phải để tâm vai trò của các nước lớn, cụ thể là Trung Quốc và Mỹ, để có thể đề ra những đường lối đối ngoại mềm mỏng và khéo léo hơn. 
 Ý thức hệ và lối mòn tư duy đối ngoại đến đây được thể hiện rõ hơn khiến các nước ASEAN càng tỏ ra lo ngại và không thể yên tâm trong mối quan hệ với Việt Nam khi những cuộc đấu tranh chống đối vào thời điểm này đang diễn ra tại một số quốc gia. Chưa kể đến việc văn kiện này còn nhắc tới một vết đen của lịch sử quá khứ “căn cứ quân sự và quân đội...” Điều này cho thấy dù có thiện chí “sẵn sàng thiết lập” quan hệ với các nước ASEAN sau 1975 nhưng trên thực tế ta vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng vào mối quan hệ đối ngoại này. 
Trong quan hệ với Lào và Campuchia, chính sách của ta là: bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt..., tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, sự hợp tác lâu dài ... Bộ Chính trị (1977), Báo cáo chính trị của ban chấp hành TW đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, phần 6, 178-180.
“Tình đoàn kết” gắn bó là chính sách đối ngoại xuyên suốt của ta từ trước đến nay-một đường lối hết sức đúng đắn trong việc chung vai sát cánh để cùng nhau chống lại những toan tính của kẻ thù.
Chính sách của đại hội V (1982) là sự tiếp nối Đại hội IV: “đã đem lại những thay đổi chưa từng có trong cục diện cách mạng của 3 nước Đông Dương” Bộ Chính trị (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (I), 135.
. Việc hợp tác và trao đổi nhiều mặt ngày càng tăng lên trước những thay đổi của xu thế chung trong “giai đoạn mới”. Mặc dù lúc này đã bắt đầu xuất hiện những luồng gió ngược chiều giữa ta và Campuchia. Xem phụ lục 2
 Đến đầu năm 1978 thì căng thẳng bắt đầu bộc lộ công khai gây bất lợi lớn cho Việt Nam trên trường quốc tế. Các nước ASEAN lo ngại rằng chiến tranh có thể lan rộng sang Thái Lan và có thể kéo họ vào một cuộc xung đột khu vực. Ý nghĩ này khiến cho quan hệ giữa 2 nhóm nước trở nên căng thẳng đối đầu trong suốt hơn một thập kỉ.
 Biểu hiện của đối đầu rõ nét nhất là việc các nước ASEAN thực hiện chính sách bao vây cấm vận Việt Nam. Trong thời điểm đó, chỉ có Indonesia và Malaysia là tìm cách duy trì đối thoại với ta để tìm cách giải quyết vấn đề và bình thường hóa tình hình.
Nhưng ta vẫn cố gắng nhìn nhận thấu đáo để giải quyết vấn đề theo hướng đối thoại hòa dịu: “nhân dân Việt Nam chủ trương thiết lập những quan hệ láng giềng tốt với các nước ASEAN, luôn luôn sẵn sàng cùng các nước này phối hợp cố gắng để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình và ổn định”. Bộ Chính trị (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (I), 145.
 Dù căng thẳng đã xảy ra giữa Việt Nam và ASEAN khi gặp phải những quan điểm trái chiều bất đồng trong vấn đề Campuchia, nhưng ta vẫn “chủ trương thiết lập những quan hệ láng giềng tốt”. Lúc này Việt Nam cùng 2 nước Lào và Camp có đề xuất việc họp Hội nghị quốc tế về Đông Nam Á cùng với ASEAN, Mianma, Ấn Độ và 5 nước lớn nhưng bị từ chối. 
Đảng có nhận định rõ ràng về khó khăn trở ngại này: “quan hệ giữa Việt Nam và các nước khác ở Đông Dương với 5 nước ASEAN đang vấp phải những trở ngại do Bắc Kinh và Washington dựng lên. Chúng ta mong rằng vì lợi ích cơ bản của mình..., các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương tiến hành đối thoại và thương lượng để giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa hai nhóm nước, tiến tới thực hiện một Đông Nam Á hòa bình và ổn định, hữu nghị và hợp tác”. Bộ Chính trị (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (I), 153.
Ta nhận thức vấn đề trên khía cạnh tường tận rằng khó khăn phải đối mặt không chỉ có Campuchia mà cả Mỹ và Trung Quốc. Nhận định này rất đúng đắn. Nhưng lại được nêu ra trong một bối cảnh hết sức công khai không hề úp mở, ta lại kêu gọi sự hợp tác của ASEAN trong việc giải quyết vấn đề này thì thật là một điều không tưởng. 
Ý thức hệ vẫn chi phối ở đây cùng những quan điểm trái chiều tạo thành những trở ngại. Khi đã mất lòng tin ở ta, ASEAN thà sẵn sàng đổi giọng để làm đồng minh của Mỹ như trong quá khứ còn hơn là mạo hiểm bắt tay Việt Nam. Từ những hoạt động xúc tiến can thiệp của Trung Quốc và Mỹ kết hợp cùng những suy nghĩ trái chiều của các nước ASEAN thì việc cùng hội đàm bàn bạc để giải quyết vấn đề tỏ ra hết sức khó khăn.
