Tiểu luận Vụ việc tước đoạt tài sản giữa Metalclad Corporation và Mexico
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Vụ việc tước đoạt tài sản giữa Metalclad Corporation và Mexico", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Vụ việc tước đoạt tài sản giữa Metalclad Corporation và Mexico
Tiểu luận VỤ VIỆC TƯỚC ĐOẠT TÀI SẢN GIỮA METALCLAD CORPORATION VÀ MEXICO I.Giới thiệu vụ việc 1. Tranh chấp này xảy ra ngoài phạm vi hoạt động của nguyên đơn, Công ty Metalclad, Metalclad ở Guadalcazar trong thành phố tự trị của Mehico, nằm ở San Lui Potosi của quốc gia Mehico( dưới đây là “ SLP” ). Metalclad cho rằng Mehico( dưới đây là “ Mexico”), Thông qua chính quyền địa phương của SLP và Guadalcazar, can thiệp sự phát triển của Metalclad và hoạt động của landfill . Metalclad khiếu nại về việc can thiệp này là vi phạm chương 11 các điều khoản về đầu tư của hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ( dưới đây là NAFTA). Cụ thể: Metalclad đã chỉ ra sự vi phạm i. điều 1105, NAFTA “ thoả thuận đầu tư và các hành động khác của các nhà đầu tư phù hợp với luật quốc tế, bao gồm đối xử công bằng, hợp lý và an ninh, bảo vệ tuyệt đối và ii. điều 1110, NAFTA chỉ ra rằng: “ Không bên nào gia nhập NAFTA có thể trực tiếp hoặc gián tiếp quốc hữu hoá hoặc chiếm đoạt trong đầu tư của nhà đầu tư bên kia về lãnh thổ hoặc đo đạc tương đương như quốc hữu hoá hay đo đạc trong đầu tư( chiếm đoạt) , ngoại trừ: (a) cho mục đích công cộng; (b) Trên cơ sở không phân biệt (c) phù hợp với tiến trình của luật và Điều 1105(1) (d) Thanh toán bồi thường phù hợp với khoản 2 tới khoản 6. Mexico từ chối những lời cáo buộc này 2. Các bên a.Nguyên đơn Metalclad là một doanh nghiệp của Mỹ, kết hợp theo luật của Delaware. Công ty cổ phần sinh thái Metalclad( dưới đây là Eco) là một doanh nghiệp của Mỹ, kết hợp theo luật của Utah. Eco hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Metalclad, và sở hữu 100% số cổ phần trong Ecosistemas Nacionales, SA de CV ( dưới đây là ECONSA), một tập đoàn Mexico. Trong năm 1993, ECONSA mua các công ty Mexico Confinamiento Tecnico của Residuos Industriales, S.A của C.V( dưới đây là CONTERIN) với mục đích cho mua, phát triển và hoạt động sau chuyển nhượng nhà ga và landfill trong thung lũng LaPedrera, nằm trong Guadalcazar.CONTERIN là chủ sở hữu của landfill, hồ sơ về tài sản cũng như giấy phép và giấy chứng nhận đó là cơ sở cho tranh chấp này .CONTERIN là doanh nghiệp thay mặt trong đó có Metalclad, như là “ Nhà đầu tư của một bên”, đã gửi đơn khiếu nại đến trọng tài theo điều 1117, NAFTA Trong các thủ tục tố tụng, Metalclad đã được đại diện bởi: Clyde C.Pearce, Esq Văn phòng luật ClydeC.Pearce 1418 North Main Street Suite 201 Salinas, California 93908 Hoa Kỳ b.Bị đơn Các bị đơn là chính phủ liên hiệp tiểu bang Mexico. Và được đại diện bởi: Lic. Hugo Perezcano Diaz Consultor Juridico Subsecretaria de Negociaciones Comerciales Internacionales Direccion General de Consultoria Juridica de Negociaciones Secretaria de Comercio y Fomento Industrial Alfonso Reyes No.30, Piso 17 Colonia Condesa Mehico, Distrito Federal, C.P. 06149 Mehico. c.Thực thể khác: Hội đồng thị trấn của thành phố Guadalcazar, SLP, là chính quyền thành phố của Guadalcazar, là một phía của dự án landfill. Trong khi không phải Guadalcazar cũng không phải SLP được cho là bị đơn, Metalclad cho rằng Guadalcazar và SLP đã có những hành động đối xử không công bằng và vi phạm NAFTA II.Diễn biến - Năm 1990 , chính phủ Liên bang Mexico đã uỷ quyền cho COTERIN xây dựng và vận hành một trạm chuyển giao cho các chất thải độc hại tại La Pedrera, nằm trong một thung lũng Guadalcazar trong SLP..Khu vực này có diện tích khoảng 814 hecta và nằm cách thủ đô của SLP khoảng 100km về phía Đông Bắc , nằm cách biệt bởi daỹ núi Sierra Guadalzar ,cách 70km từ phía thành phố Guadalcazar.Khoảng chừng 800 người sinh sống trong vòng 10km của vùng này . - Ngày 23-1-1993 , Viện sinh thái học Quốc Gia (INE) , cơ quan thay thế độc lập của Nghề cá,tài nguyên quốc gia và môi trường Mexico ( SEMARNAP), cấp cho COTERIN một giấy phép liên bang để xây dựng vùng đất chứa chất thải độc hại ở La Pedrera. - Ba tháng sau khi liên bang cấp giấy phép xây dựng, ngày 23 tháng 4 năm 1993, Metalclad kí kết vào 1 thỏa thuận lựa chọn 6 tháng nhằm mua COTERIN cùng với các giấy phép, để xây dựng các landfill. - Một thời gian ngắn sau đó,vào tháng 5 năm 1993,chính phủ của SLP đã cấp cho COTERIN 1 giấy phép sử dụng đất của nhà nước nhằm xây dựng các landfill .Các giấy phép được cấp tùy thuộc vào các điều kiện mà dự án điều chỉnh,để các chi tiết và yêu cầu kỹ thuật tương ứng phù hợp với các chỉ định của chính quyềnvà kèm theo tuyên bố chung rằng các giấy phép đã khôngthẩm tra kĩ lưỡng quyền lợi hoặc quyền sở hữu của nguyên cáo vì vậy không cho phép xây dựng,hay các hoạt động kinh doanh khác. - Vào 31 tháng 1 năm 1995 , INE đã nhượng lại cho Metalclad 1 giấy phép xây dựng liên bang bổ sung để xây dựng nơi chứa chất thải độc hại cuối cùng và những công trình xây dựng bổ sung khác nh ư công trình quản lý Landfill và phòng thí nghiệm . - Metalclad hoàn thành việc xây dựng Landfill vào tháng 3-1995. Vào 10-3-1995 