Tiểu luận Vụ việc tước đoạt tài sản giữa Metalclad Corporation và Mexico

pdf 24 trang yenvu 02/11/2024 100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Vụ việc tước đoạt tài sản giữa Metalclad Corporation và Mexico", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Vụ việc tước đoạt tài sản giữa Metalclad Corporation và Mexico

Tiểu luận Vụ việc tước đoạt tài sản giữa Metalclad Corporation và Mexico
Tiểu luận 
VỤ VIỆC TƯỚC ĐOẠT TÀI SẢN GIỮA METALCLAD 
CORPORATION VÀ MEXICO 
 I.Giới thiệu vụ việc 
1. Tranh chấp này xảy ra ngoài phạm vi hoạt động của nguyên đơn, Công ty 
Metalclad, Metalclad ở Guadalcazar trong thành phố tự trị của Mehico, nằm ở San 
Lui Potosi của quốc gia Mehico( dưới đây là “ SLP” ). Metalclad cho rằng 
Mehico( dưới đây là “ Mexico”), Thông qua chính quyền địa phương của SLP và 
Guadalcazar, can thiệp sự phát triển của Metalclad và hoạt động của landfill . 
Metalclad khiếu nại về việc can thiệp này là vi phạm chương 11 các điều khoản 
về đầu tư của hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ( dưới đây là NAFTA). Cụ thể: 
Metalclad đã chỉ ra sự vi phạm 
i. điều 1105, NAFTA “ thoả thuận đầu tư và các hành động khác của các 
nhà đầu tư phù hợp với luật quốc tế, bao gồm đối xử công bằng, hợp lý và 
an ninh, bảo vệ tuyệt đối và 
ii. điều 1110, NAFTA chỉ ra rằng: “ Không bên nào gia nhập NAFTA có 
thể trực tiếp hoặc gián tiếp quốc hữu hoá hoặc chiếm đoạt trong đầu tư 
của nhà đầu tư bên kia về lãnh thổ hoặc đo đạc tương đương như quốc 
hữu hoá hay đo đạc trong đầu tư( chiếm đoạt) , 
 ngoại trừ: (a) cho mục đích công cộng; 
(b) Trên cơ sở không phân biệt 
(c) phù hợp với tiến trình của luật và Điều 1105(1) 
(d) Thanh toán bồi thường phù hợp với khoản 2 tới khoản 6. Mexico 
từ chối những lời cáo buộc này 
 2. Các bên 
 a.Nguyên đơn 
Metalclad là một doanh nghiệp của Mỹ, kết hợp theo luật của Delaware. Công ty 
cổ phần sinh thái Metalclad( dưới đây là Eco) là một doanh nghiệp của Mỹ, kết 
hợp theo luật của Utah. Eco hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Metalclad, và sở 
hữu 100% số cổ phần trong Ecosistemas Nacionales, SA de CV ( dưới đây là 
ECONSA), một tập đoàn Mexico. Trong năm 1993, ECONSA mua các công ty 
Mexico Confinamiento Tecnico của Residuos Industriales, S.A của C.V( dưới đây 
là CONTERIN) với mục đích cho mua, phát triển và hoạt động sau chuyển 
nhượng nhà ga và landfill trong thung lũng LaPedrera, nằm trong 
Guadalcazar.CONTERIN là chủ sở hữu của landfill, hồ sơ về tài sản cũng như 
giấy phép và giấy chứng nhận đó là cơ sở cho tranh chấp này 
.CONTERIN là doanh nghiệp thay mặt trong đó có Metalclad, như là “ Nhà đầu 
tư của một bên”, đã gửi đơn khiếu nại đến trọng tài theo điều 1117, NAFTA 
Trong các thủ tục tố tụng, Metalclad đã được đại diện bởi: 
Clyde C.Pearce, Esq 
Văn phòng luật ClydeC.Pearce 
1418 North Main Street 
Suite 201 
Salinas, California 93908 
Hoa Kỳ 
 b.Bị đơn 
Các bị đơn là chính phủ liên hiệp tiểu bang Mexico. Và được đại diện bởi: 
Lic. Hugo Perezcano Diaz 
Consultor Juridico 
Subsecretaria de Negociaciones Comerciales 
Internacionales 
Direccion General de Consultoria Juridica de 
Negociaciones 
Secretaria de Comercio y Fomento Industrial 
Alfonso Reyes No.30, Piso 17 
Colonia Condesa 
Mehico, Distrito Federal, C.P. 06149 
Mehico. 
c.Thực thể khác: 
Hội đồng thị trấn của thành phố Guadalcazar, SLP, là chính quyền thành phố của 
Guadalcazar, là một phía của dự án landfill. Trong khi không phải Guadalcazar 
cũng không phải SLP được cho là bị đơn, Metalclad cho rằng Guadalcazar và SLP 
đã có những hành động đối xử không công bằng và vi phạm NAFTA 
II.Diễn biến 
- Năm 1990 , chính phủ Liên bang Mexico đã uỷ quyền cho COTERIN xây dựng 
và vận hành một trạm chuyển giao cho các chất thải độc hại tại La Pedrera, nằm 
trong một thung lũng Guadalcazar trong SLP..Khu vực này có diện tích khoảng 814 
hecta và nằm cách thủ đô của SLP khoảng 100km về phía Đông Bắc , nằm cách 
biệt bởi daỹ núi Sierra Guadalzar ,cách 70km từ phía thành phố 
Guadalcazar.Khoảng chừng 800 người sinh sống trong vòng 10km của vùng này . 
- Ngày 23-1-1993 , Viện sinh thái học Quốc Gia (INE) , cơ quan thay thế độc lập 
của Nghề cá,tài nguyên quốc gia và môi trường Mexico ( SEMARNAP), cấp cho 
COTERIN một giấy phép liên bang để xây dựng vùng đất chứa chất thải độc hại ở 
La Pedrera. 
- Ba tháng sau khi liên bang cấp giấy phép xây dựng, ngày 23 tháng 4 năm 1993, 
Metalclad kí kết vào 1 thỏa thuận lựa chọn 6 tháng nhằm mua COTERIN cùng với 
các giấy phép, để xây dựng các landfill. 
- Một thời gian ngắn sau đó,vào tháng 5 năm 1993,chính phủ của SLP đã cấp cho 
COTERIN 1 giấy phép sử dụng đất của nhà nước nhằm xây dựng các landfill .Các 
giấy phép được cấp tùy thuộc vào các điều kiện mà dự án điều chỉnh,để các chi tiết 
và yêu cầu kỹ thuật tương ứng phù hợp với các chỉ định của chính quyềnvà kèm 
theo tuyên bố chung rằng các giấy phép đã khôngthẩm tra kĩ lưỡng quyền lợi hoặc 
quyền sở hữu của nguyên cáo vì vậy không cho phép xây dựng,hay các hoạt động 
kinh doanh khác. 
- Vào 31 tháng 1 năm 1995 , INE đã nhượng lại cho Metalclad 1 giấy phép xây 
dựng liên bang bổ sung để xây dựng nơi chứa chất thải độc hại cuối cùng và những 
công trình xây dựng bổ sung khác nh ư công trình quản lý Landfill và phòng thí 
nghiệm . 
- Metalclad hoàn thành việc xây dựng Landfill vào tháng 3-1995. Vào 10-3-1995 
Metacld tuyên bố mở cửa Landfill và có rất nhiều quan chức từ Mỹ, Mexico, chính 
quyền trung ương và địa phương đến dự 
- Những người biểu tình đã ngăn cản lễ khánh thành, khóa lối đi vào và ra của xe 
buýt chở khách và công nhân. Metalclad khẳng định rằng những người biểu tình 
này một phần là do chính quyền địa phương và bang Mexico tổ chức. Từ đó ảnh 
hưởng đến việc Metalclad mở Landfill 
- Sau nhiều tháng thương lượng, 25-11-1995, Metalclad và Mexico, thông qua 2 cơ 
quan độc lập dưới quyền SEMARNAP đã kí vào bản đồng ý cung cấp và cho phép 
mở Landfill (Convenio). 
- Convenio khẳng định rằng việc kiểm tra môi trường của vùng này được tiến hành 
từ 12/94 đến tháng 3/95 và cũng nói rằng mục đích của việc kiểm tra này là xem có 
đúng theo luật không, nghiên cứu những điều kiện hiện có của dự án ,kiểm soát 
việc duy trì thực hiện, đào tạo nhân viên và những cơ chế để có thế đáp ứng những 
vấn đề khẩn cấp của môi trường. Convenio cũng tuyên bố rằng vì sự kiểm tra này 
đã phát hiện ra 1 vài thiếu sót nên yêu cầu metalclad phải đệ trình một kế hoạch 
hành động để sửa sai những khiếm khuyết đó. Và Metalclad thực tế đã đệ trình 
chương trình hành động gồm: 1 kế hoạch sửa đổi phù hợp, Metal đồng ý thực hiện 
các hoạt động đề ra trong kế hoạch, những hoạt động này yêu cầu việc sửa đổi và 
các hoạt động thương mại phải được tiến hành song song trong 3 năm đầu của 
landfill. Convenio cũng đưa ra 1 thời hạn hoạt động 5 năm cho landfill được INE 
và PROFEPA kéo dài thời hạn. Ngoài việc yêu cầu sửa đổi, Convenio cũng nêu lên 
rằng Metal sẽ quy định 34 hecta đất như là vùng đệm cho việc bảo tồn những loài 
động vật bản xứ. Convenio cũng yêu cầu PROFEPA xây dựng 1 ủy ban khoa học 
kĩ thuật để theo dõi việc sửa đổi và yêu cầu những đại diên của của INE, của 
National Autonomous University of Mexico, của UASLP phải được mời tham gia 
vào ủy ban, đồng thời 1 ủy ban kiểm tra giám sát của người dân cũng phải được 
thành lập. Metal phải đóng góp 2 đồng pesos cho mỗi tấn thải cho nhũng công tác 
xã hội ở Guadalcazar, và phải triết khấu 10% đối với việc xử lý vứt bỏ các chất độc 
hại được tạo ra ở SLP. Metal cũng phải bỏ ra mỗi tuần 1 ngày cho dịch vụ miễn phí 
cho người dân ở vùng này với những nhân viên y tế có trình độ tốt, tuyển những 
lao động phổ thông trong vùng và ưu tiên đào tạo kĩ thuật cho người dân 
Guadalcazar. Metal cũng sẽ hỏi ý kiến nhân viên chính phủ về vấn đề sửa đổi và 
vấn đề phế thải độc hại, và mở 2 khóa học 1 năm về vấn đề quản lý các chất thải 
độc hại cho nhân viên các ngành công cộng, liên bang, bang ,thành phố cũng như 
các khu vực xã hội và tư nhân. 
- Vào 8-2-1996 INE cấp thêm cho Metalclad giấy phép cho phép mở rộng công 
suất các landfill từ 36000 tấn / năm lên 360000 tấn/ năm. 
- 23-9-1997 , 3 ngày trước khi hết nhiệm kỳ, chủ tịch đã ban hành 1 nghị định sinh 
thái tuyên bố 1 vùng sinh thái tự nhiên để bảo vệ cây xương rồng quý hiếm. Vùng 
tự nhiên này vây quanh vùng landfill. Metaclad đã dựa vào vào 1 phần của nghị 
định sinh thái này để bổ sung vào đơn khiếu nại về tước đoạt tài sản của mình, đảm 
bảo rằng các nghị định đó có hiệu quả và vĩnh viễn ngăn ngừa hoạt động của các 
landfill. 
- Landfill hiện nay vẫn im ắng ko hoạt động , Metaclad không bán hay chuyển bất 
kì phần nào của nó. Mexico từ chối bất cứ hãng truyền thông nào khi họ đề cập đến 
nghị định sinh thái. 
- Chính phủ Mexico đã cấp giấy phép xây dựng và hoạt động đối với khu landfill 
trước khi Metalclad mua lại COTERIN, và chính phủ của SLP cũng cấp một giấy 
phép hoạt động gợi ý việc hỗ trợ chính trị cho dự án landfill. 
- Vấn đề trọng tâm trong trường hợp này là, ngoài các giấy phép đã đề cập ở trên, 
một giấy phép của thành phố cho việc xây dựng một khu rác thải nguy hiểm 
landfill đã được yêu cầu. 
- Khi Metalclad yêu cầu, cần có những giấy phép của thành phố, trước khi mua 
COTERIN, các quan chức liên bang đã quả quyết rằng điều đó là cần thiết để thực 
hiện dự án landfill. Thực tế, theo yêu cầu mua CONTERIN của Metalclad, chính 
phủ liên bang đã kéo dài thời hạn giấy phép xây dựng thêm 18 tháng. 
- Dựa vào sự đại diện của chính phủ liên bang, Metalclad khởi công xây dựng khu 
chôn rác thải một cách công khai và liên tục với những hiểu biết đầy đủ về chính 
quyền thành phố, bang và liên bang cho tới khi thành phố yêu cầu ngừng hoạt động 
vào ngày 26 tháng 10 năm 1994. Metalclad đã không có được giấy phép xây dựng 
của thành phố. 
- 13 tháng sau kể từ khi Metalclad trình đơn, trong 13 tháng đó Metalclad đã tiếp 
tục hoạt động đầu tư công khai, rõ ràng, vào ngày 5 tháng 12 năm 1995, chính 
quyền thành phố đã từ chối đơn xin cấp giấy phép xây dựng của Metalclad. Quyết 
định này được tuyên bố ngay sau khi việc xây dựng gần như đã hoàn thành và ngay 
sau đó là thông báo “Convenio” quy định hoạt động của khu chôn rác thải. 
- Hội đồng thành phố bác bỏ đề nghị cấp phép với nhiều lý do liên quan đến sự 
chống đối của dân địa phương, hay việc khởi công xây dựng trước khi xin giấp 
phép, việc từ chối “the permit to COTERIN “ vào tháng 12 năm 1991 và tháng 1 
năm 1992, và những ảnh hưởng, tác động sinh thái trên khu vực xây dựng và xung 
quanh các khu dân cư. 