Kết quả của việc sau khi vấn đề Campuchia bị quốc tế hóa, Mỹ - Trung Quốc đi đầu trong bao vây cấm vận Việt Nam. Trong tình thế đó, Việt Nam đã muốn hai nhóm nước ngồi lại với nhau giải quyết vấn đề, đấu tranh với sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch. Tuy nhiên, để làm được như vậy, không thể nào bỏ qua vai trò của những nước lớn, mà ở đây chính là Mỹ và Trung Quốc. Nhưng, Việt Nam vẫn coi Mỹ là “kẻ thù lâu dài, trước tiên”. “Riêng với Mỹ, quan hệ chưa cải thiện được là do chính sách thù địch của Oasinhtơn”, Trung Quốc “kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp” Bộ Chính trị (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (I), 153.
. Tự đặt mình trong thế đối trọng cùng lúc với hai nước lớn đang trên đà “bắt tay nhau” như vậy tất sẽ tạo nên nhiều bất lợi cho Việt Nam.
Trước đó, vào năm 1980, ta cùng hai nước bạn Đông Dương đã thúc đẩy đối thoại giữa hai nhóm nước tạo không khí hòa dịu, tránh đối đầu, xây dựng quan hệ cùng tồn tại hòa bình. Đồng thời, ta cũng tỏ ý sẵn sàng đàm phán để kí kế hiệp định song phương về vấn đề không xâm lược các nước Đông Nam Á. Những hoạt động mang tính chủ động, tích cực, nhằm xúc tiến hòa dịu này được diễn ra trong vòng gần 7 năm từ 79 dến 85 nhưng các quan điểm giữa hai nhóm nước vẫn không thể gặp nhau, mâu thuẫn vẫ không thể điều hòa được. Đại sứ Nguyễn Đình Bin (2002) Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 300- 301.
Kết quả
Trong quan hệ với các nước khác, nhà nước ta chủ trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước Xã hội chủ nghĩa trên thế giới, bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia, sẵn sàng thiết lập quan hệ hữu nghị với cá nước trong khu vực. 
Từ giữa năm 1978, Đảng ta đã có điều chỉnh trong một số chủ trương và chính sách về đối ngoại như: Chú trong hợp tác với Liên Xô, coi quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ mối quan hệ Việt-Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn ra phức tạp., chủ trương góp phần xây dựng Đông Nam Á ổn định tự do, hòa bình, đề ra yêu cầu cần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. 
Đại hội V đã xác định công tác đối ngoại là trọng tâm trong chính sách của nhà nước. Đảng ta lại tiếp tục đề cao vai trog của Liên Xô trong chính sách đối ngoại. 
Trong giai đoạn từ 1975 đến 1985, quan hệ đối ngoại của Việt nam với các nước Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là với Liên Xô. Ngày 29 tháng 6 năm 1978 Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV). Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liên Xô và các thành viên nội khối đều tăng. Ngày 31 tháng 11 năm 1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị toàn diện với Liên Xô. Thực hiện chủ trương mở rộng quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, chỉ trong hai năm từ 1975 đến 1977, nươc ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 quốc gia, là thành viên chính thức của IMF và ngân hàng thế giới vào năm 1976, ngày 20 tháng 9 năm 1977 là thành viên Liên hợp quốc.
Trong quan hệ với các nước ở khu vực Đông Nam Á, vào cuối năm 1976, Phillipin và Thái Lan là hai nước cuối cùng trong ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với nước ta, tuy nhiên vì vấn đề Campuchia vào năm 1979 mà tất cả các nước ASEAN đều liên minh chống lại Việt Nam. 
Kết quả của những chính sách đối ngoại giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng với cách mạng Việt Nam. Sự tăng cường và hoàn thiện sự hợp tác với các nước Xã hôi chủ nghĩa về cả kinh tế lẫn chính trị góp phần vào việc khôi phục đất nước sau chiến tranh. Việc Việt Nam trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế lớn hay là thành viên chính thức của Liên hợp quốc, tham gia vào phong trào Không liên kết đã tranh thủ được sự ủng hộ của các nước và các tổ chức quốc tế, đồng thời phát duy vai trò của nước Việt Nam non trẻ trên trường quốc tế.
 	Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế trong chính sách đối ngoại của nhà nước ta thời bấy giờ. Nhìn tổng quát, trong giai đoạn 1975 – 1985 quan hệ quốc tế của Việt Nam gặp nhiều trở ngại lớn. Từ những năm cuối của thập kỷ 70, nước ta bị bao vây cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị. Nguyên nhân dẫn đến những bất lợi trên là do trong quan hệ đối ngoại ở giai đoạn này, chúng ta chưa nắm bắt được xu thế quốc tế bấy giờ đang chuyển từ chiến tranh đối đầu sang hòa hoãn và chạy đua, chú trọng phát triển kinh tế. 
Thời kỳ này Việt Nam ta đã quá coi trọng mối quan hệ anh em với các nước Xã hôi chủ nghĩa, đặc biệt với Liên Xô, chúng ta sẵn sàng đứng về phía Liên Xô và bảo vệ quan điểm chống đế quốc của mình. Chính vì những quan niệm cứng nhắc mà chúng ta đánh mất cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ vào năm 1978. Chúng ta coi trọng nghĩa vụ quốc tế hơn lợi ích dân tộc mà vào cuối thập kỷ 70, nhà nước ta đã cho quân đội sang Campuchia để giúp nước bạn chống nạn diệt chủng Pol Pot và cũng để đảm bảo cho an ninh biên giới tây nam của nước nhà. Nhưng việc để lại quân đội trên đất Campuchia vào năm 1979 đã là cái cớ để cho “các thế lực thù địch” hình thành một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt, mà điển hình là việc cấm vận nước ta về cả kinh tế và chính trị. Do không tranh thủ được các yếu tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc xây dựng lại kinh tế và xã hội sau chiến tranh, không kịp thời đổi mởi tư duy cũng như quan hệ đối ngoại cho phù hợp với tình tình. 
