Tiểu luận Các tổ chức tài chính: WTO, WB, IMF

pdf 28 trang yenvu 26/04/2024 1540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Các tổ chức tài chính: WTO, WB, IMF", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Các tổ chức tài chính: WTO, WB, IMF

Tiểu luận Các tổ chức tài chính: WTO, WB, IMF
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM 
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC 
 
Tiểu luận môn TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 
ĐỀ TÀI: CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH – 
WTO, WB, IMF 
Giảng viên hướng dẫn : TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Lớp : Cao học K16 Đêm 2- Ngân hàng 
Nhóm thực hiện : Nhóm6 
Thành viên của nhóm: 
 1. Cao Như Hồng 
 2. Lê Thị Kim Loan 
 3. Đỗ Thị Kim Luyến 
 4. Trương Thị Ngọc Mai 
 5. Nguyễn Thị Thanh Nga 
 6. Nguyễn Thị Công Uyên 
TP. Hồ Chí Minh 03/2008 
MỤC LỤC 
A. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI-WTO ........................................................................... 3 
I. Nguồn gốc và mục ti êu họat động................................................................................................. 3 
II. Chức năng:...................................................................................................................................... 4 
1. Đàm phán:.......................................................................................................................................... 4 
2. Giải quyết tranh chấp: ...................................................................................................................... 5 
III. Cơ cấu tổ chức:............................................................................................................................. 5 
3.1 Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng .......................................................................................... 5 
3.2 Cấp thứ hai: Đại Hội đồng ....................................................................................................... 5 
3.3 Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại .................................................................................. 6 
3.4 Cấp thứ tư: Các Ủy ban và Cơ quan ....................................................................................... 6 
IV. Các nguyên tắc: ............................................................................................................................ 7 
V. Các hiệp định: ................................................................................................................................ 7 
VI. Thành viên ..................................................................................................................................... 8 
VII: Thế giới chào đón Việt Nam gi a nhập WTO ..................................................................... 11 
B. NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WORLD BANK) ........................................................................... 13 
I. Giới thiệu: ....................................................................................................................................... 13 
II. Chức năng của WB:.................................................................................................................... 13 
III. Vị thế của Việt nam tại WB..................................................................................................... 15 
IV. Vai trò của WB đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam và xu hướng OD A của 
WB cho Việt Nam. ............................................................................................................................ 18 
V. Các Tổ chức thành viên của WB tại Việt Nam ..................................................................... 19 
VI. WB nhận định những thách thức của kinh tế Việt Nam .................................................. 21 
C. QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ IMF ................................................................................................... 23 
I. Giới thiệu chung về Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) ................................................................. 23 
II. Cơ cấu tổ chức:............................................................................................................................. 24 
III.Các thể thức cho vay của IMF:................................................................................................ 25 
IV.Quan hệ giữa IMF và Việt Nam: ............................................................................................. 26 
A. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI-WTO 
I. Nguồn gốc và mục tiêu họat động 
1. Nguồn gốc: 
Hội nghị Bretton Woods vào năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương mại Quốc 
tế (ITO) nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương mại giữa các nước. Hiến chương ITO 
được nhất trí tại Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Việc làm tại Havana tháng 3 
năm 1948. Tuy nhiên, Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã không phê chuẩn hiến chương này. M ột số 
nhà sử học cho rằng sự thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh nghiệp Hoa Kỳ lo ngại rằng Tổ 
chức Thương mại Quốc tế có thể được sử dụng để kiểm soát chứ không phải đem lại tự do hoạt 
động cho các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ (Lisa Wilkins, 1997). 
ITO chết yểu, nhưng hiệp định mà ITO định dựa vào đó để điều chỉnh thương mại quốc tế 
vẫn tồn tại. Đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT đóng vai trò là 
khung pháp lý chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm sau đó. Các 
nước tham gia GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán, ký kết thêm nhiều thỏa ước thương mại 
mới. Vòng đàm phán thứ tám, Vòng đàm phán Uruguay, kết thúc vào năm 1994 với sự thành lập 
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho GATT. Các nguyên tắc và các hiệp định của 
GATT được WTO kế thừa, quản lý, và mở rộng. Không giống như GATT chỉ có tính chất của 
một hiệp ước, WTO là một tổ chức, có cơ cấu tổ chức hoạt động cụ thể. WTO chính thức được 
thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995. 
2. Mục tiêu hoạt động: 
WTO với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới, thực hiện 
những mục tiêu đã được nêu trong Lời nói đầu của Hiệp định GATT 1947 là nâng cao mức sống 
của nhân dân các thành viên, đảm bảo việc làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại, sử 
dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới. Cụ thể: 
WTO có 3 mục tiêu sau: 
- Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát 
triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường. 
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp 
thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù 
hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; bảo đảm cho các nước đang phát triển và 
đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng 
của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến 
khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. 
- Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm 
các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng. 