Metacld tuyên bố mở cửa Landfill và có rất nhiều quan chức từ Mỹ, Mexico, chính quyền trung ương và địa phương đến dự - Những người biểu tình đã ngăn cản lễ khánh thành, khóa lối đi vào và ra của xe buýt chở khách và công nhân. Metalclad khẳng định rằng những người biểu tình này một phần là do chính quyền địa phương và bang Mexico tổ chức. Từ đó ảnh hưởng đến việc Metalclad mở Landfill - Sau nhiều tháng thương lượng, 25-11-1995, Metalclad và Mexico, thông qua 2 cơ quan độc lập dưới quyền SEMARNAP đã kí vào bản đồng ý cung cấp và cho phép mở Landfill (Convenio). - Convenio khẳng định rằng việc kiểm tra môi trường của vùng này được tiến hành từ 12/94 đến tháng 3/95 và cũng nói rằng mục đích của việc kiểm tra này là xem có đúng theo luật không, nghiên cứu những điều kiện hiện có của dự án ,kiểm soát việc duy trì thực hiện, đào tạo nhân viên và những cơ chế để có thế đáp ứng những vấn đề khẩn cấp của môi trường. Convenio cũng tuyên bố rằng vì sự kiểm tra này đã phát hiện ra 1 vài thiếu sót nên yêu cầu metalclad phải đệ trình một kế hoạch hành động để sửa sai những khiếm khuyết đó. Và Metalclad thực tế đã đệ trình chương trình hành động gồm: 1 kế hoạch sửa đổi phù hợp, Metal đồng ý thực hiện các hoạt động đề ra trong kế hoạch, những hoạt động này yêu cầu việc sửa đổi và các hoạt động thương mại phải được tiến hành song song trong 3 năm đầu của landfill. Convenio cũng đưa ra 1 thời hạn hoạt động 5 năm cho landfill được INE và PROFEPA kéo dài thời hạn. Ngoài việc yêu cầu sửa đổi, Convenio cũng nêu lên rằng Metal sẽ quy định 34 hecta đất như là vùng đệm cho việc bảo tồn những loài động vật bản xứ. Convenio cũng yêu cầu PROFEPA xây dựng 1 ủy ban khoa học kĩ thuật để theo dõi việc sửa đổi và yêu cầu những đại diên của của INE, của National Autonomous University of Mexico, của UASLP phải được mời tham gia vào ủy ban, đồng thời 1 ủy ban kiểm tra giám sát của người dân cũng phải được thành lập. Metal phải đóng góp 2 đồng pesos cho mỗi tấn thải cho nhũng công tác xã hội ở Guadalcazar, và phải triết khấu 10% đối với việc xử lý vứt bỏ các chất độc hại được tạo ra ở SLP. Metal cũng phải bỏ ra mỗi tuần 1 ngày cho dịch vụ miễn phí cho người dân ở vùng này với những nhân viên y tế có trình độ tốt, tuyển những lao động phổ thông trong vùng và ưu tiên đào tạo kĩ thuật cho người dân Guadalcazar. Metal cũng sẽ hỏi ý kiến nhân viên chính phủ về vấn đề sửa đổi và vấn đề phế thải độc hại, và mở 2 khóa học 1 năm về vấn đề quản lý các chất thải độc hại cho nhân viên các ngành công cộng, liên bang, bang ,thành phố cũng như các khu vực xã hội và tư nhân. - Vào 8-2-1996 INE cấp thêm cho Metalclad giấy phép cho phép mở rộng công suất các landfill từ 36000 tấn / năm lên 360000 tấn/ năm. - 23-9-1997 , 3 ngày trước khi hết nhiệm kỳ, chủ tịch đã ban hành 1 nghị định sinh thái tuyên bố 1 vùng sinh thái tự nhiên để bảo vệ cây xương rồng quý hiếm. Vùng tự nhiên này vây quanh vùng landfill. Metaclad đã dựa vào vào 1 phần của nghị định sinh thái này để bổ sung vào đơn khiếu nại về tước đoạt tài sản của mình, đảm bảo rằng các nghị định đó có hiệu quả và vĩnh viễn ngăn ngừa hoạt động của các landfill. - Landfill hiện nay vẫn im ắng ko hoạt động , Metaclad không bán hay chuyển bất kì phần nào của nó. Mexico từ chối bất cứ hãng truyền thông nào khi họ đề cập đến nghị định sinh thái. - Chính phủ Mexico đã cấp giấy phép xây dựng và hoạt động đối với khu landfill trước khi Metalclad mua lại COTERIN, và chính phủ của SLP cũng cấp một giấy phép hoạt động gợi ý việc hỗ trợ chính trị cho dự án landfill. - Vấn đề trọng tâm trong trường hợp này là, ngoài các giấy phép đã đề cập ở trên, một giấy phép của thành phố cho việc xây dựng một khu rác thải nguy hiểm landfill đã được yêu cầu. - Khi Metalclad yêu cầu, cần có những giấy phép của thành phố, trước khi mua COTERIN, các quan chức liên bang đã quả quyết rằng điều đó là cần thiết để thực hiện dự án landfill. Thực tế, theo yêu cầu mua CONTERIN của Metalclad, chính phủ liên bang đã kéo dài thời hạn giấy phép xây dựng thêm 18 tháng. - Dựa vào sự đại diện của chính phủ liên bang, Metalclad khởi công xây dựng khu chôn rác thải một cách công khai và liên tục với những hiểu biết đầy đủ về chính quyền thành phố, bang và liên bang cho tới khi thành phố yêu cầu ngừng hoạt động vào ngày 26 tháng 10 năm 1994. Metalclad đã không có được giấy phép xây dựng của thành phố. - 13 tháng sau kể từ khi Metalclad trình đơn, trong 13 tháng đó Metalclad đã tiếp tục hoạt động đầu tư công khai, rõ ràng, vào ngày 5 tháng 12 năm 1995, chính quyền thành phố đã từ chối đơn xin cấp giấy phép xây dựng của Metalclad. Quyết định này được tuyên bố ngay sau khi việc xây dựng gần như đã hoàn thành và ngay sau đó là thông báo “Convenio” quy định hoạt động của khu chôn rác thải. - Hội đồng thành phố bác bỏ đề nghị cấp phép với nhiều lý do liên quan đến sự chống đối của dân địa phương, hay việc khởi công xây dựng trước khi xin giấp phép, việc từ chối “the permit to COTERIN “ vào tháng 12 năm 1991 và tháng 1 năm 1992, và những ảnh hưởng, tác động sinh thái trên khu vực xây dựng và xung quanh các khu dân cư. - Từ 5-1996 đến tháng 12-1996 Metalclad và SLP đã cố gắng giải