Những hạn chế của đối ngoại Việt Nam giai đoạn này cũng đều xuất phát từ nguyên nhân cơ bản là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội và chạy theo nguyện vọng chủ quan 
So sánh với chính sách đối ngoại giai đoạn 1945-1946
Bối cảnh thời kì 1945-1946
Tại sao thời kì này lại có nhiều biến động và thăng trầm đến vậy? Câu hỏi thật hóc búa. Phải chăng chúng ta nên nhìn lại giai đoạn đầy sóng gió 1945-1946 để có được một cái nhìn khách quan và chân thực hơn cho câu hỏi này.
Đất nước đang trong tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc. Cùng một lúc, ta phải đối mặt với nhiều thế lực quân sự lớn và hùng mạnh. Trong nước có mặt 30 vạn quân Tưởng, Anh, Pháp, Nhật, trong khi chính quyền mới “không đồng minh, không tiền, hầu như không vũ khí” (nhận xét của Pignon, cố vấn chính trị của Cao ủy Pháp). Báo Thế giới và Việt Nam, truy cập ngày 2 tháng 3 2011
Vậy mà cuối cùng thì “gông xích nào ta cũng đập tan, kẻ thù nào ta cũng đánh bại”. Lịch sử đã vinh danh giai đoạn này như một mốc son hào hùng của dân tộc, đầy tự hào và ngập tràn niềm kiêu hãnh.
Chính sách đối ngoại
Trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn như vậy, Đảng và chính phủ đã kịp thời nhận thức được điểm mạnh điểm yếu để đưa ra đối sách kịp thời. Mặc dù lực còn yếu, lại không có đồng minh, nhưng nước Việt Nam non trẻ lại có chính quyền hợp pháp và giữa Tưởng, Pháp có mâu thuẫn về mặt lợi ích. Trong hoàn cảnh này, ta đã nhận định rằng ngoại giao là một vũ khí sắc bén nên tận dụng để vượt qua thời kì ngàn cân treo sợi tóc.
Trước tiên, ta thành lập Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và cử hành lễ Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 nhằm tạo cơ sở pháp lí và danh nghĩa chính thức cho chính quyền mới. Đồng thời, ngày 3 tháng 10 năm 1945, Bộ Ngoại giao Chính phủ lâm thời ra Thông cáo về chính sách đối ngoại với bốn đối tượng chính, thể hiện mong muốn duy trì tình hữu nghị với các nước trên thế giới.
Trong lúc đối phó với hai thế lực chính Tưởng và Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa biết tận dụng mọi kênh ngoại giao có được để giao thiệp với các nước lớn như Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc. Những nỗ lực này cũng có tác dụng nhất định trong việc kiềm chế quân độiTưởng, Pháp.
Ta cũng khôn khéo lợi dụng mâu thuẫn giữa bọn đế quốc.
Xác định rằng thực dân Pháp là kẻ thù chính, ta hòa hoãn với quân Tưởng để rảnh tay đối phó với Pháp. Ta chủ trương Hoa-Việt thân thiện, Đảng cộng sản tuyên bố tự giải tán, dành cho tướng lĩnh tay sai của Tưởng nhiều quyền lợi kinh tế, chính trị. 
Sau khi Pháp-Tưởng bắt tay với nhau ta đã có nhiều nhân nhượng với Pháp nhằm nhanh chóng đẩy Tưởng về nước, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta đồng thời ta duy trì được một khoảng thời gian hòa hoãn để chuẩn bị lực lượng. Việc này đã chứng minh khả năng thỏa hiệp tài tình của taBáo Thế giới và Việt Nam, truy cập ngày 2 tháng 3 2011
, biến thỏa thuận giữa 2 cường quốc trở thành thỏa hiệp tay ba giữa 1 nước thuộc địa nhược tiểu với 2 cường quốc. 
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi với khó khăn chồng chất từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946, chính sách đối ngoại mềm mỏng, khôn khéo, nhân nhượng có nguyên tắc, chú ý ngoại giao nước lớn đã giúp chúng ta tránh được cùng lúc đối đầu với nhiều kẻ thù, đẩy lùi từng kẻ thù một cũng như tranh thủ hết mức tình trạng hòa bình để chuẩn bị cho cuộc chiến không thể tránh khỏi. Rõ ràng ngoại giao ta đã đạt được những thành quả to lớn. Cũng phải khẳng định rằng cá nhân lãnh đạo- Hồ Chí Minh- cũng có vai trò không nhỏ trong thắng lợi này.
Lại nói về thời kỳ 1975-1985, ta vừa giành chiến thắng vang dội trước đế quốc hàng đầu thế giới, được nhiều quốc gia công nhận và giúp đỡ, bước vào thời kỳ độc lập thống nhất đất nước, thuận lợi hơn rất nhiều so với thời kỳ 1945-1946, đúng ra ta phải giành được nhiều thắng lợi trong phát triển đất nước, trong đối ngoại. Nhưng thực tế lại là sự cô lập, bao vây, cấm vận. Phải chăng, chúng ta chưa tiếp thu được những bài học của lịch sử, quá tự mãn với chiến thắng?