II. Chức năng: 
WTO có các chức năng sau: 
 Quản lý việc thực hiện các hiệp định của WTO 
 Diễn đàn đàm phán về thương mại 
 Giải quyết các tranh chấp về thương mại 
 Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia 
 Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển 
 Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác 
1. Đàm phán: 
Phần lớn các quyết định của WTO đều dựa trên cơ sở đàm phán và đồng thuận. M ỗi 
thành viên của WTO có một phiếu bầu có giá trị ngang nhau. Nguyên tắc đồng thuận có ưu điểm 
là nó khuyến khích nỗ lực tìm ra một quyết định khả dĩ nhất được tất cả các thành viên chấp 
nhận. Nhược điểm của nó là tiêu tốn nhiều thời gian và nguồn lực để có được một quyết định 
đồng thuận. Đồng thời, nó dẫn đến xu hướng sử dụng những cách diễn đạt chung chung trong 
hiệp định đối với những vấn đề có nhiều tranh cãi, khiến cho việc diễn giải các hiệp định gặp 
nhiều khó khăn. 
Trên thực tế, đàm phán của WTO diễn ra không phải qua sự nhất trí của tất cả các thành 
viên, mà qua một quá trình đàm phán không chính thức giữa những nhóm nước. Những cuộc 
đàm phán như vậy thường được gọi là "đàm phán trong phòng xanh" (tiếng Anh: "Green Room" 
negotiations), lấy theo màu của phòng làm việc của Tổng giám đốc WTO tại Genève, Thụy Sỹ. 
Chúng còn được gọi là "Hội nghị Bộ trưởng thu hẹp" (Mini-Ministerials) khi chúng diễn ra ở các 
nước khác. Quá trình này thường bị nhiều nước đang phát triển chỉ trích vì họ hoàn toàn phải 
đứng ngoài các cuộc đàm phán như vậy. 
Richard Steinberg (2002) lập luận rằng mặc dù mô hình đồng thuận của WTO đem lại vị 
thế đàm phán ban đầu dựa trên nền tảng luật lệ, các vòng đàm phán thương mại kết thúc thông 
qua vị thế đàm phán dựa trên nền tảng sức mạnh có lợi cho Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ, và có 
thể không đem đến sự cải thiện Pareto. Thất bại nổi tiếng nhất và cũng gần đây nhất trong việc 
đạt được một sự đồng thuận là tại các Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ở Seattle (1999) và Cancún 
(2003) do một số nước đang phát triển không chấp thuận các đề xuất được đưa ra. 
WTO bắt đầu tiến hành vòng đàm phán hiện tại, Vòng đàm phán Doha, tại Hội nghị Bộ 
trưởng lần thứ 4 diễn ra tại Doha, Qatar vào tháng 11 năm 2001. Các cuộc đàm phán diễn ra 
căng thẳng và chưa đạt được sự nhất trí, mặc dù đàm phán vẫn đang tiếp diễn qua suốt Hội nghị 
Bộ trưởng lần thứ 5 tại Cancún, Mexico vào năm 2003 và Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 6 tại Hồng 
Kông từ ngày 13 tháng 12 đến ngày 18 tháng 12 năm 2005. 
2. Giải quyết tranh chấp: 
Ngoài việc là diễn đàn đàm phán các quy định thương mại, WTO còn hoạt động như một 
trọng tài giải quyết các tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc áp dụng quy định 
của WTO. Không giống như các tổ chức quốc tế khác, WTO có quyền lực đáng kể trong việc 
thực thi các quyết định của mình thông qua việc cho phép áp dụng trừng phạt thương mại đối 
với thành viên không tuân thủ theo phán quyết của WTO. Một nước thành viên có thể kiện lên 
Cơ quan Giải quyết Tranh chấp của WTO nếu như họ tin rằng một nước thành viên khác đã vi 
phạm quy định của WTO. 
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO bao gồm hai cấp: sơ thẩm và phúc thẩm. Ở cấp 
sơ thẩm, tranh chấp sẽ được giải quyết bởi một Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp. Ban hội 
thẩm này thông thường gồm 3 đến 5 chuyên gia trong lĩnh vực thương mại liên quan. Ban hội 
thẩm sẽ nghe lập luận của của các bên và soạn thảo một báo cáo trình bày những lập luận này, 
kèm theo là phán quyết của ban hội thẩm. Trong trường hợp các bên tranh chấp không đồng ý 
với nội dung phán quyết của ban hội thẩm thì họ có thể thực hiện thủ tục khiếu nại lên Cơ quan 
phúc thẩm. Cơ quan này sẽ xem xét đơn khiếu nại và có phán quyết liên quan trong một bản báo 
cáo giải quyết tranh chấp của mình. Phán quyết của các cơ quan giải quyết tranh chấp nêu trên sẽ 
được thông qua bởi Hội đồng Giải quyết Tranh chấp. Báo cáo của cơ quan giải quyết tranh chấp 
cấp phúc thẩm sẽ có hiệu lực cuối cùng đối với vấn đề tranh chấp nếu không bị Hội đồng Giải 
quyết Tranh chấp phủ quyết tuyệt đối (hơn 3/4 các thành viên Hội đồng giải quyết tranh chấp bỏ 
phiếu phủ quyết phán quyết liên quan). 