- Từ 5-1996 đến tháng 12-1996 Metalclad và SLP đã cố gắng giải quyết các vấn đề 
liên quan đến quá trình hoạt động của landfill. Những nỗ lực này không thành 
công, và 2-1-1997 Metalclad bắt đầu quá trình kiện chính phủ Mexico theo chương 
11 của NAFTA. 
III.Trình tự vụ việc 
 - Ngày 2 tháng 10, năm 1996 Metalclad đã gửi một thông báo cho Mehico với nội 
dung về việc yêu cầu trọng tài phù hợp với điều 1119, NAFTA, Do đó thủ tục tố 
tụng instituting thay mặt cho các chủ sở hữu toàn bộ doanh nghiệp,COTERIN, với 
những mục đích theo điều 1117,NAFTA 
 - Vào ngày 30/12/1996, Mehico đã gửi tới Metalclad một văn bản từ chối tuân theo 
đi ều 1121 khoản 2 (a) (b) NAFTA. 
 - Ngày 14-10-1997, Metaclad đưa ra memorial của mình .Vào 17-12-1997, Mexico 
gửi yêu cầu xin gia hạn cho việc đưa ra Counter memorial .Metaclad ra lời phản đối 
lại yêu cầu gia hạn , Mexico đưa ra phản hồi và Metaclad đưa ra lời đáp lại .Ngày 
7-1-1998, Toà án chấp nhận yêu cầu của Mexico cho việc gia hạn và yêu cầu bản 
Counter memorial đựơc đưa ra vào ngày 17-2-1998 . 
- Ngày 17-2-1998 ,Mexico gửi Counter memorial mà không có phản đối ,Bản 
Counter Memorial trình bày cụ thể được đưa vào ngày 22-5-1998, và bản giải thích 
cụ thể của Mexico được đưa ra cho nguyên đơn vào ngày 17-7-1998 và gửi tới ban 
thư ký vào ngày 20-7-1998. 
- Vào ngày 20-2-1998, Metaclad đã đưa ra bản kiến nghị thừa nhận sự phản đối 
việc đưa ra bản Counter Memorial không đúng lúc.Metalclad đã phản đối việc 
Mexico không đưa ra văn kiện giải thích thích hợp đi kèm với Counter memorial 
đúng thời hạn .Theo như yêu cầu cùa Toà đặt ra trước đó, Mexico đã đưa ra phản 
đối bản kiến nghi về việc phê chuẩn, sau đó metalclad đã đưa ra phản hồi và bản 
tuyên bố và Mexico lại tiếp tục đưa ra một phản đối bổ sung. Ngày 31-3-1998, Toà 
án bác bỏ bản kiến nghị phê chuẩn và tuyên bố không chấp nhận Counter memorial 
và vịêc xem xét loại bỏ các văn kiện cụ thể không cần thiết trong trường hợp 
này.Toà án tuyên bố thêm rằng điều đó có nghĩa rằng không thể xác định là quan 
trọng nếu sự thiệt hại của nguyên đơn là do sự trì hoãn đưa ra lời giải thích của bị 
đơn. 
- Ngày 6-4-1998, Metalclad đưa ra yêu cầu phản hồi lại Counter memorial mà 
Mexico đã đưa ra bản phản đối.Ngày 20-4-1998, Toà án công nhận yêu cầu phản 
hồi của Metalclad và yêu cầu Metalclad đưa ra một bản tương tự.Theo yêu cầu này 
, Toà án thông báo ngày đưa ra bản tuyên bố của Mexico được ấn định là sau khi 
toà xem xét biên bản phản hồi. 
- Ngày 22-6-1998, Metalclad đưa ra bản kiến nghị bổ sung thời gian cho việc đưa 
ra phản hồi mà Mexico đưa ra phản ứng.Ngày 29-6-1998, Toà án công nhận bản 
kiến nghị bổ sung thời gian của Metalclad và yêu cầu bản phản hồi được đưa ra vào 
ngày 6-8-1998.Ngày 28-7-1998, Toà án công nhận yêu cầu của Nguyên đơn gia 
hạn thêm thời gian đưa ra phản hồi đến ngày 21-8-1998. 
- Ngày 21-8-1998, Metalclad đưa ra phản hồì mà không phản đối. Các bản ghi về 
báo cáo chuyên môn của hiệp hôi thẩm tra Hoa Kỳ (AAA) đã được đưa ra vào ngày 
3-9-1998.Bản giải trình phản hồi được đưa ra vào ngày 22-9-1998 và bản giải trinh 
báo cáo chuyên môn của AAA được đưa ra vào ngày 28-9-1998 . 
- Ngày 5 -10-1998 , Mexico đã đưa ra những nhận định liên quan đến phản hồi của 
Metaclad .Metaclad đã đưa ra câu trả lời cho những nhận định mà Mexico đã đưa 
ra cho bản phản hồi trước đó của Metalclad.Vào 13-11-1998 , Toà đã từ chối yêu 
cầu cuả Mexico cho việc loại trừ những thông tin cụ thể đã được đệ trình theo bản 
phản hồi và cho việc quyết định nộp án phí cho những thông tin đó đúng hạn .Toà 
yêu cầu Mexico đưa ra bản tuyên bố vào ngày 19-3-1999. 
- Vào 22-2-1999, Mexico đưa ra yêu cầu được gia hạn về việc trình bản tuyên bố 
đó ,vào 4-3-1999 , Toà chấp nhận yêu cầu của Mexico về việc gia hạn và yêu cầu 
Mexico phải đưa ra tuyên bố trước ngày 19-4-1999.Tương tự , Toà đã lập một cuộc 
thảo luân trước phiên điều trần về việc đưa ra các chứng cứ vào 6-7-1999 tại 
Washington DC.Toà cũng yêu cầu đưa ra danh sách nhân chứng các bên trước 
ngày 11-6-1999 cùng với bản thảo lời khai của nhân chứng các bên và quy định 
thời gian cho các bên trình bày về vụ việc và thẩm tra nhân chứng .Toà lập thêm 
phiên điều trần liên quan đến các sự việc vào 30-8-1999. 
- Vào 11-3-1999 , Mexico đưa ra yêu cầu for Production of documents .Metalclad 
đã đáp lại yêu cầu của mexico cho phản hồi cuả mexico trước đó Sau đó ,Vào 14-4 
-1999 ,Mexico đã đưa ra đề nghị gia hạn thêm 1 tháng cho việc đưa ra tuyên 
bố.Vào 16-4-1999 , Toà chấp nhận 1 phần yêu cầu của mexico về việc gia hạn đến 
trước ngày 3-5-1999 phải đưa ra tuyên bố.Toà gia hạn thêm thời gian cho các bên 
đệ trình các chứng cứ đến ngày 18-6-1999.Vào 3-5-1999 , Mexico đã đưa ra bản 
tuyên bố. 