Bài học kinh nghiệm
Bài học thích ứng với tình hình mới:
Thắng lợi của Việt Nam 1975, cùng với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia đã góp phần khiến phạm vi chủ nghĩa xã hội được mở rộng ra toàn bán đảo Đông Dương. Tuy nhiên, trong phe xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn Xô – Trung vẫn gay gắt, chủ nghĩa dân tộc mạnh lên ở một số nước như phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan, nhóm “Hiến chương 77” ở Tiệp Khắc. Anbani và Rumani ngày càng tách ra khỏi Liên Xô, bất bình của nhân dân Đông Đức ngày càng tăng lên do đời sống thua kém nhiều so với Tây Đức. Ba dòng thác cách mạng Khái niệm chính trị do Lê Duẩn - cố tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, “ba dòng thác cách mạng” gồm có hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa
 bước vào giai đoạn suy yếu, các nước XHCN khủng hoảng, Trung Quốc: bên bờ vực, tốc độ phát triển của Liên Xô chỉ bằng ½ tốc độ những năm 50, 60 Đại sứ Nguyễn Đình Bin (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 293.
.
 Như vậy, ngay trong bản thân phe xã hội chủ nghĩa, đã nảy sinh những bất đồng, mầm mồng của sự tan rã. Nhưng liệu Việt Nam đã nhận ra những biến đổi này và kịp thời có những thích ứng phù hợp với tình hình thực tế?
Câu trả lời thể hiện qua chính sách “nhất biên đảo” theo Liên Xô của Việt Nam và những hành động duy ý thức hệ trong mối quan hệ Việt Nam – ASEAN. Ta “Lường chưa hết những biến cố có mặt không thuận lợi trong tình hình thế giới”Bộ Chính trị( 1982)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội( I ), 37.
Trước hết,không thể phủ nhận tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Ta đã tuân theo quy luật phát triển đi lên của lịch sử, “đi tắt đón đầu” bỏ qua tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là định hướng đúng đắn. 
Tuy nhiên, bài học nêu ra ở đây là không vì thế mà phụ thuộc quá lớn vào ý thức hệ, cụ thể là “tôn thờ” phe xã hội chủ nghĩa, mà bỏ qua những nguy cơ tiềm tàng trong nội bộ phe này; không nhận thức được những biến chuyển của thời đại để có thích nghi với tình hình thực tế. Lại nói, giai đoạn những năm 1975, trên bình diện thế giới, Chiến tranh Lạnh đang đi vào giai đoạn hòa dịu. Thế hai phe, hai cực tan vỡ từng mảng, hình thành thế đa cực, đa trung tâm; các nước lớn điều chỉnh chiến lược, xu thế chạy đua kinh tế bắt đầu, đặc biệt từ những năm 80. Xu thế hòa bình, trung lập ở Đông Nam Á phát triển.
 Nắm bắt được tình thế này, một chính sách khôn ngoan sẽ tận dụng thời cơ để đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại trên cơ sở càng nhiều bạn, càng bớt thù. Nhất là đối với một nước mới giành được độc lập như Việt Nam, không thể nào chỉ trông cậy vào các đàn anh lớn XHCN, mà chính hai anh cả Liên Xô, Trung Quốc lại đang có mối bất hòa, quay ra đối địch. Chúng ta cần gì? Một nước nhỏ như Việt Nam thì càng nhiều bạn càng tốt. Trong cái thế nằm ngay cạnh nước lớn, nước khổng lồ, mà không có bạn thì sẽ bị ép.
 Vậy chỉ loanh quanh với “người nhà” xã hội chủ nghĩa hay mở rộng quan hệ với thế giới? Đáp án đã quá rõ ràng, nhưng vào thời điểm đó, nhận thức còn hạn chế đã ràng buộc các mối quan hệ của Việt Nam. Ta đã đánh mất cơ hội làm bạn với ngay cả những nước láng giềng trong khu vực, cụ thể là các nước ASEAN Xem phụ lục 3
. Bài học về sự thích ứng với chuyển biến trên thế giới là bài học đầu tiên rút ra từ thời kì 1975 – 1985.
Bài học lựa chọn chính sách ưu tiên:
Đặc điểm nổi bật trong chính sách đối ngoại của Việt Nam – ASEAN giai đoạn 1975 – 1985 là sự xuất hiện của vấn đề Campuchia. Đây cũng là một trong những nguyên nhân to lớn cản trở mối quan hệ với các nước trong khu vực của Việt Nam.
Về bản chất, sự can thiệp của Việt Nam vào vấn đề Campuchia do lợi ích quốc gia của ta bị ảnh hưởng, an ninh biên giới Tây Nam bị đe dọa, mặt khác, cũng là nghĩa vụ quốc tế, giúp nhân dân Campuchia loại trừ chế độ diệt chủng Pôn Pôt. Nhưng liệu có là đúng đắn khi ta để quân lại nước bạn quá lâu ( từ 1978 đến 1989 sau khi qua nhiều vòng thỏa thuận). Và cũng vì vấn đề Campuchia, ta đã gây ra nhiều nghi kị từ phía các nước ASEAN. 
Mặt khác, sau 1975, ta được thừa hưởng kho vũ khí của Mỹ Ngụy ở miền Nam, cùng nhiều biện pháp cứng rắn trên đất bạn Campuchia. Ta đã dấy lên lòng nghị kị đương nhiên từ các nước ASEAN về một Việt Nam hung hãn trên đà chiến thắng có thể làm tổn hại đến an ninh quốc gia họ. Nếu như ta đặt ưu tiên vào cải thiện mối quan hệ với các nước thuộc ASEAN, thì chắc chắn chính sách “sống còn” đối với Đông Dương cần được điều chỉnh. Ngày này, nếu đặt mối quan hệ với hai nhóm nước này lên bàn cân, có lẽ sẽ thấy tầm quan trọng của các nước ASEAN mà ta đã bỏ qua.