quyết các vấn đề liên quan đến quá trình hoạt động của landfill. Những nỗ lực này không thành công, và 2-1-1997 Metalclad bắt đầu quá trình kiện chính phủ Mexico theo chương 11 của NAFTA. III.Trình tự vụ việc - Ngày 2 tháng 10, năm 1996 Metalclad đã gửi một thông báo cho Mehico với nội dung về việc yêu cầu trọng tài phù hợp với điều 1119, NAFTA, Do đó thủ tục tố tụng instituting thay mặt cho các chủ sở hữu toàn bộ doanh nghiệp,COTERIN, với những mục đích theo điều 1117,NAFTA - Vào ngày 30/12/1996, Mehico đã gửi tới Metalclad một văn bản từ chối tuân theo đi ều 1121 khoản 2 (a) (b) NAFTA. - Ngày 14-10-1997, Metaclad đưa ra memorial của mình .Vào 17-12-1997, Mexico gửi yêu cầu xin gia hạn cho việc đưa ra Counter memorial .Metaclad ra lời phản đối lại yêu cầu gia hạn , Mexico đưa ra phản hồi và Metaclad đưa ra lời đáp lại .Ngày 7-1-1998, Toà án chấp nhận yêu cầu của Mexico cho việc gia hạn và yêu cầu bản Counter memorial đựơc đưa ra vào ngày 17-2-1998 . - Ngày 17-2-1998 ,Mexico gửi Counter memorial mà không có phản đối ,Bản Counter Memorial trình bày cụ thể được đưa vào ngày 22-5-1998, và bản giải thích cụ thể của Mexico được đưa ra cho nguyên đơn vào ngày 17-7-1998 và gửi tới ban thư ký vào ngày 20-7-1998. - Vào ngày 20-2-1998, Metaclad đã đưa ra bản kiến nghị thừa nhận sự phản đối việc đưa ra bản Counter Memorial không đúng lúc.Metalclad đã phản đối việc Mexico không đưa ra văn kiện giải thích thích hợp đi kèm với Counter memorial đúng thời hạn .Theo như yêu cầu cùa Toà đặt ra trước đó, Mexico đã đưa ra phản đối bản kiến nghi về việc phê chuẩn, sau đó metalclad đã đưa ra phản hồi và bản tuyên bố và Mexico lại tiếp tục đưa ra một phản đối bổ sung. Ngày 31-3-1998, Toà án bác bỏ bản kiến nghị phê chuẩn và tuyên bố không chấp nhận Counter memorial và vịêc xem xét loại bỏ các văn kiện cụ thể không cần thiết trong trường hợp này.Toà án tuyên bố thêm rằng điều đó có nghĩa rằng không thể xác định là quan trọng nếu sự thiệt hại của nguyên đơn là do sự trì hoãn đưa ra lời giải thích của bị đơn. - Ngày 6-4-1998, Metalclad đưa ra yêu cầu phản hồi lại Counter memorial mà Mexico đã đưa ra bản phản đối.Ngày 20-4-1998, Toà án công nhận yêu cầu phản hồi của Metalclad và yêu cầu Metalclad đưa ra một bản tương tự.Theo yêu cầu này , Toà án thông báo ngày đưa ra bản tuyên bố của Mexico được ấn định là sau khi toà xem xét biên bản phản hồi. - Ngày 22-6-1998, Metalclad đưa ra bản kiến nghị bổ sung thời gian cho việc đưa ra phản hồi mà Mexico đưa ra phản ứng.Ngày 29-6-1998, Toà án công nhận bản kiến nghị bổ sung thời gian của Metalclad và yêu cầu bản phản hồi được đưa ra vào ngày 6-8-1998.Ngày 28-7-1998, Toà án công nhận yêu cầu của Nguyên đơn gia hạn thêm thời gian đưa ra phản hồi đến ngày 21-8-1998. - Ngày 21-8-1998, Metalclad đưa ra phản hồì mà không phản đối. Các bản ghi về báo cáo chuyên môn của hiệp hôi thẩm tra Hoa Kỳ (AAA) đã được đưa ra vào ngày 3-9-1998.Bản giải trình phản hồi được đưa ra vào ngày 22-9-1998 và bản giải trinh báo cáo chuyên môn của AAA được đưa ra vào ngày 28-9-1998 . - Ngày 5 -10-1998 , Mexico đã đưa ra những nhận định liên quan đến phản hồi của Metaclad .Metaclad đã đưa ra câu trả lời cho những nhận định mà Mexico đã đưa ra cho bản phản hồi trước đó của Metalclad.Vào 13-11-1998 , Toà đã từ chối yêu cầu cuả Mexico cho việc loại trừ những thông tin cụ thể đã được đệ trình theo bản phản hồi và cho việc quyết định nộp án phí cho những thông tin đó đúng hạn .Toà yêu cầu Mexico đưa ra bản tuyên bố vào ngày 19-3-1999. - Vào 22-2-1999, Mexico đưa ra yêu cầu được gia hạn về việc trình bản tuyên bố đó ,vào 4-3-1999 , Toà chấp nhận yêu cầu của Mexico về việc gia hạn và yêu cầu Mexico phải đưa ra tuyên bố trước ngày 19-4-1999.Tương tự , Toà đã lập một cuộc thảo luân trước phiên điều trần về việc đưa ra các chứng cứ vào 6-7-1999 tại Washington DC.Toà cũng yêu cầu đưa ra danh sách nhân chứng các bên trước ngày 11-6-1999 cùng với bản thảo lời khai của nhân chứng các bên và quy định thời gian cho các bên trình bày về vụ việc và thẩm tra nhân chứng .Toà lập thêm phiên điều trần liên quan đến các sự việc vào 30-8-1999. - Vào 11-3-1999 , Mexico đưa ra yêu cầu for Production of documents .Metalclad đã đáp lại yêu cầu của mexico cho phản hồi cuả mexico trước đó Sau đó ,Vào 14-4 -1999 ,Mexico đã đưa ra đề nghị gia hạn thêm 1 tháng cho việc đưa ra tuyên bố.Vào 16-4-1999 , Toà chấp nhận 1 phần yêu cầu của mexico về việc gia hạn đến trước ngày 3-5-1999 phải đưa ra tuyên bố.Toà gia hạn thêm thời gian cho các bên đệ trình các chứng cứ đến ngày 18-6-1999.Vào 3-5-1999 , Mexico đã đưa ra bản tuyên bố. - Theo điều 1128 NAFTA, Canada đã gửi 1 bản đệ trình lên toà vào ngày 28-7- 1999 .Mặc dù Canada không có bất cứ lợi ích thương mại nào trong vụ tranh chấp này nhưng theo giải thích của NAFTA điều khoản 1110 liên quan đến tước đoạt và đền bù .