Trong trường hợp thành viên vi phạm quy định của WTO không có các biện pháp sửa 
chữa theo như quyết định của Hội đồng Giải quyết Tranh chấp, Hội đồng có thể ủy quyền cho 
thành viên đi kiện áp dụng các "biện pháp trả đũa" (trừng phạt thương mại). Những biện pháp 
như vậy có ý nghĩa rất lớn khi chúng được áp dụng bởi một thành viên có tiềm lực kinh tế mạnh 
như Hoa Kỳ hay Liên minh châu Âu. Ngược lại, ý nghĩa của chúng giảm đi nhiều khi thành viên 
đi kiện có tiềm lực kinh tế yếu trong khi thành viên vi phạm có tiềm lực kinh tế mạnh hơn, 
chẳng hạn như trong tranh chấp mang mã số DS 267 về trợ cấp bông trái phép của Hoa Kỳ. 
III. Cơ cấu tổ chức: 
Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, ủy ban của WTO, 
ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp và các ủy ban đặc thù. 
3.1 Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng 
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất hai năm một 
lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO. Các thành viên này có thể là một 
nước hoặc một liên minh thuế quan (chẳng hạn như Cộng đồng châu Âu). Hội nghị Bộ trưởng có 
thể ra quyết định đối với bất kỳ vấn đề trong các thỏa ước thương mại đa phương của WTO. 
3.2 Cấp thứ hai: Đại Hội đồng 
Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại Hội đồng, Hội đồng 
Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác nhau, 
nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm đại diện (thường là cấp 
đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng 
được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO. 
1. Đại Hội đồng là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva, được nhóm họp 
thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất 
cả các nước thành viên và có thẩm quyền quyết định nhân danh hội nghị bộ trưởng (vốn chỉ 
nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các công việc của WTO. 
2. Hội đồng Giải quyết Tranh chấp được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các phán 
quyết về giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm đệ trình. Hội đồng bao 
gồm đại diện của tất cả các nước thành viên (cấp đại sứ hoặc tương đương). 
3. Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại được nhóm họp để thực hiện việc rà soát 
chính sách thương mại của các nước thành viên theo cơ chế rà soát chính sách thương mại. Đối 
với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn, việc rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một 
lần. Đối với những thành viên khác, việc rà soát có thể được tiến hành cách quãng hơn. 
3.3 Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại 
Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng. Có ba Hội đồng 
Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng 
Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại. Một hội đồng đảm trách 
một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm đại diện của tất cả 
các nước thành viên WTO. Bên cạnh ba hội đồng này còn có sáu ủy ban và cơ quan độc lập khác 
chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và phát triển, 
môi trường, các thỏa thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong 
số này có Nhóm Công tác về việc Gia nhập chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập 
WTO. 
1. Hội đồng Thương mại Hàng hóa chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi 
của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), tức là các hoạt động liên quan đến 
thương mại quốc tế về hàng hóa. 
2. Hội đồng Thương mại Dịch vụ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi 
của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), tức là các hoạt động liên quan đến 
thương mại quốc tế về dịch vụ. 
3. Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại chịu 
trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định về Các khía cạnh của Quyền Sở 
hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS), cũng như việc phối hợp với các tổ chức quốc tế 
khác trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ. 
3.4 Cấp thứ tư: Các Ủy ban và Cơ quan 
Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn riêng biệt. 
1. Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1 nhóm công tác, và 1 ủy ban đặc 
thù. 
2. Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm công tác, và 2 ủy ban đặc thù. 
3. Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc 
thẩm. 
Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán Doha, WTO đã thành lập Ủy ban 
Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thức đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm 
phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác 
nhau. 
IV. Các nguyên tắc: 
 Không phân biệt đối xử: 
1. Đãi ngộ quốc gia: Không được đối xử với hàng hóa và dịch vụ nước ngoài cũng 
như những người kinh doanh các hàng hóa và dịch vụ đó kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các 
đối tượng tương tự trong nước. 
2. Đãi ngộ tối huệ quốc: Các ưu đãi thương mại của một thành viên dành cho một 
thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các thành viên trong WTO. 
 Tự do mậu dịch hơn nữa: dần dần thông qua đàm phán 
 Tính Dự đoán thông qua Liên kết và Minh bạch: Các quy định và quy chế thương mại 
phải được công bố công khai và thực hiện một cách ổn định. 
 Ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển: Giành những thuận lợi và ưu đãi hơn cho các 
thành viên là các quốc gia đang phát triển trong khuôn khổ các chỉ định của WTO. 
 Thiết lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho thương mại giữa các nước thành viên 
V. Các hiệp định: 
Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều chỉnh các vấn đề về 
thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của Hiệp định về việc Thành 
lập Tổ chức Thương mại Thế giới được ký kết tại Marrakesh, M aroc vào ngày 15 tháng 4 năm 
1994. Bốn phụ lục đó bao gồm các hiệp định quy định các quy tắc luật lệ trong thương mại quốc 
tế, cơ chế giải quyết tranh chấp, cơ chế rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên, 
các thỏa thuận tự nguyện của một số thành viên về một số vấn đề không đạt được đồng thuận tại 
diễn đàn chung. Các nước muốn trở thành thành viên của WTO phải ký kết và phê chuẩn hầu hết 
những hiệp định này, ngoại trừ các thỏa thuận tự nguyện. Sau đây sẽ là một số hiệp định của 
WTO: 
 Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994) 
 Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) 
 Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ 
(TRIPS) 
 Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMS) 
 Hiệp định về Nông nghiệp (AoA) 
 Hiệp định về Hàng Dệt may (ATC) 
 Hiệp định về Chống bán Phá giá 
 Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng 
 Hiệp định về Tự vệ 
 Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu 
 Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch (SPS) 
 Hiệp định về các Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại (TBT) 
 Hiệp định về Định giá Hải quan 
 Hiệp định về Kiểm định Hàng trước khi Vận chuyển 
 Hiệp định về Xuất xứ Hàng hóa (ROO) 
 Thỏa thuận về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp 
VI. Thành viên 
Đến ngày 27 tháng 07 năm 2007, WTO có 151 thành viên. Thành viên mới gia nhập là Tonga. 