Hơn nữa, vấn đề không chỉ đến từ phía ASEAN. Ngay Việt Nam cũng duy trì suy nghĩ phiến diện, coi ASEAN là khối quân sự SEATO trá hình, là tay sai của đế quốc (do tư duy thời chiến : thời chiến tranh chống Mỹ : Thái Lan có 2 sư bộ binh. Philippine có 2000 công dân vụ Thái Lan và Philipine có căn cứ quân sự phục vụ Mỹ. Singaopre là nơi tiếp liệu, nghỉ ngơi. Malaysia giúp huấn luyện cảnh sát ngụy) Vũ Dương Huân, Học viện QHQT, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp Đổi mới (1975-2002), Hà Nội, 2002
. 
Trong chính sách bốn điểm (25/7/1976), ta đòi hỏi từ họ một “nền trung lập thật sự”. Liệu đó có là yêu cầu các nước này “tránh xa” Mỹ và Trung Quốc. Nếu vậy, liệu đó có là đòi hỏi quá cao, bất hợp lí, và ích kỉ, không nghĩ sâu sắc rằng, mỗi nước đều có những lợi ích thiết thân không dễ gì từ bỏ. Chúng ta là một nước nhỏ, cần chỗ dựa, vậy mà lại đưa ra những “yêu sách” đáp lại lời mời gia nhập ASEAN năm 1976. Chúng ta đã từ chối khéo một cơ hội hội nhập khu vực những ngày đầu thống nhất, để lại hậu quả khó khăn cho nhiều năm trước đổi mới. Không sớm gia nhập ASEAN trong khi lúc ấy ASEAN rất muốn Việt Nam vào khối vì họ nể sức mạnh đánh Mỹ. Mình lại “không chơi” thành ra là chậm trễ tới cả mười năm. Bên cạnh một nước lớn, Việt Nam phải chịu sức ép là vì ở khu vực lẻ loi, đối đầu, cứ khư khư ba nước Đông Dương bé xíu. Trên thế giới thì còn có mỗi Liên Xô làm chỗ dựa, mà Liên Xô lúc ấy cũng đã bắt đầu ngả cờ. Bài phỏng vấn cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ 
Như vậy, có thể thấy giai đoạn 1975 – 1985 là giai đoạn “gập ghềnh” trong mối quan hệ Việt Nam – ASEAN. Dù ta đã kêu gọi đối thoại với ASEAN, thi hành chính sách tranh thủ và đấu tranh với ASEAN nhưng trên thực tế còn nặng về đấu tranh, phê phán, tư tưởng đối lập khối Đông Dương xã hội chủ nghĩa với ASEAN tư bản chủ nghĩa. Như vậy, vô hình chung quan hệ Việt Nam ASEAN trong giai đoạn 1975 – 1985 ít tiến triển, ngược lại, lại có phần suy giảm. Đây là điều đáng tiếc và cũng là bài học đắt giá của ngoại giao Việt Nam trước ngày Đổi mới.
Sự cần thiết phải đổi mới
Cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, bối cảnh thế giới lúc đó có nhiều biến động: đối đầu Mỹ- Xô lại căng thẳng trở lại đúng với bản chất của nó; mâu thuẫn Xô-Trung ngày càng gay gắt, Trung Quốc có xu hướng thân Mỹ chống Liên Xô. Cùng với tình hình chính trị thì lúc này trên thế giới, các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cũng phát triển đòi hỏi các nước phải mở cửa để bắt kịp những dòng chảy kinh tế đó.
Trong khu vực, ASEAN đang ngày càng hoàn thiện để tập trung cho mở rộng quan hệ với các nước láng giềng cũng như các nước ngoài khu vực để tập trung cho phát triển kinh tế.
Mười năm sau ngày giải phóng, chúng ta vẫn phải đối mặt với một nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, khủng hoảng kéo dài do cơ cấu chưa hợp lý, quản lý kinh tế theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp dẫn đến sự trì trệ, bế tắc, cung không đủ cầu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó Mỹ và các nước đã bao vây, cấm vận, cô lập Việt Nam, chúng ta chủ yếu quan hệ với Liên Xô và các nước Đông Âu. Mà trong dòng chảy của thời đại là mở cửa để phát triển lúc đó thì tình hình nước ta lúc này là điều không thể.
	Trong thời điểm sau 1975, chúng ta nhìn nhận láng giềng ASEAN dưới góc độ thành viên lẻ tẻ và Đảng ta cũng chủ trương đặt vấn đề tìm hiểu nhau. Nhưng cái nhìn tổng thể về ASEAN vẫn không thay đổi: chúng ta nhận thức về ASEAN như là một khối quân sự trá hình, đồng thời chúng ta cũng đang muốn dựa vào đàn anh Liên Xô để tiến lên chủ nghĩa xã hội, ASEAN lại chủ yếu dựa vào chỗ dựa là Trung Quốc nên để tiến tới bắt tay với nhau bình thường hoá quan hệ không phải là điều dễ dàng. Rào cản ý thức hệ cùng với cách nhìn nhận vào chỗ dựa quá lớn còn lấn sâu trong cả cách tư duy và hành động của cả hai bên. 