- Theo điều 1128 NAFTA, Canada đã gửi 1 bản đệ trình lên toà vào ngày 28-7-
1999 .Mặc dù Canada không có bất cứ lợi ích thương mại nào trong vụ tranh chấp 
này nhưng theo giải thích của NAFTA điều khoản 1110 liên quan đến tước đoạt và 
đền bù .Đặc biệt , Canada đã từ chối gợi ý của Metalclad , điều 1110 NAFTA tạo 
thành luật lệ từ những luận điểm của liên bang dựa trên những nguyên tắc của luật 
quốc tế về tước đoạt tài sản và đền bù . 
- Theo như các bên đã thoả thuận , phiên điều trần sẽ diễn ra tại Washington D.C từ 
30-8-1999 đến 9-9-1999 , các bên và nhân chứng đều có mặt .Toà đã đưa ra chỉ thị 
yêu cầu chỉ các phần của bản đệ trình mới đựơc nêu ra tại phiên điều trần . 
- Toà đã đưa ra câu hỏi cho các bên , mà sẽ bổ sung vào bản tóm tắt sau phiên điều 
trần được các bên đưa ra vào ngày 9-11-1999 Toà sẽ lập một biên bản chính xác và 
đầy đủ của phiên điều trần và sắp xếp lại gửi cho các bên. 
- Theo điều 1128 NAFTA , liên bang đã đệ trình bằng văn bản lên toà ngày 9-11-
1999 .Mặc dù liên bang không có bất cứ lợi ích thương mại nào trong vụ tranh chấp 
này nhưng bản đệ trình thể hiện lập trường của liên bang , mọi hành 
động của chính quyền địa phương bao gồm chính quyền thành phố tuỳ theo quy 
định của NAFTA .Liên bang cũng cho rằng , điều 1110 NAFTA, thuật ngữ : “ 
tantamount to expropriation” bao gồm cả tước đoạt đầu tư trực tiếp và gián 
tiếp.Liên bang cũng bác bỏ gợi ý cho rằng thuật ngữ trên là tạo ra một dạng tước 
đoạt mới mà trước đây chưa từng được công nhận trong tập quán quốc tế . 
IV.Lập luận của các bên 
1.Metalclad: 
- Vào 11 /6 /1993 ,Metalclad đã gặp thống đốc của SLP đ ể thảo lu ận d ự 
án..Metalclad xác nhận rằng tại buổi họp này , họ đã đạt được sự ủng hộ của thống 
đốc SLP cho dự án .Trên thực tế , sự công nhận của thống đốc tại phiên điều 
trần , rằng một người có thể hy vọng thống đốc hỗ trợ các dự án nghiên cứu nếu sự 
nghiên cứu có thể chắc chắn rằng chỗ đất xây dựng được chứng thực là thích hợp 
hoặc khả thi và tác động của nó với môi trường là phù hợp với tiêu chuẩn của 
ngừơi Mexico . 
- Metalclad xác nhận thêm rằng Chủ tịch của INE và SEDUE cho rằng những giâý 
phép cần thiết cho landfill được đưa ra trừ giấy phép liên bang cho landfill hoạt 
động . 
- Metalclad cũng quả quyết việc các tổng giám đốc của SEDUE đã tiết lộ với 
Metalclad rằng trách nhiệm của việc thu thập các dự án hỗ trợ của nhà nước và 
cộng đồng địa phương được sắp đặt với chính phủ liên bang. Ngày 10 tháng 8, năm 
1993.INE đã cấp cho Coterin 1 giấy phép của liên bang cho phép hoạt động của các 
landfill .tháng 10 năm 1993,Metalclad đã sử dụng quyền lựa chọn của chính mình 
và mua Coterin,vị trí landfill và các liên kết cho phép khác. 
- Metalclad quả quyết rằng nó không phải thực thi quyền lưa chọn mua 
COTERIN mà phải được liên bang và quốc gia đồng ý rõ ràng và ủng hộ đề án này. 
- Metalclad khẳng định rằng không lâu nữa sau sự mua lại Coterin,thống đốc của 
SLP đã bắt tay vào 1 chiến dịch quần chúng nhằm tố cáo và ngăn chặn quá trình 
hoạt động của các landfill . 
- Metalclad quả quyết thêm . Tuy thế , vào tháng 4 năm 1994 , sau 1 tháng đàm 
phán , Metalclad tin rằng agreement của SLP ủng hộ dự án là được đảm bảo .Bởi 
vây ,vào tháng 5 năm 1994 ,sau khi nhận được giấy phép xây dựng liên bang phát 
hành trước được gia hạn thêm 18 tháng từ INE , Metalclad đã bắt đầu việc xây 
dựng landfill. Mexico phủ nhận việc đã từng giành được những thỏa thuận và hỗ 
trợ của SLP. 
- Metalclad còn xác nhận thêm rằng việc xây dựng đó đang tiếp tục công khai và 
không có sự gián đoạn xuyên suốt tháng 10 năm 1994.Cán bộ của liên bang và đại 
diện của tiểu bang đã xem xét kiểm tra kĩ lưỡng công trình xây dựng trong suốt thời 
kì này,và Metalclad đã cung cấp cho liên bang và các quan chức nhà nước 1 bản 
báo cáo tình trạng của quá trình tiến triển của nó. 
- Vào 26 tháng 10 năm 1994 , khi toà thị chính ra chỉ thị đình chỉ tất cả hoạt động 
xây dựng do thiếu giấy phép xây dựng của chính quyền , việc xây dựng đã đột ngột 
bị chấm dứt . 
- Metalclad khẳng định việc các quan chức liên bang lại 1 lần nữa nói rằng họ có tất 
cả các thẩm quyền cần thiết để xây dựng và vận hành landffill.Quan chức của liên 
bang cũng nói rằng Metalclad nên xin giấy phép xây dựng của thành phố nhằm tạo 
điều kiện thuận lợi cho một mối quan hệ thân mật với Thành phố tự trị, những viên 
chức liên bang cũng quả quyết rằng Thành phố tự trị sẽ cấp giấy phép như một vấn 
đề tất lẽ ,và chính thành phố tự trị đó đã thiếu những cơ sở cho việc từ chối cấp 
giấy phép xây dựng. Mexico phủ nhận rằng giấy phép thành phố mà bất kỳ quan 
chức liên bang nào tuyên bố đã không được yêu cầu , và các quốc gia tuyên bố 1 
cách khẳng định rằng giấy phép đã được yêu cầu và METALCLAD đã biết hoặc 
không biết việc giấy phép đã được yêu cầu . 
- Vào 15 tháng 11 n ăm 1994, Metalclad lại tiếp tục việc xây dựng và đã đệ trình 1 
đơn xin giấy phép xây dựng của chính quyền . 
- Metalclad khẳng định rằng SLP đã được mời tham gia quá trình đàm phán các 
convenio nhưng SLP đã từ chối, và chủ tịch SLP đã lên án Convenio này không lâu 
sau khi nó được công bố rộng rãi. 