 Albania – 8 tháng 9 năm 2000 
 Angola – 23 tháng 11 năm 1996 
 Antigua và Barbuda – 1 tháng 1 năm 1995 
 Argentina – 1 tháng 1 năm 1995 
 Armenia – 5 tháng 2 năm 2003 
 Úc – 1 tháng 1 năm 1995 
 Áo – 1 tháng 1 năm 1995 
 Bahrain – 1 tháng 1 năm 1995 
 Bangladesh – 1 tháng 1 năm 1995 
 Barbados – 1 tháng 1 năm 1995 
 Bỉ – 1 tháng 1 năm 1995 
 Kuwait – 1 tháng 1 năm 1995 
 Kyrgyzstan – 20 tháng 12 năm 1998 
 Latvia – 10 tháng 2 năm 1999 
 Lesotho – 31 tháng 5 năm 1995 
 Liechtenstein – 1 tháng 9 năm 1995 
 Litva – 31 tháng 5 năm 2001 
 Luxembourg – 1 tháng 1 năm 1995 
 Macao – 1 tháng 1 năm 1995 
 Madagascar – 17 tháng 11 năm 1995 
 Malawi – 31 tháng 5 năm 1995 
 Malaysia – 1 tháng 1 năm 1995 
 Belize – 1 tháng 1 năm 1995 
 Bénin – 22 tháng 2 năm 1996 
 Bolivia – 12 tháng 9 năm 1995 
 Botswana – 31 tháng 5 năm 1995 
 Brasil – 1 tháng 1 năm 1995 
 Brunei – 1 tháng 1 năm 1995 
 Bulgaria – 1 tháng 12 năm 1996 
 Burkina Faso – 3 tháng 6 năm 1995 
 Burundi – 23 tháng 7 năm 1995 
 Kampuchia – 13 tháng 10 năm 2004 
 Cameroon – 13 tháng 12 năm 1995 
 Canada – 1 tháng 1 năm 1995 
 Cộng hoà Trung Phi – 31 tháng 5 năm 
1995 
 Tchad – 19 tháng 10 năm 1996 
 Chile – 1 tháng 1 năm 1995 
 Trung Quốc – 11 tháng 12 năm 2001 
 Colombia – 30 tháng 4 năm 1995 
 Cộng hoà Congo – 27 tháng 3 năm 1997 
 Costa Rica – 1 tháng 1 năm 1995 
 Côte d'Ivoire – 1 tháng 1 năm 1995 
 Croatia – 30 tháng 11 năm 2000 
 Cuba – 20 tháng 4 năm 1995 
 Kypros – 30 tháng 7 năm 1995 
 Cộng hoà Séc – 1 tháng 1 năm 1995 
 Cộng hoà Dân chủ Congo – 1 tháng 1 
năm 1997 
 Đan Mạch – 1 tháng 1 năm 1995 
 Maldives – 31 tháng 5 năm 1995 
 Mali – 31 tháng 5 năm 1995 
 Malta – 1 tháng 1 năm 1995 
 Mauritania – 31 tháng 5 năm 1995 
 Mauritius – 1 tháng 1 năm 1995 
 Mexico – 1 tháng 1 năm 1995 
 Moldova – 26 tháng 7 năm 2001 
 Mông Cổ – 29 tháng 1 năm 1997 
 Maroc – 1 tháng 1 năm 1995 
 Mozambique – 26 tháng 8 năm 1995 
 Myanma – 1 tháng 1 năm 1995 
 Namibia – 1 tháng 1 năm 1995 
 Nepal – 23 tháng 4 năm 2004 
 Hà Lan (và Antilles thuộc Hà Lan) – 
1 tháng 1 năm 1995 
 New Zealand – 1 tháng 1 năm 1995 
 Nicaragua – 3 tháng 9 năm 1995 
 Niger – 13 tháng 12 năm 1996 
 Nigeria – 1 tháng 1 năm 1995 
 Na Uy – 1 tháng 1 năm 1995 
 Oman – 9 tháng 11 năm 2000 
 Pakistan – 1 tháng 1 năm 1995 
 Panama – 6 tháng 9 năm 1997 
 Papua New Guinea – 9 tháng 6 năm 
1996 
 Paraguay – 1 tháng 1 năm 1995 
 Peru – 1 tháng 1 năm 1995 
 Philippines – 1 tháng 1 năm 1995 
 Djibouti – 31 tháng 5 năm 1995 
 Dominica – 1 tháng 1 năm 1995 
 Cộng hoà Dominicana – 9 tháng 3 năm 
1995 
 Ecuador – 21 tháng 1 năm 1996 
 Ai Cập – 30 tháng 6 năm 1995 
 El Salvador – 7 tháng 5 năm 1995 
 Estonia – 13 tháng 11 năm 1999 
 Cộng đồng châu Âu – 1 tháng 1 năm 1995 
 Fiji – 14 tháng 1 năm 1996 
 Phần Lan – 1 tháng 1 năm 1995 
 M acedonia – 4 tháng 4 năm 2003 
 Pháp – 1 tháng 1 năm 1995 
 Gabon – 1 tháng 1 năm 1995 
 Gambia – 23 tháng 10 năm 1996 
 Gruzia – 14 tháng 6 năm 2000 
 Đức – 1 tháng 1 năm 1995 
 Ghana – 1 tháng 1 năm 1995 
 Hy Lạp – 1 tháng 1 năm 1995 