Đặc biệt , Canada đã từ chối gợi ý của Metalclad , điều 1110 NAFTA tạo thành luật lệ từ những luận điểm của liên bang dựa trên những nguyên tắc của luật quốc tế về tước đoạt tài sản và đền bù . - Theo như các bên đã thoả thuận , phiên điều trần sẽ diễn ra tại Washington D.C từ 30-8-1999 đến 9-9-1999 , các bên và nhân chứng đều có mặt .Toà đã đưa ra chỉ thị yêu cầu chỉ các phần của bản đệ trình mới đựơc nêu ra tại phiên điều trần . - Toà đã đưa ra câu hỏi cho các bên , mà sẽ bổ sung vào bản tóm tắt sau phiên điều trần được các bên đưa ra vào ngày 9-11-1999 Toà sẽ lập một biên bản chính xác và đầy đủ của phiên điều trần và sắp xếp lại gửi cho các bên. - Theo điều 1128 NAFTA , liên bang đã đệ trình bằng văn bản lên toà ngày 9-11- 1999 .Mặc dù liên bang không có bất cứ lợi ích thương mại nào trong vụ tranh chấp này nhưng bản đệ trình thể hiện lập trường của liên bang , mọi hành động của chính quyền địa phương bao gồm chính quyền thành phố tuỳ theo quy định của NAFTA .Liên bang cũng cho rằng , điều 1110 NAFTA, thuật ngữ : “ tantamount to expropriation” bao gồm cả tước đoạt đầu tư trực tiếp và gián tiếp.Liên bang cũng bác bỏ gợi ý cho rằng thuật ngữ trên là tạo ra một dạng tước đoạt mới mà trước đây chưa từng được công nhận trong tập quán quốc tế . IV.Lập luận của các bên 1.Metalclad: - Vào 11 /6 /1993 ,Metalclad đã gặp thống đốc của SLP đ ể thảo lu ận d ự án..Metalclad xác nhận rằng tại buổi họp này , họ đã đạt được sự ủng hộ của thống đốc SLP cho dự án .Trên thực tế , sự công nhận của thống đốc tại phiên điều trần , rằng một người có thể hy vọng thống đốc hỗ trợ các dự án nghiên cứu nếu sự nghiên cứu có thể chắc chắn rằng chỗ đất xây dựng được chứng thực là thích hợp hoặc khả thi và tác động của nó với môi trường là phù hợp với tiêu chuẩn của ngừơi Mexico . - Metalclad xác nhận thêm rằng Chủ tịch của INE và SEDUE cho rằng những giâý phép cần thiết cho landfill được đưa ra trừ giấy phép liên bang cho landfill hoạt động . - Metalclad cũng quả quyết việc các tổng giám đốc của SEDUE đã tiết lộ với Metalclad rằng trách nhiệm của việc thu thập các dự án hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng địa phương được sắp đặt với chính phủ liên bang. Ngày 10 tháng 8, năm 1993.INE đã cấp cho Coterin 1 giấy phép của liên bang cho phép hoạt động của các landfill .tháng 10 năm 1993,Metalclad đã sử dụng quyền lựa chọn của chính mình và mua Coterin,vị trí landfill và các liên kết cho phép khác. - Metalclad quả quyết rằng nó không phải thực thi quyền lưa chọn mua COTERIN mà phải được liên bang và quốc gia đồng ý rõ ràng và ủng hộ đề án này. - Metalclad khẳng định rằng không lâu nữa sau sự mua lại Coterin,thống đốc của SLP đã bắt tay vào 1 chiến dịch quần chúng nhằm tố cáo và ngăn chặn quá trình hoạt động của các landfill . - Metalclad quả quyết thêm . Tuy thế , vào tháng 4 năm 1994 , sau 1 tháng đàm phán , Metalclad tin rằng agreement của SLP ủng hộ dự án là được đảm bảo .Bởi vây ,vào tháng 5 năm 1994 ,sau khi nhận được giấy phép xây dựng liên bang phát hành trước được gia hạn thêm 18 tháng từ INE , Metalclad đã bắt đầu việc xây dựng landfill. Mexico phủ nhận việc đã từng giành được những thỏa thuận và hỗ trợ của SLP. - Metalclad còn xác nhận thêm rằng việc xây dựng đó đang tiếp tục công khai và không có sự gián đoạn xuyên suốt tháng 10 năm 1994.Cán bộ của liên bang và đại diện của tiểu bang đã xem xét kiểm tra kĩ lưỡng công trình xây dựng trong suốt thời kì này,và Metalclad đã cung cấp cho liên bang và các quan chức nhà nước 1 bản báo cáo tình trạng của quá trình tiến triển của nó. - Vào 26 tháng 10 năm 1994 , khi toà thị chính ra chỉ thị đình chỉ tất cả hoạt động xây dựng do thiếu giấy phép xây dựng của chính quyền , việc xây dựng đã đột ngột bị chấm dứt . - Metalclad khẳng định việc các quan chức liên bang lại 1 lần nữa nói rằng họ có tất cả các thẩm quyền cần thiết để xây dựng và vận hành landffill.Quan chức của liên bang cũng nói rằng Metalclad nên xin giấy phép xây dựng của thành phố nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một mối quan hệ thân mật với Thành phố tự trị, những viên chức liên bang cũng quả quyết rằng Thành phố tự trị sẽ cấp giấy phép như một vấn đề tất lẽ ,và chính thành phố tự trị đó đã thiếu những cơ sở cho việc từ chối cấp giấy phép xây dựng. Mexico phủ nhận rằng giấy phép thành phố mà bất kỳ quan chức liên bang nào tuyên bố đã không được yêu cầu , và các quốc gia tuyên bố 1 cách khẳng định rằng giấy phép đã được yêu cầu và METALCLAD đã biết hoặc không biết việc giấy phép đã được yêu cầu . - Vào 15 tháng 11 n ăm 1994, Metalclad lại tiếp tục việc xây dựng và đã đệ trình 1 đơn xin giấy phép xây dựng của chính quyền . - Metalclad khẳng định rằng SLP đã được mời tham gia quá trình đàm phán các convenio nhưng SLP đã từ chối, và chủ tịch SLP đã lên án Convenio này không lâu sau khi nó được công bố rộng rãi. - Metalclad đã chỉ ra rằng không có bằng chứng nào chứng tỏ Metalclad đã có nhưng hành động không thỏa đáng vi phạm những nghĩa vụ pháp lý, hoặc cũng không có bằng chứng nào chỉ ra rằng Metaclad đã vi phạm đến điều khoản của liên bang hay thuộc liên bang. Cũng không có bằng chứng nào nói rằng thành phố đã đưa ra những xem xét về bản báo cáo môi trường mới được hoàn tất chỉ ra rằng vùng đó thích hợp với chất thải độc hại landfill. Cũng không có chứng cớ nào rằng vùng đó khi xây dựng đã không đáp ứng được bất cứ yêu cầu xây dựng đặc biệt nào, và cũng không có chứng cớ nào rằng thành phố đã yêu cầu hoặc ban hành một giấy phép