Trong khoảng thời gian đó quan vấn đề Campuchia nổi lên càng làm cho việc cải thiện mối quan hệ trở nên khó khăn hơn bao giờ hết bởi vì nó còn có sự nhúng tay cùng với những toan tính của các nước lớn mà cụ thể là Mỹ và Trung Quốc.cũng do vấn đề Campuchia mà quá trình bình thường hoá quan hệ với Mỹ gặp khó khăn.
Trong bối cảnh mới, chúng ta vẫn đang thực hiện chính sách cũ: chính sách đối ngoại của chúng ta lúc đó quá cứng nhắc nên đã bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá quan hệ với láng giềng Asean; chính sách kinh tế không linh hoạt, mô hình kinh tế bộc lộ nhiều khuyết tật. Những thực tế trên kéo nước ta đi lùi suốt 20 năm trời và đặt ra một tình thế cho đất nước thời bấy giờ là “đổi mới hay là chết”. 
Khởi đầu từ nghị quyết 32 vào tháng 7-1986 với chủ trương đổi từ đối đầu sang đối thoại, chúng ta bước vào đổi mới. Đường lối đổi mới được hoạch định một cách rõ ràng ở đại hội VI diễn ra vào tháng 12-1986. Vào thời điểm đó, Đảng tập trung vào đổi mới kinh tế- xã hội nên việc đổi mới về tư duy đối ngoại chưa có điều kiện đi sâu. Đại hội VI nhấn mạnh tư tưởng “ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình Đông Nam Á và trên thế giới” Bộ Chính trị (1997)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI 1986,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 
. Đây là sự chuyển biến quan trọng trong nhận thức, quan điểm về giải quyết tranh chấp, phá thế bao vây cấm vận.
Sau đại hội đổi mới năm 1986, giữa chúng ta và ASEAN đã có những dấu hiệu tìm hiểu nhau để giải quyết vấn đề Campuchia, và 9 năm sau- vào năm 1995, chúng ta trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Và cũng trong năm đó chính ta cũng chính thức bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Trong 9 năm đó vẫn có những khó khăn trong mối quan hệ song phương của Việt Nam-ASEAN bởi trên thực tế đến những năm 1989 chúng ta mới rút hết quân khỏi Campuchia. Nhưng đó thực sự là một trong những thành tựu quan trọng của đất nước ta sau đổi mới.
LỜI KẾT
Đã gần 30 năm qua đi từ Đại hội Đổi mới năm 1986, Đại hội khép lại một thập kỉ khó khăn, nhiều sóng gió của nền ngoại giao nước nhà và 16 năm kể từ ngày Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN (28 – 7 – 1995) nhưng bài học về chính sách đối ngoại với các nước láng giềng vẫn còn đó: cách ứng xử trong quan hệ với các nước cùng khu vực phải là mối quan tâm hàng đầu của ngoại giao. Nhà ngoại giao lão thành Nguyễn Khắc Huỳnh từng khẳng định trong bài viết của mình : “Người ta có thể chọn bạn nhưng không ai có thể chọn được láng giềng.” Học viện Quan hệ Quốc tế (1995), Kỷ yếu hội thảo 50 năm Ngoại giao Việt Nam, Hà Nội, 80 - 84
. Việt Nam ngày nay nói riêng và các nước thuộc khối ASEAN nói chung vẫn là những nước nhỏ, chịu sự chi phối nhiều từ những nước lớn, mà nổi bật ở khu vực chính là Trung Quốc, bởi vậy chính sách đối ngoại với các nước trong khu vực nhất thiết phải được quan tâm như một mục tiêu chiến lược trên cơ sở thích nghi, chung sống phấn đấu xây dựng quan hệ láng giềng tốt, lâu dài, giúp đỡ, bảo vệ lẫn nhau, giải quyết xung đột, kể cả những mối hiềm khích lịch sử bằng con đường ngoại giao hòa bình, hợp tác cùng phát triển. Như ông cha ta có câu “bán anh em xa, mua láng giềng gần”, một chính sách ngoại giao khôn khéo, coi trọng mối quan hệ với các nước anh em lân cận sẽ làm khăng khít hơn tình đoàn kết Đông Nam Á, tận dụng môi trường an ninh thuận lợi, kinh tế rộng mở để phát triển bền vững và nâng cao hình ảnh của chính mỗi quốc gia trong mắt bạn bè quốc tế.
Danh mục tài liệu tham khảo
Sách 
Đại sứ Nguyễn Đình Bin (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
Nguyễn Văn Lập (2010), Giấc mộng Trung Hoa, Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội.
Trần Quang Cơ, Hồi ức và suy nghĩ, 
Nguyễn Vũ Tùng (2007) Chính sách đối ngoại Việt Nam (II), NXB Thế giới, Hà Nội
Vũ Dương Huân (2002), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp Đổi mới (1975-2002), Hà Nội.
Học viện Quan hệ Quốc tế (1995), Kỷ yếu hội thảo 50 năm Ngoại giao Việt Nam, Hà Nội.
Văn kiện của Đảng
Bộ Chính trị ( 1977), Báo cáo chính trị của ban chấp hành TW đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, phần 6.