 Grenada – 22 tháng 2 năm 1996 
 Guatemala – 21 tháng 7 năm 1995 
 Guinée – 25 tháng 10 năm 1995 
 Guiné-Bissau – 31 tháng 5 năm 1995 
 Guyana – 1 tháng 1 năm 1995 
 Haiti – 30 tháng 1 năm 1996 
 Honduras – 1 tháng 1 năm 1995 
 Hồng Kông – 1 tháng 1 năm 1995 
 Hungary – 1 tháng 1 năm 1995 
 Ba Lan – 1 tháng 7 năm 1995 
 Bồ Đào Nha – 1 tháng 1 năm 1995 
 Qatar – 13 tháng 1 năm 1996 
 Romania – 1 tháng 1 năm 1995 
 Rwanda – 22 tháng 5 năm 1996 
 Saint Kitts và Nevis – 21 tháng 2 
năm 1996 
 Saint Lucia – 1 tháng 1 năm 1995 
 Saint Vincent và Grenadines – 1 
tháng 1 năm 1995 
 Ả Rập Saudi – 11 tháng 12 năm 
2005 
 Sénégal – 1 tháng 1 năm 1995 
 Sierra Leone – 23 tháng 7 năm 1995 
 Singapore – 1 tháng 1 năm 1995 
 Slovakia – 1 tháng 1 năm 1995 
 Slovenia – 30 tháng 7 năm 1995 
 Quần đảo Solomon – 26 tháng 7 năm 
1996 
 Cộng hoà Nam Phi – 1 tháng 1 năm 
1995 
 Tây Ban Nha – 1 tháng 1 năm 1995 
 Sri Lanka – 1 tháng 1 năm 1995 
 Suriname – 1 tháng 1 năm 1995 
 Swaziland – 1 tháng 1 năm 1995 
 Thụy Điển – 1 tháng 1 năm 1995 
 Thụy Sĩ – 1 tháng 7 năm 1995 
 Trung Hoa Đài Bắc – 1 tháng 1 năm 
2002 
 Iceland – 1 tháng 1 năm 1995 
 Ấn Độ – 1 tháng 1 năm 1995 
 Indonesia – 1 tháng 1 năm 1995 
 Ireland – 1 tháng 1 năm 1995 
 Israel – 21 tháng 4 năm 1995 
 Ý – 1 tháng 1 năm 1995 
 Jamaica – 9 tháng 3 năm 1995 
 Nhật Bản – 1 tháng 1 năm 1995 
 Jordan – 11 tháng 4 năm 2000 
 Kenya – 1 tháng 1 năm 1995 
 Hàn Quốc – 1 tháng 1 năm 1995 
 Việt Nam – 11 tháng 1 năm 2007 
 Zambia – 1 tháng 1 năm 1995 
 Zimbabwe – 5 tháng 3 năm 1995 
 Tonga – 27 tháng 7 năm 2007 
 Tanzania – 1 tháng 1 năm 1995 
 Thái Lan – 1 tháng 1 năm 1995 
 Togo – 31 tháng 5 năm 1995 
 Trinidad và Tobago – 1 tháng 3 năm 
1995 
 Tunisia – 29 tháng 3 năm 1995 
 Thổ Nhĩ Kỳ – 26 tháng 3 năm 1995 
 Uganda – 1 tháng 1 năm 1995 
 Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống 
nhất – 10 tháng 4 năm 1996 
 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc 
Ireland – 1 tháng 1 năm 1995 
 Hoa Kỳ – 1 tháng 1 năm 1995 
 Uruguay – 1 tháng 1 năm 1995 
 Venezuela – 1 tháng 1 năm 1995 
VII: Thế giới chào đón Việt Nam gia nhập WTO 
“Việt Nam sẽ là một thành viên tin cậy và trách nhiệm của WTO” 
Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương 
mại Thế giới (WTO), bắt đầu quá trình thực thi các nghĩa vụ và quyền lợi với tư cách một thành 
viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại quy mô toàn cầu này. Việc gia nhập WTO là sự kiện có ý 
nghĩa quan trọng đối với Việt Nam, là cột mốc đánh dấu sự hội nhập sâu rộng của đất nước 
chúng ta vào nền kinh tế toàn cầu. Đồng thời, việc gia nhập WTO cũng thể hiện sự tín nhiệm và 
đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với những thành qủa của công cuộc đổi mới, phát triển 
kinh tế - xã hội trong nước và mở cửa, hội nhập với bên ngoài của Việt Nam trong hai thập kỷ 
qua. 
Đồng thời với việc tiếp tục tiến trình cải cách kinh tế - xã hội trong nước, Việt Nam cũng 
bắt đầu tham gia tích cực vào các hoạt động tại WTO và trong khuôn khổ Vòng đàm phán Doha. 