xây dựng thành phố cho bất cứ dự án xây dựng nào ở Guadalcazar, cũng không có chứng cớ nói rằng không có 1 quá trình hành chính nào được thiết lập đối với giấy phép xây dựng thành phố tại thành phố Guadalcazar. - Metalclad đã không được thông báo là hội đồng thành phố họp để thảo luận và bác bỏ đơn xin phép ở đâu mà cũng không cho Metalclad bất cứ cơ hội nào tham gia vào quá trình đó. Yêu cầu được xem xét lại lời từ chối giấy cho phép của Metaclad bị bác bỏ - Metalclad cũng viện dẫn trên cơ sở những báo cáo mà chủ tịch SLP đã phát biểu trên phương tiện truyền thông Mexico, rằng nghị định sinh thái ‘ chắc chắn hủy bỏ bất cứ khả năng tồn tại việc mở chất thải công nghiệp landfill ở La Pedrera’. - Metalclad nhận thấy rằng Mexico đã thông qua chính quyền các địa phương của SLP và Guadalcazar để gây trở ngại và ngăn chặn hoạt động của landfill. Metalclad viện dẫn rằng hành động cản trở này đã vi phạm Điều 1105 và 1110, chương 7 về các điều khoản đầu tư của NAFTA. - Metalclad yêu cầu COTERIN vì mục đích duy nhất là phát triển và vận hành khu chất thải nguy hiểm landfill tại thung lũng La Pedrera, ở Guadalcazar,SLP. - Metalclad được thuyết phục tin rằng, giấy phép của liên bang và bang đã cho phép xây dựng và hoạt động khu landfill. Metalclad tranh cãi rằng chính quyền thành phố không có thẩm quyền trong những vấn đề liên quan đến các chất thải nguy hiểm. Tuy nhiên, Mexico lại biện luận rằng, một cách cơ bản và hợp pháp, chính quyền thành phố có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng. - Ngoài ra, Metalclad quả quyết, các viên chức liên bang đã nói rằng nếu Metalclad xin được cấp giấy phép xây dựng của thành phố, thì chính quyền thành phố cũng không có một cơ sở pháp lý nào để từ chối, đó là một vấn đề dĩ nhiên. Việc thiếu một nguyên tắc rõ ràng trong việc xin giấp phép cũng như thiếu quy định, thủ tục xác định trong cách thức giải quyết yêu cầu xin giấy phép xây dựng của thành phố, cuối cùng đã dẫn đến sự thất bại từ phía Mexico trong việc đảm bảo yêu cầu về “tính minh bạch: của NAFTA. - Metalclad có quyền dựa vào sự đại diện của các viên chức liên bang và tin rằng có quyền tiếp tục xây dựng khu chôn rác thải. Nghe theo lời khuyên của các viên chức này và đệ trình đơn xin giấy phép của thành phố vào ngày 15 thánh 11 năm 1994, Metalclad đơn thuần đã hành động một cách thận trọng và hi vọng sẽ được cấp giấy phép. 2.Mexico: - Vào tháng 2 năm 1995 , UASLP đưa ra một bản nghiên cứu khẳng định những sự việc trước đó , mặc dù vùng đất landfill vẫn còn một vài vấn đề đáng quan tâm , nhưng với kỹ thuật chính xác về mặt địa lý thì cho thấy nó phù hơp với vùng đất chứa chất thải độc hại .Tháng 3 -1995 , PROFEPA , một cơ quan độc lập của SEMARNAP , đã chỉ đạo việc kiểm tra vùng này và cũng kết luận rằng với kỹ thuật và hành động chính xác , vùng landfill đã phù hơp về phương diện địa lí với landfill chất thải độc hại . - 5-12-1885, 13 tháng sau khi đơn xin giấy phép xây dựng thành phố được sắp xếp, thì đơn này đã bị từ chối. Khi từ chối như vậy thành phố đã dẫn lại quyết định của mình khi từ chối giấy phép xây dựng Coterin vào 10- 1991 và 1-1992 và nhấn mạnh đến sự không hợp pháp của việc Metaclad xây dựng Lanfill trước khi nhận được giấy phép xây dựng thành phố. - Thành phố không đưa ra một chỉ thị nào để xem xét việc xây dựng và mở Landfill trong 13 tháng khi đơn xin phép đang được xem xét. - Mexico khẳng định rằng Metaclad ý thức được rằng giấy phép thành phố là cần thiết dựa trên cơ sở vụ Coterin 1991,1992 và những tiền lệ của những dự án ở SLP. - Mexico cũng cho rằng việc xem xét nghị định sinh thái là nằm ngoài tầm tài phán của tòa vì nghị định này được thực hiện sau khi đưa ra thông báo về quyền của toà. Đặc biệt hơn, Mexico cũng lập luận rằng điều 1119 Nafta có nhan đề là “giấy báo trước về ý định đệ trình đơn khiếu nại” đã gạt bỏ những lời khiếu nại mà sự vi phạm thực ra chưa xảy ra. Luật đã nói: Nhà đầu tư đang tranh chấp sẽ đệ trình cho các bên tranh chấp văn bản nói lên ý định đệ trình lời khiếu nại với ban trọng tài, ít nhất 90 ngày trước khi đệ đơn khiếu nại mà giấy báo này sẽ nói rõ.. (b) Những khoản của NAFTA được nêu là đã bị vi phạm và bất cứ điều khoản nào có liên quan (c) Những vấn đề và cơ sở thực tế của sự khiếu nại, Mexico lại nêu điều 1120 NAFTA yêu cầu rằng phải có khoảng thời gian là 6 tháng giữa các sự kiện làm nảy sinh lời khiếu nại và sự đệ trình đơn khiếu nại đó. Trên cơ sở 2 điêu 1119 và 1120, Mexico lập luận rằng người khiếu nại phải đảm bảo đơn khiếu nại của mình là hợp lý vào thời điểm nó được đưa ra. Đồng thời Mexico cũng không gạt bỏ khả năng là có thể bổ sung thay đổi đơn khiếu nại này. Ban đầu Mexico khẳng định rằng để đảm bảo sự công bằng và minh bạch của sự sửa đổi trong đơn khiếu nại hay sự trình bày của đơn khiếu nại bổ sung trong điều 48 the Additional Facility Rules , điều này tùy thuộc vào đơn chính thức và sự sửa đổi bổ sung đươjc yêu cầu phải nêu lên một cách rõ ràng. Sau đó Mexico đã điều chỉnh quan điểm của mình trong cuộc họp ngắn sau khi nghe điều trần. Trong cuộc họp này, Mexico lập luận rằng phần B chương 11 không nói đến việc sửa đổi lời khiếu nại này được coi là đã hợp lý để bổ sung vào đó những sự kiện xảy ra sau khi đã đưa đơn khiếu nại. Mexico cũng tranh luận rằng phần B chương 11 có thay đổi những Additional Facility Rules về việc sửa đổi những lời khiếu nại và việc đưa các đơn khiếu nại bổ sung làm cho điều 48 Additional Facility Rules không thực hiện được. - Một vấn đề đáng băn khoăn là liệu Mexico có phải chịu trách nhiệm quốc tế về những hành động của SLP và Guadalcazar hay không. Mexico đã bác bỏ vấn đề này tại trang 233 của đơn đệ trình, “Mexico không biện hộ rằng mọi hành động của Municipality không thuộc sự điều chỉnh của NAFTA. Mexico đã, đang và sẽ tiếp tục giả định rằng, các quy tắc thông thường về trách nhiệm của quốc gia có hiệu lực; rằng phía bị đơn có thể chịu trách nhiệm quốc tế cho mọi hành động của các cơ quan nhà nước ở cả 3 cấp chính quyền”. Các bên thoả thuận phải “đảm bảo áp dụng mọi biện pháp cần thiết để các điều khoản của thoả thuận có hiệu lực, bao gồm sự tuân thủ, trừ các quy định khác tại thoả thuận này, bởi nhà nước và chính quyền cấp địa phương” (Đ105 – NAFTA). Nhắc tới một bang hoặc một tỉnh là bao gồm các chính quyền địa phương của bang hoặc tỉnh đó (Điều 201(2) – NAFTA). Việc miễn thực hiện các yêu cầu trong Đ1105 và 1110 nằm trong khoản 1 Đ.1108 không mở rộng tới các bang hoặc chính quyền địa phương. Cách tiếp cận này hoàn toàn thừa nhận vị trí xác định trong tập quán quốc tế. Điều này được khẳng định rõ trong Đ10 về các điều khoản dự thảo về trách nhiệm của nhà nước được UB pháp luật quốc tế của LHQ thông qua vào năm 1975, mặc dù hiện vẫn đang được cân nhắc, nhưng vẫn được coi là luật hiện hành: “Việc quản lý của một cơ quan của một quốc gia, của một thực thể chính phủ hoặc một thực thể được trao thẩm quyền chính phủ, các cơ quan hành động dưới tư cách đó sẽ được coi như là hành động của quốc gia dưới sự điều chỉnh của luật quốc tế ngay cả khi, trong những trường hợp đặc biệt, cơ quan vượt quá quyền hạn theo như luật quốc tế hoặc contravened instructions liên quan đến hoạt động đó”. - Luật sinh thái 1998 của Mexico (LGEEPA) hoàn toàn công nhận thẩm quyền của liên bang trong việc xây dựng và hoạt động các khu vực chôn rác thải nguy hiểm. Điều 5 của luật này quy định quyền hạn của Liên bang mở rộng tới: Điều chỉnh, điều khiển các hoạt động bị coi là đặc biệt nguy hiểm, quản lý và bỏ đi chất rác thải nguy hiểm cho môi trường sinh thái cũng như bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. - LGEEPA cũng giới hạn quyền hạn của chính quyền thành phố trong vấn đề môi trường về việc cấp phép liên quan đến các chất thải không nguy hiểm. Cụ thể, Điều 8 – LGEEPA giới hạn thẩm quyền của chính quyền thành phố theo quy định của luật và luật địa phương để áp dụng: Các quy định của pháp luật trong vấn đề ngăn ngừa và kiểm soát hiệu ứng của môi trường bởi “generation, transportation,storage” , xử lý và bỏ những chất thải công nghiệp mà không bị coi là nguy hiểm như trong quy định tại Đ.137 của LGEEPA. - Pháp luật tương tự cũng giới hạn thẩm quyền đối với những người không nằm trong chính phủ liên bang. - Ngay cả khi Mexico đính chính rằng cần có một giấy phép xây dựng, thì chứng cớ chỉ ra rằng, cơ quan chính quyền liên bang đang kiểm soát việc ước lượng và đánh giá chất thải nguy hiểm và thẩm quyền của chính quyền thành phố chỉ giới hạn tới những cân nhắc xây dựng thích hợp. Kết quả là, việc chính quyền thành phố từ chối cấp phép liên quan đến việc suy xét có tính ảnh hưởng về vấn đề môi trường trong trường hợp đây lại là khu xử lý rác thải nguy hiểm thực sự, với bất cứ lý do nào,là sai trừ khi những vấn đề này liên quan tới việc xây dựng cơ sở hoặc những thiếu sót trong khu vực xây dựng. V.Phán quyết của Toà: - Tòa đồng ý với luận điểm của Mexico rằng vụ này cỏ thể không được bắt đầu dựa trên cơ sở một vi phạm trước đó.Tuy nhiên, tòa không chấp nhận cách giải thích và cách áp dụng về hạn thời gian của Mexico đưa ra trong NAFTA. Metalclad đã đệ trình hợp lệ những đơn khiếu nại của mình theo luật Additional Facility Rules khi dẫn ra điều 1120 luật NAFTA. Theo điều 1120 khoản 2 thì việc đưa ra tuyên bố theo các quy tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ chi phối đến việc giải quyết tranh chấp trừ những điều khoản bổ sung trong phần B chương 11. Điều 48 khoản 1 , quy định rõ một bên có thể trình ra tuyên bố bổ sung mà đựơc quy định các tuyên bố phụ thuộc nằm trong phạm vi thoả thuận giải quyết tranh chấp của các bên. - Tòa không đồng ý với quan điểm sau khi nghe điều trần của Mexico rằng phần B chương 11 làm thay đổi điều 48 của luật. Tòa tin rằng đó không phải là ý định của người dự thảo luật NAFTA, điều 1119 và 1120 để giới hạn quyền của tòa theo chương 11. Dù sao tòa cũng ủng hộ Mexico hơn khi khẳng định trong bản tuyên bố chung rằng tòa hiểu chương 11 NAFTA phần B và điều 48 của luật khi cho phép sửa đổi bổ sung những bản yêu sách được đệ trình trước đây và xem xét thực tế sự kiện xảy ra sau đó để đệ trình bản khiếu nại bổ sung cái mà phát sinh ngoài bản khiếu nại gốc hoặc trực tiếp liên quan đến bản khiếu nại gốc. Nhưng ý kiến trái ngược yêu cầu nguyên đơn đưa ra những hành động phức tạp có liên quan xảy ra sau đó và sẽ dẫn đến thiếu công bằng và hiệu