- Metalclad đã chỉ ra rằng không có bằng chứng nào chứng tỏ Metalclad đã có 
nhưng hành động không thỏa đáng vi phạm những nghĩa vụ pháp lý, hoặc cũng 
không có bằng chứng nào chỉ ra rằng Metaclad đã vi phạm đến điều khoản của liên 
bang hay thuộc liên bang. Cũng không có bằng chứng nào nói rằng thành phố đã 
đưa ra những xem xét về bản báo cáo môi trường mới được hoàn tất chỉ ra rằng 
vùng đó thích hợp với chất thải độc hại landfill. Cũng không có chứng cớ nào rằng 
vùng đó khi xây dựng đã không đáp ứng được bất cứ yêu cầu xây dựng đặc biệt 
nào, và cũng không có chứng cớ nào rằng thành phố đã yêu cầu hoặc ban hành một 
giấy phép xây dựng thành phố cho bất cứ dự án xây dựng nào ở Guadalcazar, cũng 
không có chứng cớ nói rằng không có 1 quá trình hành chính nào được thiết lập đối 
với giấy phép xây dựng thành phố tại thành phố Guadalcazar. 
- Metalclad đã không được thông báo là hội đồng thành phố họp để thảo luận và 
bác bỏ đơn xin phép ở đâu mà cũng không cho Metalclad bất cứ cơ hội nào tham 
gia vào quá trình đó. Yêu cầu được xem xét lại lời từ chối giấy cho phép của 
Metaclad bị bác bỏ 
- Metalclad cũng viện dẫn trên cơ sở những báo cáo mà chủ tịch SLP đã phát biểu 
trên phương tiện truyền thông Mexico, rằng nghị định sinh thái ‘ chắc chắn hủy bỏ 
bất cứ khả năng tồn tại việc mở chất thải công nghiệp landfill ở La Pedrera’. 
- Metalclad nhận thấy rằng Mexico đã thông qua chính quyền các địa phương của 
SLP và Guadalcazar để gây trở ngại và ngăn chặn hoạt động của landfill. Metalclad 
viện dẫn rằng hành động cản trở này đã vi phạm Điều 1105 và 1110, chương 7 về 
các điều khoản đầu tư của NAFTA. 
- Metalclad yêu cầu COTERIN vì mục đích duy nhất là phát triển và vận hành khu 
chất thải nguy hiểm landfill tại thung lũng La Pedrera, ở Guadalcazar,SLP. 
- Metalclad được thuyết phục tin rằng, giấy phép của liên bang và bang đã cho phép 
xây dựng và hoạt động khu landfill. Metalclad tranh cãi rằng chính quyền thành 
phố không có thẩm quyền trong những vấn đề liên quan đến các chất thải nguy 
hiểm. Tuy nhiên, Mexico lại biện luận rằng, một cách cơ bản và hợp pháp, chính 
quyền thành phố có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng. 
- Ngoài ra, Metalclad quả quyết, các viên chức liên bang đã nói rằng nếu Metalclad 
xin được cấp giấy phép xây dựng của thành phố, thì chính quyền thành phố cũng 
không có một cơ sở pháp lý nào để từ chối, đó là một vấn đề dĩ nhiên. Việc thiếu 
một nguyên tắc rõ ràng trong việc xin giấp phép cũng như thiếu quy định, thủ tục 
xác định trong cách thức giải quyết yêu cầu xin giấy phép xây dựng của thành phố, 
cuối cùng đã dẫn đến sự thất bại từ phía Mexico trong việc đảm bảo yêu cầu về 
“tính minh bạch: của NAFTA. 
- Metalclad có quyền dựa vào sự đại diện của các viên chức liên bang và tin rằng có 
quyền tiếp tục xây dựng khu chôn rác thải. Nghe theo lời khuyên của các viên chức 
này và đệ trình đơn xin giấy phép của thành phố vào ngày 15 thánh 11 năm 1994, 
Metalclad đơn thuần đã hành động một cách thận trọng và hi vọng sẽ được cấp giấy 
phép. 
2.Mexico: 
- Vào tháng 2 năm 1995 , UASLP đưa ra một bản nghiên cứu khẳng định những sự 
việc trước đó , mặc dù vùng đất landfill vẫn còn một vài vấn đề đáng quan tâm , 
nhưng với kỹ thuật chính xác về mặt địa lý thì cho thấy nó phù hơp với vùng đất 
chứa chất thải độc hại .Tháng 3 -1995 , PROFEPA , một cơ quan độc lập của 
SEMARNAP , đã chỉ đạo việc kiểm tra vùng này và cũng kết luận rằng với kỹ 
thuật và hành động chính xác , vùng landfill đã phù hơp về phương diện địa lí với 
landfill chất thải độc hại . 
- 5-12-1885, 13 tháng sau khi đơn xin giấy phép xây dựng thành phố được sắp xếp, 
thì đơn này đã bị từ chối. Khi từ chối như vậy thành phố đã dẫn lại quyết định của 
mình khi từ chối giấy phép xây dựng Coterin vào 10- 1991 và 1-1992 và nhấn 
mạnh đến sự không hợp pháp của việc Metaclad xây dựng Lanfill trước khi nhận 
được giấy phép xây dựng thành phố. 
- Thành phố không đưa ra một chỉ thị nào để xem xét việc xây dựng và mở 
Landfill trong 13 tháng khi đơn xin phép đang được xem xét. 
- Mexico khẳng định rằng Metaclad ý thức được rằng giấy phép thành phố là cần 
thiết dựa trên cơ sở vụ Coterin 1991,1992 và những tiền lệ của những dự án ở SLP. 
- Mexico cũng cho rằng việc xem xét nghị định sinh thái là nằm ngoài tầm tài 
phán của tòa vì nghị định này được thực hiện sau khi đưa ra thông báo về quyền 
của toà. Đặc biệt hơn, Mexico cũng lập luận rằng điều 1119 Nafta có nhan đề là 
“giấy báo trước về ý định đệ trình đơn khiếu nại” đã gạt bỏ những lời khiếu nại mà 
sự vi phạm thực ra chưa xảy ra. Luật đã nói: 
Nhà đầu tư đang tranh chấp sẽ đệ trình cho các bên tranh chấp văn bản nói lên ý 
định đệ trình lời khiếu nại với ban trọng tài, ít nhất 90 ngày trước khi đệ đơn khiếu 
nại mà giấy báo này sẽ nói rõ.. 
(b) Những khoản của NAFTA được nêu là đã bị vi phạm và bất cứ điều khoản 
nào có liên quan 
(c) Những vấn đề và cơ sở thực tế của sự khiếu nại, Mexico lại nêu điều 1120 
NAFTA yêu cầu rằng phải có khoảng thời gian là 6 tháng giữa các sự kiện làm nảy 
sinh lời khiếu nại và sự đệ trình đơn khiếu nại đó. 
Trên cơ sở 2 điêu 1119 và 1120, Mexico lập luận rằng người khiếu nại phải đảm 
bảo đơn khiếu nại của mình là hợp lý vào thời điểm nó được đưa ra. Đồng thời 
Mexico cũng không gạt bỏ khả năng là có thể bổ sung thay đổi đơn khiếu nại này. 