Với tư cách một thành viên mới, Việt Nam đã và sẽ nỗ lực đóng góp sức mình cùng các nước đi 
đến một thỏa thuận chung với phương châm “tất cả cùng thắng”, trong đó mọi thành viên WTO 
đều tìm thấy cho mình các cơ hội để tận dụng nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát tiển 
bền vững. 
Nhìn về phía trước, chúng ta tin tưởng mạnh mẽ rằng với nỗ lực của bân thân và sự hỗ 
trợ, ủng hộ nhiệt tình của các thành viên WTO, Việt Nam sẽ tiếp tục là một thành viên tin cậy và 
trách nhiệm của WTO, đóng góp tích cực vào việc xây dựng một hệ thống thương mại đa 
phương công bằng, bình đẳng và cùng có lợi.(Báo Điện tử ĐCSVN) 
*** Một số nhận định về việc gia nhập WTO của Việt Nam*** 
Ông Thomas Tobin - Chủ tịch và CEO HSBC Việt Nam: “Xứng đáng là “con hổ 
mới” của châu Á” 
Việt Nam đang có được niềm tin tốt nhất từ các nhà đầu tư nước ngoài với triển vọng đầu 
tư rất cao. Thời gian qua, chúng ta đã nhìn thấy nhiều thay đổi lớn trong chính sách của Chính 
phủ, kết quả của quá trình tự do hóa thị trường ở Việt Nam. Chúng tôi trông đợi năm 2008 và 
những năm kế tiếp sẽ là một năm bùng nổ cho ngành tài chính ngân hàng với những cải cách 
không ngừng của Chính phủ. 
Song song với những triển vọng tốt đẹp đối với Việt Nam nói chung và khu vực ngân 
hàng tài chính nói riêng, vẫn còn không ít những thách thức mà một trong số đó là sự khan hiếm 
nguồn nhân lực có chuyên môn cao. Cơ sở hạ tầng vẫn còn là một trở ngại không nhỏ khi hệ 
thống đường sá, cảng biển, cơ sở vật chất và các dự án xây dựng đang chịu một áp lực không 
nhỏ để theo kịp đà phát triển nhanh chóng cũng như tăng trưởng kinh tế cao trong giai đoạn sắp 
tới. 
Ông Henry Birr - Phó Chủ tịch Tập đoàn Metro: “Nhấn mạnh vai trò của một quốc 
gia thương mại” 
Việc gia nhập WTO đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của Việt Nam như một quốc gia 
thương mại. Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã chứng minh được chính sách kinh tế 
vững mạnh và đáng tin cậy. Metro hoàn toàn tin tưởng đường lối này sẽ được tiếp tục và sẽ tạo 
nền tảng vững chắc cho đầu tư và cho thành công trong tương lai. (Thương mại) 
 B. NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WORLD BANK) 
I. Giới thiệu: 
1. Tổng quan: 
World Bank Group, thường được gọi tắt là Ngân hàng Thế giới và được viết tắt là WB là 
một tổ chức tài chính đa phương có mục đích trung tâm là thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội ở 
các nước đang phát triển bằng cách nâng cao năng suất lao động ở các nước này. Nhóm Ngân 
hàng Thế giới bao gồm năm tổ chức tài chính thành viên, đó là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và 
Phát triển, Hội Phát triển Quốc tế, Công ty Tài chính Quốc tế, Trung tâm Quốc tế Giải quyết 
Mâu thuẫn Đầu tư, và Cơ quan Đảm bảo Đa phương. 
 Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (IBRD: International Bank for Reconstruction 
and Development): được chính thức thành lập ngày 27/12/1945 với trách nhiệm chính là cấp tài 
chính cho các nước Tây Âu để họ tái thiết kinh tế sau Chiến tranh thế giới II và sau này là cho 
phát triển kinh tế ở các nước nghèo. Sau khi các nước này khôi phục được nền kinh tế, IBRD 
cấp tài chính cho các nước đang phát triển không nghèo. 
 Hội Phát triển Quốc tế (IDA: International Development Association): được thành lập 
năm 1960 chuyên cấp tài chính cho các nước nghèo. 
 Công ty Tài chính Quốc tế (IFC : International Financial Corporation): thành lập năm 
1956 chuyên thúc đẩy đầu tư tư nhân ở các nước nghèo. 
 Trung tâm Quốc tế Giải quyết Mâu thuẫn Đầu tư (ICSID: International Centre for 
Settlement of Investment Disputes): thành lập năm 1966 như một diễn đàn phân xử hoặc trung 
gian hòa giải các mâu thuẫn giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước nhận đầu tư. 
 Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa phương (MIGA: Multilateral Investment Guarantee 
Agency): thành lập năm 1988 nhằm thúc đẩy FDI vào các nước đang phát triển. 
2. Mục tiêu hoạt động của WB 
- Tăng trưởng kinh tế và X óa đói giảm nghèo của quốc gia thành viên 
- Hỗ trợ sự phát triển và nâng cao mức sống của người dân tại các quốc gia thành viên. 
II. Chức năng của WB: 
Chức năng của WB được phân công cho các tổ chức thành viên thực hiện. 