quả. - Tòa đồng ý với Mexico rằng quá trình sửa đổi và bổ sung 1 khiếu nại phải được đảm bảo diễn ra công bằng và minh bạch. Điều 48 khoản 2 của luật đảm bảo sự công bằng bằng cách yêu cầu bất cư 1 dơn khiếu nại phụ thuộc nào được đưa ra thì không được muộn hơn bản trả lời của nguyên đơn. Trong trường hợp này, Metalcald đưa ra thông tin liên quan đến nghị định sinh thái và mục đích của họ là dựa vào nghị định này cho đến khi đưa ra được Memorial. Sau đó Mexico đã đưa ra Counter-Memorial và tuyên bố. Nghị định sinh thái liên quan trực tiếp đến quyền sở hữu và luật đầu tư hiện hành, và Mexico đã có những lời báo trước và có cơ hội phát biểu ý kiến về những vấn đề có liên quan đến nghị định đó. - Tòa cuối cùng chỉ ra rằng mặc dù nghị định sinh thái đươc ban hành sau khi Metalclad đệ trình đơn khiếu nại, những vấn đề có liên quan đến đơn khiếu nại mà Metal đã đưa ra đúng lúc và phù hợp với nguyên tăc công bằng minh bạch. Mexico đã có nhiều cơ hội để phản ứng lại và không phải chịu bất cứ tổn thất nào. Do đó toà chỉ ra rằng việc xem xét nghị định sinh thái là thuộc thẩm quyền của tòa nhưng việc xem xét đó không có tầm điều chỉnh quan trọng. - Đ.1105, khoản 1 NAFTA quy định rằng: “ mỗi bên sẽ thống nhất việc đối xử với việc đầu tư của nhà đầu tư của bên kia theo luật quốc tế, bao gồm việc đối xử công bằng, vô tư, bảo vệ và an ninh đầy đủ”. Với những lý do dưới đây, Toà thấy rằng việc đầu tư của Metalclad đã không được đối xử công bằng theo luật quốc tế, Mexico đã vi phạm Đ.1105,khoản 1 NAFTA. - Điểm nổi bật nhất trong các quy tắc của hiệp định này là hướng tới “tính minh bạch” (đ.102, khoản 1). Toà cho rằng điều này hàm ý mọi yêu cầu pháp lý có liên quan về mục đích khởi xướng, hoàn chỉnh và thực hiện thành công các dự án đầu tư nên được tất cả các nhà đầu tư ở các nước khác biết đến. Không có sự nghi ngờ hoặc không chắc chắn nào trong các vấn đề đó. Ngay khi người có thẩm quyền của chính phủ trung ương của các nước (người mà có trách nhiệm quốc tế trong các vấn đề trên được xác định ở phần trước) nhận thấy bất cứ khả năng nào dẫn đến việc hiểu sai và nhầm lẫn, họ có trách nhiệm đảm bảo ngay lập tức xác định quan điểm và khẳng định rõ ràng để các nhà đầu tư có thể bắt đầu với những chi phí thích hợp với sự tin tưởng rằng họ đang hành động theo pháp luật có liên quan. - Do đó, toà nhận thấy rằng giấy phép xây dựng đã bị từ chối mà không có bất kỳ một sự cân nhắc hay xem xét cụ thể nào từ những khía cạnh xây dựng hay những thiếu sót của cơ sở vật chất. - Hơn nữa, toà cũng không thể không quan tâm đến thực tế ngay sau khi chính quyền thành phố từ chối cấp giấy phép, thành phố đã đệ trình một đơn kiện hành chính lên SEMARNAP phản đối Convenio. Toà đã từ đó suy ra rằng chính quyền thành phố đã thiếu sự tin tưởng vào thẩm quyền của nó nên đã từ chối cho phép sự hoạt động của Landfill chỉ dựa trên cơ sở của việc thiếu giấy phép xây dựng của chính quyền thành phố. - SEMARNAP đã bac bỏ sự phản đối thiếu lập trường mà chính quyền thành phố đã phản đối bằng việc đưa ra hành động “amparo”. Một lệnh đã được ban hành và khu Landfill đã bị cấm hoạt động cho tới năm 1999. - Năm 1997, SLP đã đưa ra xem xét lại tình hình và ban hành một nghị định sinh thái vào năm 1997 mà đã ngăn cản một cách hiệu quả và lâu dài quyền sử dụng đầu tư của Metalclad. - Những hành động của chính quyền thành phố kéo theo sự phủ nhận của nó đối với giấy phép xây dựng thành phố mà sự phủ nhận này gắn liền với những thiếu sót về thủ tục và quyền hạn, chứng minh cho các kết luận của toà án, với những lý do đã nói ở trên, rằng sự khẳng định của chính quyền thành phố và sự phủ nhận giấy phép xây dựng trong trường hợp này là không đúng. - Kết luận này không bị tác động bởi Điều 1114 NAFTA, cho phép một bên đảm bảo rằng hoạt động đầu tư được đảm nhận theo cách bị ảnh hưởng bởi các vấn đề liên quan tới môi trường. Kết luận của Convenio và việc ban hành giấy phép liên bang cho thấy rõ ràng rằng, Mexico đã thoả mãn với dự án phù hợp và dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường. - Mexico đã không thể đảm bảo một cơ cấu tổ chức rõ ràng và có tính dự báo cho kế hoạch thương mại và đầu tư của Metalclad. Tất cả những trường hợp đó đã chứng tỏ sự thiếu quy trình có trình tự và sự sắp xếp hợp thời liên quan đến hoạt động của nhà đầu tư của một bên trong sự hy vọng rằng, nó sẽ được đối xử công bằng, phù hợp với NAFTA. - Tuy nhiên những hành động của nhà nước và chính quyền, những hành động của Mexico đã không tuân theo hoặc tôn trọng thủ tục theo Điều 1105(1) NAFTA rằng mỗi bên chấp thuận sự đối xử đầu tư của nhà đầu tư phía bên kia phù hợp với luật quốc tế bao gồm sự đối xử công bằng, vô tư. Điều này đặc biệt làm sáng tỏ nguyên lý chủ đạo rằng, nội luật (như những yêu cầu giấy phép rõ ràng của chính quyền thành phố) không biện minh cho việc không thi hành một điều ước (Điều 26, 27 Công ước Viên về luật điều ước). - Do đó Tòa đã quyết định rằng Metalclad đã không được đối xử công bằng theo NAFTA - Điều 1110 NAFTA quy định “ không một bên nào được trực tiếp hoặc gián tiếp tước đoạt quyền đầu tư hoặc áp dụng biện pháp tương đương với sự tước đoạt, trừ : (a) vì mục đích công