Ban đầu Mexico khẳng định rằng để đảm bảo sự công bằng và minh bạch của sự 
sửa đổi trong đơn khiếu nại hay sự trình bày của đơn khiếu nại bổ sung trong điều 
48 the Additional Facility Rules , điều này tùy thuộc vào đơn chính thức và sự sửa 
đổi bổ sung đươjc yêu cầu phải nêu lên một cách rõ ràng. Sau đó Mexico đã điều 
chỉnh quan điểm của mình trong cuộc họp ngắn sau khi nghe điều trần. Trong cuộc 
họp này, Mexico lập luận rằng phần B chương 11 không nói đến việc sửa đổi lời 
khiếu nại này được coi là đã hợp lý để bổ sung vào đó những sự kiện xảy ra sau khi 
đã đưa đơn khiếu nại. Mexico cũng tranh luận rằng phần B chương 11 có thay đổi 
những Additional Facility Rules về việc sửa đổi những lời khiếu nại và việc đưa 
các đơn khiếu nại bổ sung làm cho điều 48 Additional Facility Rules không thực 
hiện được. 
- Một vấn đề đáng băn khoăn là liệu Mexico có phải chịu trách nhiệm quốc tế về 
những hành động của SLP và Guadalcazar hay không. Mexico đã bác bỏ vấn đề 
này tại trang 233 của đơn đệ trình, “Mexico không biện hộ rằng mọi hành động của 
Municipality không thuộc sự điều chỉnh của NAFTA. Mexico đã, đang và sẽ tiếp 
tục giả định rằng, các quy tắc thông thường về trách nhiệm của quốc gia có hiệu 
lực; rằng phía bị đơn có thể chịu trách nhiệm quốc tế cho mọi hành động của các cơ 
quan nhà nước ở cả 3 cấp chính quyền”. Các bên thoả thuận phải “đảm bảo áp dụng 
mọi biện pháp cần thiết để các điều khoản của thoả thuận có hiệu lực, bao gồm sự 
tuân thủ, trừ các quy định khác tại thoả thuận này, bởi nhà nước và chính quyền cấp 
địa phương” (Đ105 – NAFTA). Nhắc tới một bang hoặc một tỉnh là bao gồm các 
chính quyền địa phương của bang hoặc tỉnh đó (Điều 201(2) – NAFTA). Việc miễn 
thực hiện các yêu cầu trong Đ1105 và 1110 nằm trong khoản 1 Đ.1108 không mở 
rộng tới các bang hoặc chính quyền địa phương. Cách tiếp cận này hoàn toàn thừa 
nhận vị trí xác định trong tập quán quốc tế. Điều này được khẳng định rõ trong Đ10 
về các điều khoản dự thảo về trách nhiệm của nhà nước được UB pháp luật quốc tế 
của LHQ thông qua vào năm 1975, mặc dù hiện vẫn đang được cân nhắc, nhưng 
vẫn được coi là luật hiện hành: “Việc quản lý của một cơ quan của một quốc gia, 
của một thực thể chính phủ hoặc một thực thể được trao thẩm quyền chính phủ, các 
cơ quan hành động dưới tư cách đó sẽ được coi như là hành động của quốc gia dưới 
sự điều chỉnh của luật quốc tế ngay cả khi, trong những trường hợp đặc biệt, cơ 
quan vượt quá quyền hạn theo như luật quốc tế hoặc contravened instructions liên 
quan đến hoạt động đó”. 
- Luật sinh thái 1998 của Mexico (LGEEPA) hoàn toàn công nhận thẩm quyền của 
liên bang trong việc xây dựng và hoạt động các khu vực chôn rác thải nguy hiểm. 
Điều 5 của luật này quy định quyền hạn của Liên bang mở rộng tới: 
 Điều chỉnh, điều khiển các hoạt động bị coi là đặc biệt nguy hiểm, quản lý và bỏ 
đi chất rác thải nguy hiểm cho môi trường sinh thái cũng như bảo tồn tài nguyên 
thiên nhiên. 
- LGEEPA cũng giới hạn quyền hạn của chính quyền thành phố trong vấn đề môi 
trường về việc cấp phép liên quan đến các chất thải không nguy hiểm. Cụ thể, Điều 
8 – LGEEPA giới hạn thẩm quyền của chính quyền thành phố theo quy định của 
luật và luật địa phương để áp dụng: 
Các quy định của pháp luật trong vấn đề ngăn ngừa và kiểm soát hiệu ứng của 
môi trường bởi “generation, transportation,storage” , xử lý và bỏ những chất 
thải công nghiệp mà không bị coi là nguy hiểm như trong quy định tại Đ.137 
của LGEEPA. 
- Pháp luật tương tự cũng giới hạn thẩm quyền đối với những người không nằm 
trong chính phủ liên bang. 
- Ngay cả khi Mexico đính chính rằng cần có một giấy phép xây dựng, thì chứng cớ 
chỉ ra rằng, cơ quan chính quyền liên bang đang kiểm soát việc ước lượng và đánh 
giá chất thải nguy hiểm và thẩm quyền của chính quyền thành phố chỉ giới hạn tới 
những cân nhắc xây dựng thích hợp. Kết quả là, việc chính quyền thành phố từ chối 
cấp phép liên quan đến việc suy xét có tính ảnh hưởng về vấn đề môi trường trong 
trường hợp đây lại là khu xử lý rác thải nguy hiểm thực sự, với bất cứ lý do nào,là 
sai trừ khi những vấn đề này liên quan tới việc xây dựng cơ sở hoặc những thiếu sót 
trong khu vực xây dựng. 
V.Phán quyết của Toà: 
- Tòa đồng ý với luận điểm của Mexico rằng vụ này cỏ thể không được bắt đầu 
dựa trên cơ sở một vi phạm trước đó.Tuy nhiên, tòa không chấp nhận cách giải 
thích và cách áp dụng về hạn thời gian của Mexico đưa ra trong NAFTA. Metalclad 
đã đệ trình hợp lệ những đơn khiếu nại của mình theo luật Additional Facility Rules 
khi dẫn ra điều 1120 luật NAFTA. Theo điều 1120 khoản 2 thì việc đưa ra tuyên 
bố theo các quy tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ chi phối đến việc giải 
quyết tranh chấp trừ những điều khoản bổ sung trong phần B chương 11. Điều 48 
khoản 1 , quy định rõ một bên có thể trình ra tuyên bố bổ sung mà đựơc quy định 
các tuyên bố phụ thuộc nằm trong phạm vi thoả thuận giải quyết tranh chấp của các 
bên. 
- Tòa không đồng ý với quan điểm sau khi nghe điều trần của Mexico rằng phần 
B chương 11 làm thay đổi điều 48 của luật. Tòa tin rằng đó không phải là ý định 
của người dự thảo luật NAFTA, điều 1119 và 1120 để giới hạn quyền của tòa theo 
chương 11. Dù sao tòa cũng ủng hộ Mexico hơn khi khẳng định trong bản tuyên bố 
chung rằng tòa hiểu chương 11 NAFTA phần B và điều 48 của luật khi cho phép 
sửa đổi bổ sung những bản yêu sách được đệ trình trước đây và xem xét thực tế sự 
kiện xảy ra sau đó để đệ trình bản khiếu nại bổ sung cái mà phát sinh ngoài bản 
khiếu nại gốc hoặc trực tiếp liên quan đến bản khiếu nại gốc. Nhưng ý kiến trái 
ngược yêu cầu nguyên đơn đưa ra những hành động phức tạp có liên quan xảy ra 
sau đó và sẽ dẫn đến thiếu công bằng và hiệu quả. 