1. IBRD và IDA: 
IBRD và IDA đi vay (phát hành trái phiếu) và cho các nước thành viên vay lại (hiện WB 
có 184 nước thành viên). Không phải nước thành viên nào cũng được vay WB. Cá nhân và công 
ty không được WB cho vay. Chính phủ của những nước đang phát triển nhưng có thu nhập quốc 
dân trên đầu người trên 1305 USD/năm được vay của IBRD. Các khoản vay này có lãi suất chỉ 
cao hơn lãi suất mà WB đã đi vay một chút. Chính phủ của các nước nghèo, có thu nhập quốc 
dân trên đầu người dưới 1305 USD/năm (trong thực tế là dưới 805USD/năm) được vay của 
IDA. Các khoản vay sẽ không đòi lãi suất và có thời hạn lên tới 35-40 năm. 
Trong hai thập kỳ đầu kể từ khi được thành lập, IBRD đã dành hơn 2/3 tổng giá trị các 
khoản cho vay của mình cho các dự án phát triển năng lượng và giao thông vận tải. 
Trong hai thập niên 1960 và 1970, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng vẫn quan trọng nhất, 
song hoạt động của IBRD và IDA đã rất đa dạng, từ hỗ trợ giáo dục, y tế, dinh dưỡng, kế hoạch 
hóa gia đình, đến hỗ trợ phát triển nông thôn và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ. Các hoạt động của 
IBRD và IDA đều trực tiếp liên quan đến giúp đỡ người nghèo và mang hình thức hỗ trợ tài 
chính lẫn kỹ thuật. 
Từ thập niên 1980, ngoài đầu tư vào vốn vật chất và vốn con người, IBRD và IDA bắt 
đầu cho vay để cải cách cơ cấu kinh tế và điều chỉnh chính sách ở các nước đang phát triển. 
Phản ứng nhạy bén và chú trọng xóa nghèo là các mục tiêu hiện nay của IBRD và IDA. 
2. IFC: 
IFC cho các dự án tư nhân ở các nước đang phát triển vay theo giá thị trường nhưng là 
vay dài hạn hoặc cấp vốn cho họ. Sự tham gia của IFC như một sự bảo đảm đối với các nhà đầu 
tư khác quan tâm tới dự án và khuyến khích họ đầu tư vào dự án. Nhiệm vụ của IFC là thúc đẩy 
đầu tư vào khu vực tư nhân tại các nước đang phát triển nhằm xoá đói giảm nghèo và cải thiện 
đời sống nhân dân. IFC cấp vốn cho các dự án đầu tư bằng tiền của mình và qua huy động vốn 
trên thị trường tài chính quốc tế. IFC cũng cung cấp trợ giúp kỹ thuật và tư vấn cho chính phủ và 
doanh nghiệp. 
 IFC là tổ chức đa phương cung cấp vốn cổ phần và vốn vay lớn nhất cho các doanh 
nghiệp tư nhân tại các nước đang phát triển. Nguồn vốn của IFC là dài hạn và theo điều kiện thị 
trường. 
 Vốn điều lệ của IFC do 175 nước thành viên cung cấp, và họ cùng quyết định chính sách 
và phê duyệt các khoản đầu tư của IFC. 
 Trong năm 2001 IFC phê duyệt 240 dự án, cung cấp 3.7 tỷ USD vốn của IFC và 1.6 t ỷ 
USD từ các ngân hàng tư nhân qua các chương trình cho vay hợp vốn. 
 IFC chia sẻ rủi ro dự án cùng với chủ đầu tư và các đối tác tài chính khác nhưng không 
tham gia vào việc quản lý dự án. 
 IFC chỉ cấp vốn cho một phần tổng chi phí dự án. Cứ 1 USD vốn của IFC, các nhà đầu tư 
và cho vay khác cung cấp 5 USD. 
 Điều lệ của IFC yêu cầu công ty hoạt động có lãi và công ty luôn có lãi kể từ khi ra đời. 
 IFC không chấp nhận bảo lãnh của chính phủ. 
 IFC có khoảng 2000 nhân viên làm việc tại Washington D.C. và trên 70 văn phòng đại 
diện. 
Sự tham gia của IFC và các dự án giúp đảm bảo và cân bằng như cầu của các bên trong 
một giao dịch: Nhà đầu tư nước ngoài, đối tác trong nước, các tổ chức tín dụng khác và chính 
quyền. 
3.MIGA: 
MIGA cung cấp những bảo đảm trước các rủi ro chính trị (rủi ro phi thương mại) để các 
nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển. 
Cùng vói các liên minh thành lập giữa các năm 1956 và 1988, IBRD là một phần của 
nhóm Ngân hàng thế giới. Trụ sở đặt tại Washington, D.C. Nó là một tổ chức quốc tế do các 
chính phủ thành viên nắm giữ. Mặc dù nó đem lại lợi nhuận nhưng lợi nhuận của nó được tái sử 
dụng để góp phần vào nỗ lực xóa đói giảm nghèo. 