Bộ Chính trị (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập I
Bộ Chính trị (1997)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI 1986,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ chính trị(2001)Báo cáo chính trị Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Tài liệu từ Internet
The second ASEAN Summit ( 1977) Joint Communiqué of The Second ASEAN Heads of Government Meeting, Kuala Lumpur, 
Wikipedia, bách khoa toàn thư mở, 
Báo Thế giới và Việt Nam 
BBC Tiếng Việt 
Phụ lục 1:
Tư liệu ảnh
Chợ Dân Sinh (quận 1, TP.HCM) - nơi đã từng là một trong những địa chỉ của công cuộc cải tạo công
Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IV năm 1976
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ V năm 1982
Đồng chí Nguyễn Văn Linh với các đại biểu tham dự Đại hội Đảng V
Phụ lục 2: 
Vấn đề Campuchia
Cách đây hơn 30 năm, cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam nước ta do tập đoàn phản động Pôn Pốt gây ra, đã bị quân dân ta đánh trả quyết liệt. Càng thất bại ở biên giới, chúng càng điên cuồng thực hiện đường lối diệt chủng, thanh trừng nội bộ và nhân dân dưới chiêu bài “cách mạng triệt để” và “nhổ cỏ phải nhổ sạch gốc”, chúng đã dồn nhân dân Campuchia đứng trước miệng hố diệt vong. 
Tức nước vỡ bờ, trước tình hình ấy nhân dân ở nhiều nơi, dưới sự lãnh đạo của những đảng viên, cán bộ cách mạng Campuchia chân chính đã nổi lên chống lại đường lối diệt chủng của chúng, từ Đông Bắc đến Tây Nam, mạnh mẽ nhất là ở Quân khu Đông (Quân khu 203) và hàng vạn nhân dân đã chạy thoát sang tị nạn ở Việt Nam. 
Ông Hun Sen (ngày nay là Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia) đã sớm nhận rõ bản chất phản động của bè lũ Pôn Pốt, đã ly khai chúng và tìm cách cứu nước, tập hợp những người yêu nước, tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và cùng với các ông Hiêng Xomrin, Chia Xim, Sai Phu Thoong, Bu Thoong, những người lãnh đạo lực lượng nổi dậy chống Pôn Pốt trong cả nước tái lập Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia đã bị bọn phản động Pôn Pốt phá hoại và thành lập Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia.
Ngày 2 tháng 12 năm 1978, tại Snuôl, vùng đất mới được giải phóng khỏi bàn tay cai trị của Pôn Pốt, Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia làm lễ ra mắt trước quốc dân đồng bào, trở thành lá cờ hiệu triệu của cách mạng Campuchia trước nhân dân trong nước và thế giới. 
Hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước và nhân dân Campuchia, thực hiện đường lối quốc tế của Đảng, Chính phủ ta và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn là tự giúp mình”, sau khi đánh bại âm mưu gây chiến tranh xâm chiếm Tổ quốc ta ở biên giới Tây Nam của Pôn Pốt, lực lượng ta chuyển sang thành đội quân tình nguyện làm nghĩa vụ quốc tế, giúp cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, phối hợp chặt chẽ với lực lượng cách mạng Campuchia mở cuộc tiến công chiến lược trên khắp chiến trường Campuchia.
Ngày 7 tháng 1 năm 1979, thủ đô Phnôm Pênh được hoàn toàn giải phóng, chính phủ và quân đội Pôn Pốt tan rã tháo chạy, chế độ diệt chủng của Pôn Pốt sụp đổ. 
Cuộc tiến công chiến lược giành được thắng lợi nhanh chóng, bên cạnh quyết tâm, lòng dũng cảm và nghệ thuật quân sự, còn có một yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định, đó là cuộc tiến công hợp lòng dân và đầy lòng nhân đạo. Lực lượng cách mạng Campuchia và quân tình nguyện Việt Nam ở tất cả các hướng, đi đến đâu cũng được nhân dân đón tiếp, vui mừng không kể xiết. Nhân dân Campuchia gọi đó là “đội quân nhà Phật”, từ cõi thiện xa xôi đến cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm hoạ diệt chủng. Nhiều người coi như mình được sống lại từ cõi chết. 
Chế độ diệt chủng của Pôn Pốt đã bị đập tan, nhưng tàn quân của chúng còn ẩn náu trong một số vùng rừng núi ở nội địa và bên kia biên giới Thái Lan, được sự hà hơi tiếp sức của thế lực phản động quốc tế, chúng âm mưu tiếp tục đánh phá cách mạng Campuchia, hòng quay lại đặt ách thống trị tàn bạo trên đất nước Campuchia lần nữa. 
Thể theo lời kêu gọi của Hội đồng nhân dân cách mạng và nhân dân Campuchia và thực hiện Hiệp ước tương trợ hợp tác lâu dài và toàn diện đã ký kết giữa chính phủ hai nước Việt Nam – Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục ở lại Campuchia. Qua 10 năm liên minh chiến đấu, được sự thương yêu đùm bọc của nhân dân Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam đã không tiếc máu xương và mồ hôi công sức vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Campuchia. 
Tháng 9-1989, khi lực lượng cách mạng Campuchia đủ sức đảm đương nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng tổ quốc, “đội quân nhà Phật” rút về nước trước sự lưu luyến đầy tình cảm của nhân dân Campuchia. Ngày 26-9-1989, tại Quảng trường Hoàng cung, Đảng, Chính phủ và nhân dân Campuchia tổ chức lễ tiễn đưa quân tình nguyện Việt Nam về nước, hoàn thành nghĩa vụ quốc tế vẻ vang. 
Nhân dân Campuchia tiễn bộ đội Việt Nam về nước.
Chủ tịch Hun Sen đã phát biểu với phóng viên Báo Quân đội Nhân dân (Việt Nam): “Chúng tôi không bao giờ quên được hành động anh hùng và công ơn to lớn của quân tình nguyện Việt Nam. Đội quân nhà Phật không chỉ giúp quân đội Campuchia chiến đấu mà còn làm nhiều nhiệm vụ giúp nhân dân Campuchia hồi sinh. Công lao của cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam to lớn, không kể hết được. Có thể nói nếu không có sự giúp đỡ của quân đội và nhân dân Việt Nam, Campuchia không thể lớn mạnh như bây giờ”.