- Tòa đồng ý với Mexico rằng quá trình sửa đổi và bổ sung 1 khiếu nại phải 
được đảm bảo diễn ra công bằng và minh bạch. Điều 48 khoản 2 của luật đảm bảo 
sự công bằng bằng cách yêu cầu bất cư 1 dơn khiếu nại phụ thuộc nào được đưa ra 
thì không được muộn hơn bản trả lời của nguyên đơn. Trong trường hợp này, 
Metalcald đưa ra thông tin liên quan đến nghị định sinh thái và mục đích của họ là 
dựa vào nghị định này cho đến khi đưa ra được Memorial. Sau đó Mexico đã đưa ra 
Counter-Memorial và tuyên bố. Nghị định sinh thái liên quan trực tiếp đến quyền 
sở hữu và luật đầu tư hiện hành, và Mexico đã có những lời báo trước và có cơ hội 
phát biểu ý kiến về những vấn đề có liên quan đến nghị định đó. 
- Tòa cuối cùng chỉ ra rằng mặc dù nghị định sinh thái đươc ban hành sau khi 
Metalclad đệ trình đơn khiếu nại, những vấn đề có liên quan đến đơn khiếu nại mà 
Metal đã đưa ra đúng lúc và phù hợp với nguyên tăc công bằng minh bạch. Mexico 
đã có nhiều cơ hội để phản ứng lại và không phải chịu bất cứ tổn thất nào. Do đó 
toà chỉ ra rằng việc xem xét nghị định sinh thái là thuộc thẩm quyền của tòa nhưng 
việc xem xét đó không có tầm điều chỉnh quan trọng. 
 - Đ.1105, khoản 1 NAFTA quy định rằng: “ mỗi bên sẽ thống nhất việc đối xử 
với việc đầu tư của nhà đầu tư của bên kia theo luật quốc tế, bao gồm việc đối xử 
công bằng, vô tư, bảo vệ và an ninh đầy đủ”. Với những lý do dưới đây, Toà thấy 
rằng việc đầu tư của Metalclad đã không được đối xử công bằng theo luật quốc tế, 
Mexico đã vi phạm Đ.1105,khoản 1 NAFTA. 
 - Điểm nổi bật nhất trong các quy tắc của hiệp định này là hướng tới “tính minh 
bạch” (đ.102, khoản 1). Toà cho rằng điều này hàm ý mọi yêu cầu pháp lý có liên 
quan về mục đích khởi xướng, hoàn chỉnh và thực hiện thành công các dự án đầu tư 
nên được tất cả các nhà đầu tư ở các nước khác biết đến. Không có sự nghi ngờ 
hoặc không chắc chắn nào trong các vấn đề đó. Ngay khi người có thẩm quyền của 
chính phủ trung ương của các nước (người mà có trách nhiệm quốc tế trong các vấn 
đề trên được xác định ở phần trước) nhận thấy bất cứ khả năng nào dẫn đến việc 
hiểu sai và nhầm lẫn, họ có trách nhiệm đảm bảo ngay lập tức xác định quan điểm 
và khẳng định rõ ràng để các nhà đầu tư có thể bắt đầu với những chi phí thích hợp 
với sự tin tưởng rằng họ đang hành động theo pháp luật có liên quan. 
- Do đó, toà nhận thấy rằng giấy phép xây dựng đã bị từ chối mà không có bất 
kỳ một sự cân nhắc hay xem xét cụ thể nào từ những khía cạnh xây dựng hay 
những thiếu sót của cơ sở vật chất. 
- Hơn nữa, toà cũng không thể không quan tâm đến thực tế ngay sau khi chính 
quyền thành phố từ chối cấp giấy phép, thành phố đã đệ trình một đơn kiện hành 
chính lên SEMARNAP phản đối Convenio. Toà đã từ đó suy ra rằng chính quyền 
thành phố đã thiếu sự tin tưởng vào thẩm quyền của nó nên đã từ chối cho phép sự 
hoạt động của Landfill chỉ dựa trên cơ sở của việc thiếu giấy phép xây dựng của 
chính quyền thành phố. 
- SEMARNAP đã bac bỏ sự phản đối thiếu lập trường mà chính quyền thành 
phố đã phản đối bằng việc đưa ra hành động “amparo”. Một lệnh đã được ban hành 
và khu Landfill đã bị cấm hoạt động cho tới năm 1999. 
- Năm 1997, SLP đã đưa ra xem xét lại tình hình và ban hành một nghị định 
sinh thái vào năm 1997 mà đã ngăn cản một cách hiệu quả và lâu dài quyền sử 
dụng đầu tư của Metalclad. 
- Những hành động của chính quyền thành phố kéo theo sự phủ nhận của nó 
đối với giấy phép xây dựng thành phố mà sự phủ nhận này gắn liền với những thiếu 
sót về thủ tục và quyền hạn, chứng minh cho các kết luận của toà án, với những lý 
do đã nói ở trên, rằng sự khẳng định của chính quyền thành phố và sự phủ nhận 
giấy phép xây dựng trong trường hợp này là không đúng. 
- Kết luận này không bị tác động bởi Điều 1114 NAFTA, cho phép một bên 
đảm bảo rằng hoạt động đầu tư được đảm nhận theo cách bị ảnh hưởng bởi các vấn 
đề liên quan tới môi trường. Kết luận của Convenio và việc ban hành giấy phép liên 
bang cho thấy rõ ràng rằng, Mexico đã thoả mãn với dự án phù hợp và dễ bị ảnh 
hưởng bởi môi trường. 
- Mexico đã không thể đảm bảo một cơ cấu tổ chức rõ ràng và có tính dự báo 
cho kế hoạch thương mại và đầu tư của Metalclad. Tất cả những trường hợp đó đã 
chứng tỏ sự thiếu quy trình có trình tự và sự sắp xếp hợp thời liên quan đến hoạt 
động của nhà đầu tư của một bên trong sự hy vọng rằng, nó sẽ được đối xử công 
bằng, phù hợp với NAFTA. 
- Tuy nhiên những hành động của nhà nước và chính quyền, những hành động 
của Mexico đã không tuân theo hoặc tôn trọng thủ tục theo Điều 1105(1) NAFTA 
rằng mỗi bên chấp thuận sự đối xử đầu tư của nhà đầu tư phía bên kia phù hợp với 
luật quốc tế bao gồm sự đối xử công bằng, vô tư. Điều này đặc biệt làm sáng tỏ 
nguyên lý chủ đạo rằng, nội luật (như những yêu cầu giấy phép rõ ràng của chính 
quyền thành phố) không biện minh cho việc không thi hành một điều ước (Điều 26, 
27 Công ước Viên về luật điều ước). 
- Do đó Tòa đã quyết định rằng Metalclad đã không được đối xử công bằng 
theo NAFTA 
- Điều 1110 NAFTA quy định “ không một bên nào được trực tiếp hoặc gián 
tiếp tước đoạt quyền đầu tư hoặc áp dụng biện pháp tương đương với sự tước đoạt, 
trừ : (a) vì mục đích công cộng, (b) trên cơ sở không phân biệt đối xử, (c) phù hợp 
với quy trình thích hợp của luật và điều 1105 khoản 1, (d) trên sự bồi thường”. 