cộng, (b) trên cơ sở không phân biệt đối xử, (c) phù hợp với quy trình thích hợp của luật và điều 1105 khoản 1, (d) trên sự bồi thường”. “Một biện pháp” được quy định trong điều 201 khoản 1 bao gồm “ mọi điều luật,quy tắc , thủ tục hoặc thông lệ”. - Do đó, sự tước đoạt theo NAFTA bao gồm không chỉ có việc tước đoạt công khai, cố tình hoặc thừa nhận, như là sự chiếm đoạt toàn bộ hoặc chuyển nhượng một cách chính thức hay bắt buộc với tư cách ủng hộ nước tiếp nhận, mà còn bao gồm cả sự can thiệp ngầm,hoặc vô tình tước đoạt một phần hay toàn bộ quyền sở hữu của nhà đầu tư hoặc những tài sản có lợi ích kinh tế ngay cả khi lợi ích đó là không rõ ràng với nước nhận. - Bằng việc cho phép hoặc tiếp nhận sự quản lý của Guadalcazar liên quan đến Metalclad mà tòa vừa quyết định dẫn tới sự đối xử không công bằng, vi phạm điều 1105 và do đó đồng ý phủ nhận quyền hoạt động khu landfill của Metalclad.Tuy nhiên thực tế là dự án hoàn toàn được chính phủ liên bang chấp thuận và tán thành. Mexico cần phải bị áp dụng các biện pháp tương đương với sự tước đoạt do vi phạm điều 1110 khoản 1 NAFTA. - Tòa án quyết định rằng thẩm quyền duy nhất về việc cho phép khu chôn rác thải độc hại thuộc về chính phủ liên bang Mexico.Tuyên bố này phù hợp với lời khai của thư ký của SEMARNAP,và như đã nói ở trên, phù hợp với luật LGEEPA. - Như đã quyết định ở trên chính quyền thành phố đã từ chối 1 phần giấy phép xây dựng của địa phương do sự nhận thức của chính quyền thành phố về những ảnh hưởng có hại tới môi trường và vị trí địa lý không phù hợp với khu chôn rác thải.Do đó chinhs quyền thành phố đã hành động ngoài thẩm quyền của mình.Như đã nói ở trên,sự phủ nhận của chính quyền thành phố đối với giấy phép xây dựng không có bất cứ một cơ sở nào trong việc đề xuất xây dựng cơ sở vật chất hoặc bất cứ thiếu sót nào trong vị trí, và đã được mở rộng bởi hành động của tòa án liên quan đến Convenio, ngăn chặn một cách hiệu quả và bất hợp pháp sự hoạt động của khu chôn rác thải phía bên nguyên đơn. - Trường hợp này giống với một số khía cạnh cảu vụ việc Biloune(1993).Trong trường hợp đó, một nhà đầu tư tư nhân đã nâng cấp và mở rộng một khu nhà hàng tại Ghana.Cũng như Metalclad,chính nhà đầu tư này đã dựa vào sự đại diện cảu một tổ chức chính phủ, đã bắt đầu xây dựng trước khi xin giấy phép xây dựng.Cũng như Metalclad,một yêu cầu ngừng hoạt động đã được ban hành sau khi một số lượng công việc đáng kể đã được hoàn thành.Yêu cầu này dựa vào sự thiếu giấy phép xây dựng.Một đơn xin đã được gửi đi, mặc dù không bị từ chối một cách tuyệt đối nhưng giấy phép đó cũng không được ban hành.Tòa án đã nhận thấy rằng một sự tước đoạt gián tiếp đã được áp dụng.Bởi vì hầu hết các trường hợp đã có những tác động gây ra sự chấm dứt hoạt động của dự án.Tòa đặc biệt quan tâm đến sự tín nhiệm của nhà đầu tư đối với sự đại diện của chính phủ về việc cho phép.Thực tế thì những nhà chức trách của chính phủ đã biết về việc xây dựng trong vòng hơn 1 năm trước khi ban hành yêu cầu ngừng hoạt động.Thực tế là đã không có giấy phép cấp cho các dự án khác và không có quy trình nào được đặt ra liên quan đến đơn xin giấy phép xây dựng.MẶc dù quyết định trong Biloune không ràng buộc tòa án này nhưng nó là một căn cứ thuyết phục và tòa cũng đồng ý với những phân tích và kết luận của nó. - Mặc dù không hoàn toàn cần thiết cho kết luận của toà, nhưng Toà cũng đã xác định như một nền tảng cơ sở rộng hơn cho sự quyết định về việc tước đoạt tài sản được quy định trong nghị định sinh thái được ban hành bởi chính phủ của SLP vào ngày 20-9-1997.Nghị định này bao gồm một diện tích 188,758 ha trong : “ Real de Guadalcazar” mà cũng bao gồm cả vị trí của khu chôn rác thải ,và tạo ra trong đó một khu bảo tồn sinh thái.Nghị định này có hiệu quả trong việc ngăn cản vĩnh viễn hoạtd động của khu chôn rác thải. - Toà đã không bị thuyết phục bởi phía đại diện của Mexico. Ví dụ ở điều 9 cấm bất kỳ một công việc nào cản trở chương trình quản lý của Nghị định sinh thái.Chương trình quản lý được định nghĩa tại điều 5 như là một trong những sự xác định các vấn đề sinh thái về việc bảo tồn xương rồng, và việc bảo đảm bảo tồn sinh thái.Ngoài ra, điều 14 của Nghị định cũng cấm bất kỳ một sự quản lý nào đến việc thải các tác nhân gây ô nhiễm đất, đất ngầm, nước hay nước ngầm và ngăn cấm việc thực hiện bất kỳ hoạt động nào có thể gây ô nhiễm.Điều 15 của Nghị định sinh thái cũng cấm các hoạt động đòi hỏi phải có giấy phép hoặc cấp phép, trừ khi các hoạt động đó liên quan tới việc thăm dò, khai thác hoặc tận dụng tài nguyên thiên nhiê. - Toà không cần phải quyết định hoặc xem xét động lực, mục đích của việc chấp thuận nghị định sinh thái. Do đó, một kết luận về việc tước đoạt dựa trên cơ sở của nghị định sinh thái là không cần thiết cho kết luận của toà về việc vi phạm điều 1110 NAFTA. Tuy nhiên, Toà xem xét rằng việc thực hiện Nghị định sinh thái sẽ tạo thành một hành động tương đương với sự tước đoạt. - Cuối cùng Toà kết luận rằng, Mexico đã gián tiếp tước đoạt sự đầu tư của Metalclad mà không có sự bồi thường nào.Vì vậy, Mexico đã vi phạm vào điều 1110 NAFTA.
File đính kèm:
- tieu_luan_vu_viec_tuoc_doat_tai_san_giua_metalclad_corporati.pdf