Phụ lục 3: 
Bản đồ ASEAN
Phụ lục 4
Những sự kiện chính trong quan hệ Việt Nam-ASEAN 
giai đoạn 1975-1985
Năm 1975
Ngày 30 tháng Tư
Quân giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm Dinh tổng thống ngụy quyền Sài Gòn. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam toàn thắng.
Ngày 1 tháng Năm
Lực lượng vũ trang của tập đoàn Pôn Pốt ở Campuchia tấn công, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam tại nhiều điểm từ Hà Tiên đến Tây Ninh và chiếm đảo Thổ Chu.
Ngày 26 tháng Chín
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) tuyên bố tự giải tán.
Năm 1976
Ngày 24 tháng Hai
Các nước ASEAN kí Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Đông Nam Á tại Bali.
Ngày 14 tháng Mười hai
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1977
Ngày 30 tháng Tư
Lực lượng vũ trang của Campuchia Dân chủ tấn công 14 xã trên tuyến biên giới thuộc tỉnh An Giang
Ngày 18 tháng Bảy
Lực lượng vũ trang Campuchia Dân chủ tấn công biên giới tỉnh Kiên Giang và pháo kích thị xã Châu Đốc (An Giang).
Ngày 31 tháng mười Hai
Campuchia Dân chủ tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam
Năm 1978
Ngày 5 tháng Hai
Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố về quan hệ Việt Nam – Campuchia và đưa ra đề nghị ba điểm về chấm dứt xung đột.
Ngày 13 tháng Chín
Thủ tướng Phạm Văn Đồng bắt đầu thăm các nước Đông Nam Á: Thái Lan, Philippin, Indonesia, Malaixia và Singapore.
Ngày 2 tháng Mười hai
Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia được thành lập do Heng Sarim đứng đầu.
Ngày 23 tháng Mười hai
Quân đội Campuchia Dân chủ có xe tăng và pháp binh yểm trợ đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam ở Tây Ninh.
Ngày 25 tháng Mười hai
Quân đội Việt Nam phản kích giàng trẻ quân đội Campuchia Dân chủ xâm lược.
Năm 1979
Ngày 7 tháng Giêng
Quân đội của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và quân tình nguyện Việt Nam giải phóng Phnom Pênh 
Ngày 10 tháng Giêng
Công hòa Nhân dân Campuchia thành lập.
Năm 1980
Tháng Giêng
Hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương lần thứ nhất tại Phnom Pênh nêu vấn đề sẵn sàng đàm phán với các nước Đông Nam Á về việc xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, độc lập, tự do, trung lập, ổn định, phồn vinh.
Ngày 18 tháng Bảy
Hội nghị goại trưởng Việt Nam, Lào, Campuchia lần thứ hai tại Viêng Chăn khẳng định những nguyên tắc trong quan hệ giữa ba nước với các nước Đông Nam Á khác.
Năm 1981
Ngày 27 tháng Giêng
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam, Lào, Campuchia lần thứ ba tại thành phố Hồ Chí Minh đề nghị họp Hội nghị giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN.
Ngày 13 tháng Sáu
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam, Lào, Campuchia lần athuws tư tại Phnom Pênh khẳng định lại đề nghị họp hội nghị giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN có sự tham gia crua Tổng thư ký Liên hợp quốc và một số nước khu vực với tư cách quan sát viên.
Ngày 22 tháng Sáu
Khome Đỏ, phái Hoàng gia và phái Son San thành lập chính quyền ba phái, giành ghế Campuchia tại Liên hợp quốc.
Ngày 13 tháng Bảy
Hội nghị quốc tế về Campuchia do ASEAN đề xướng họp tại Neww York, với 77 nước dự, 6 nước quan sát viên. Việt Nam, Lào, Cộng hòa Nhân dân Campuchia lên án hội nghị này.
Năm 1982
Ngày 16 đến 17 tháng Hai
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam, Lào, Campuchia lần thứ năm tại Viêng Chăn khẳng định thúc đẩy đối thoại với các nước ASEAN.
Ngày 27 tháng Ba
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 6 tháng Bảy
Tại Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam, Lào, Campuchia lần thứ sáu tại thàn phố Hồ Chí Minh, Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Campuchia thỏa thuân sẽ rút một số quân tình nguyện Việt Nam trong tháng Bảy 1982.
Năm 1983
Ngày 23 tháng Hai
Hội nghị cấp cao Việt Nam, Lào, Campuchia tại Viêng Chăn tuyên bố hàng năm, mộ bộ phận quân tình nguyện Việt Nam sẽ rút khỏi Campuchia.
Tháng Năm
Việt Nam rút quân đợt hai khỏi Campuchia.
Năm 1984
Ngày 7 tháng Giêng
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh thăm Campuchia.
Ngày 28 tháng Giêng
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam, Lào, Campuchia lần thứ tám tại Viêng Chăn khẳng định thực hiện một đợt rút quân Việt Nam trong năm 1984.
Năm 1985
Ngày 17 tháng Giêng
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam, Lào, Campuchia lần thứ mười tại thành phố Hồ Chí Minh

File đính kèm:

  • doctieu_luan_viet_nam_xu_su_voi_asean_nhu_the_nao_sau_ngay_giai.doc