“Một biện pháp” được quy định trong điều 201 khoản 1 bao gồm “ mọi điều 
luật,quy tắc , thủ tục hoặc thông lệ”. 
- Do đó, sự tước đoạt theo NAFTA bao gồm không chỉ có việc tước đoạt công 
khai, cố tình hoặc thừa nhận, như là sự chiếm đoạt toàn bộ hoặc chuyển nhượng 
một cách chính thức hay bắt buộc với tư cách ủng hộ nước tiếp nhận, mà còn bao 
gồm cả sự can thiệp ngầm,hoặc vô tình tước đoạt một phần hay toàn bộ quyền sở 
hữu của nhà đầu tư hoặc những tài sản có lợi ích kinh tế ngay cả khi lợi ích đó là 
không rõ ràng với nước nhận. 
- Bằng việc cho phép hoặc tiếp nhận sự quản lý của Guadalcazar liên quan đến 
Metalclad mà tòa vừa quyết định dẫn tới sự đối xử không công bằng, vi phạm điều 
1105 và do đó đồng ý phủ nhận quyền hoạt động khu landfill của Metalclad.Tuy 
nhiên thực tế là dự án hoàn toàn được chính phủ liên bang chấp thuận và tán thành. 
Mexico cần phải bị áp dụng các biện pháp tương đương với sự tước đoạt do vi 
phạm điều 1110 khoản 1 NAFTA. 
- Tòa án quyết định rằng thẩm quyền duy nhất về việc cho phép khu chôn rác 
thải độc hại thuộc về chính phủ liên bang Mexico.Tuyên bố này phù hợp với lời 
khai của thư ký của SEMARNAP,và như đã nói ở trên, phù hợp với luật LGEEPA. 
- Như đã quyết định ở trên chính quyền thành phố đã từ chối 1 phần giấy phép 
xây dựng của địa phương do sự nhận thức của chính quyền thành phố về những ảnh 
hưởng có hại tới môi trường và vị trí địa lý không phù hợp với khu chôn rác 
thải.Do đó chinhs quyền thành phố đã hành động ngoài thẩm quyền của mình.Như 
đã nói ở trên,sự phủ nhận của chính quyền thành phố đối với giấy phép xây dựng 
không có bất cứ một cơ sở nào trong việc đề xuất xây dựng cơ sở vật chất hoặc bất 
cứ thiếu sót nào trong vị trí, và đã được mở rộng bởi hành động của tòa án liên 
quan đến Convenio, ngăn chặn một cách hiệu quả và bất hợp pháp sự hoạt động 
của khu chôn rác thải phía bên nguyên đơn. 
- Trường hợp này giống với một số khía cạnh cảu vụ việc 
Biloune(1993).Trong trường hợp đó, một nhà đầu tư tư nhân đã nâng cấp và mở 
rộng một khu nhà hàng tại Ghana.Cũng như Metalclad,chính nhà đầu tư này đã dựa 
vào sự đại diện cảu một tổ chức chính phủ, đã bắt đầu xây dựng trước khi xin giấy 
phép xây dựng.Cũng như Metalclad,một yêu cầu ngừng hoạt động đã được ban 
hành sau khi một số lượng công việc đáng kể đã được hoàn thành.Yêu cầu này dựa 
vào sự thiếu giấy phép xây dựng.Một đơn xin đã được gửi đi, mặc dù không bị từ 
chối một cách tuyệt đối nhưng giấy phép đó cũng không được ban hành.Tòa án đã 
nhận thấy rằng một sự tước đoạt gián tiếp đã được áp dụng.Bởi vì hầu hết các 
trường hợp đã có những tác động gây ra sự chấm dứt hoạt động của dự án.Tòa đặc 
biệt quan tâm đến sự tín nhiệm của nhà đầu tư đối với sự đại diện của chính phủ về 
việc cho phép.Thực tế thì những nhà chức trách của chính phủ đã biết về việc xây 
dựng trong vòng hơn 1 năm trước khi ban hành yêu cầu ngừng hoạt động.Thực tế là 
đã không có giấy phép cấp cho các dự án khác và không có quy trình nào được đặt 
ra liên quan đến đơn xin giấy phép xây dựng.MẶc dù quyết định trong Biloune 
không ràng buộc tòa án này nhưng nó là một căn cứ thuyết phục và tòa cũng đồng ý 
với những phân tích và kết luận của nó. 
- Mặc dù không hoàn toàn cần thiết cho kết luận của toà, nhưng Toà cũng đã 
xác định như một nền tảng cơ sở rộng hơn cho sự quyết định về việc tước đoạt tài 
sản được quy định trong nghị định sinh thái được ban hành bởi chính phủ của SLP 
vào ngày 20-9-1997.Nghị định này bao gồm một diện tích 188,758 ha trong : “ 
Real de Guadalcazar” mà cũng bao gồm cả vị trí của khu chôn rác thải ,và tạo ra 
trong đó một khu bảo tồn sinh thái.Nghị định này có hiệu quả trong việc ngăn cản 
vĩnh viễn hoạtd động của khu chôn rác thải. 
- Toà đã không bị thuyết phục bởi phía đại diện của Mexico. Ví dụ ở điều 9 
cấm bất kỳ một công việc nào cản trở chương trình quản lý của Nghị định sinh 
thái.Chương trình quản lý được định nghĩa tại điều 5 như là một trong những sự 
xác định các vấn đề sinh thái về việc bảo tồn xương rồng, và việc bảo đảm bảo tồn 
sinh thái.Ngoài ra, điều 14 của Nghị định cũng cấm bất kỳ một sự quản lý nào đến 
việc thải các tác nhân gây ô nhiễm đất, đất ngầm, nước hay nước ngầm và ngăn 
cấm việc thực hiện bất kỳ hoạt động nào có thể gây ô nhiễm.Điều 15 của Nghị định 
sinh thái cũng cấm các hoạt động đòi hỏi phải có giấy phép hoặc cấp phép, trừ khi 
các hoạt động đó liên quan tới việc thăm dò, khai thác hoặc tận dụng tài nguyên 
thiên nhiê. 
- Toà không cần phải quyết định hoặc xem xét động lực, mục đích của việc 
chấp thuận nghị định sinh thái. Do đó, một kết luận về việc tước đoạt dựa trên cơ 
sở của nghị định sinh thái là không cần thiết cho kết luận của toà về việc vi phạm 
điều 1110 NAFTA. Tuy nhiên, Toà xem xét rằng việc thực hiện Nghị định sinh thái 
sẽ tạo thành một hành động tương đương với sự tước đoạt. 
- Cuối cùng Toà kết luận rằng, Mexico đã gián tiếp tước đoạt sự đầu tư của 
Metalclad mà không có sự bồi thường nào.Vì vậy, Mexico đã vi phạm vào điều 
1110 NAFTA. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_vu_viec_tuoc_doat_tai_san_giua_metalclad_corporati.pdf