Về mặt kỹ thuật mà nói thì WB là một phần của hệ thống Liên Hợp Quốc, nhưng cơ cấu 
về nước thành viên thì lại khác, mỗi chi nhánh của Nhóm ngân hàng thế giới nằm dưới sự quản 
lý của chính phủ đó được đại diện bởi phần góp vốn và tỷ lệ phiếu bầu tương ứng. Thành viên có 
quyền bỏ phiếu như các quốc gia khác nhưng có thể có thêm số phiếu tùy thuộc vào đóng góp 
tài chính vào tổ chức 
Kết quả là, Ngân hàng thế giới được hoạt động chủ yếu bởi các quốc gia phát triển, trong 
khi khách hàng hầu hết là các quốc gia đang phát triển. Một vài ý kiến ghi nhận rằng cơ cấu 
chính phủ ấy đã làm lợi phần lớn cho các quốc gia phát triển. Ví dụ vào 1/11/2006 M ỹ giữ 
16,4% tổng số phiếu; Nhật:7,9%; Đức:4,5% và Anh, Pháp mỗi bên giữ 4,3%. Và kết quả chỉ 
được thông qua khi đạt được 85% trên tổng số phiếu. 
Như thế chứng tỏ M ỹ có thể khống chế được hầu hết chính sách hay thay đổi của WB. 
III. Vị thế của Việt nam tại WB 
1. Vị thế: 
- Gia nhập WB: Ngày 18/8/1956, chính quyền Sài gòn Nam Việt Nam gia nhập WB. Ngày 
21/9/1976, nước CHXHCN Việt Nam tiếp quản tư cách hội viên tại WB của Chính quyền Sài 
gòn cũ. 
- Cổ phần của Việt nam tại 
+ IBRD là 968 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 1218, chiếm 0,08% 
+ IDA là 14.778 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 19.203, chiếm 0,14% 
+ IFC là 446 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 696, chiếm 0,03% 
+ M IGA là 388 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 565, chiếm 0,29% 
2. Các hoạt động của WB tại Việt Nam 
2.1. Quan hệ VN - WB giai đoạn 1978-1993 
- Năm 1978, WB đã cho Việt Nam vay một khoản tín dụng trị giá 60 triệu USD để thực hiện dự 
án Thuỷ lợi Dầu tiếng. Tháng 1/1985, IMF và WB đình chỉ quyền vay vốn của Việt nam do 
Việt nam mắc nợ quá hạn. 
2.2. Quan hệ VN-WB giai đoạn 93 đến nay 
Sau một thời gian bị gián đoạn, đến tháng 10/1993, với nỗ lực to lớn và quyết tâm thực 
hiện cải cách của Chính phủ Việt Nam cùng với sự vận động dàn xếp tài chính thiện chí của các 
nhà tài trợ thuộc Câu lạc bộ Paris, quan hệ tín dụng giữa WB và Việt Nam đã chính thức được 
nối lại. 
Văn phòng Đại diện của WB tại Việt Nam: Ngày 14/09/1994, WB chính thức mở Văn 
phòng tại Hà nội. Từ năm 1993 đến nay, WB đã bổ nhiệm 03 cán bộ giữ chức vụ Giám đốc Văn 
phòng WB tại Việt nam: ông Bradley Babson (1993-1997), ông Andrew Steer (1997-2002) và 
hiện này Ajay Chhibber.. 
Trong số các tổ chức cho vay thuộc nhóm WB, hỗ trợ tài chính dưới hình thức cho vay ưu 
đãi và hỗ trợ kỹ thuật của IDA cho Việt nam chiếm vai trò chủ đạo trong mối quan hệ giữa Việt 
nam với nhóm WB (thời hạn vay 40 năm, phí dịch vụ 0,75%/năm, phí cam kết 0- 0,5%/năm, 
không lãi suất, 10 năm ân hạn). Ngoài ra, IFC cũng cho vay các dự án thuộc khu vực tư nhân của 
Việt Nam với lãi suất thị trường. M IGA đã ký kết một số hiệp định bảo lãnh cho các dự án đầu 
tư vào Việt nam. 
2.3. Tài trợ của WB dối với Việt nam 
Tính đến tháng 31/12/2003, WB đã cam kết tài trợ 41 dự án và chương trình cho Việt 
Nam với tổng số vốn cam kết đạt hơn 4,38 tỷ USD (kể cả dự án Thuỷ lợi Dầu tiếng vay vốn WB 
tháng 8/1978 và khoản bảo lãnh dự án điện BOT Phú Mỹ 2-2). Tổng số vốn giải ngân tính đến 
tháng 31/12/2003 đạt hơn 2,18 tỷ USD, chiếm khoảng 50% tổng số vốn cam kết. Các dự án mà 
WB tài trợ cho Việt Nam tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực ưu tiên cao của Nhà nước như: 
nông nghiệp, thuỷ lợi, năng lượng, cơ sở hạ tầng đô thị và nông thôn, giao thông, y tế, giáo dục, 
tài chính ngân hàng. Các dự án này đã đóng góp tích cực và có hiệu quả vào việc nâng cấp cơ sở 
hạ tầng kinh tế, phát triển các dịch vụ xã hội, tăng cường thể chế và phát triển nguồn nhân lực, 
quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và xoá đói giảm nghèo. Hiện nay, Việt nam là nước vay 
IDA lớn nhất 
Ngoài việc cho vay các dự án và chương trình, WB cũng cung cấp các khoản Hỗ trợ Kỹ 
thuật (HTKT) cho Việt Nam, kể cả các khoản HTKT uỷ thác của các nước. Tổng số HTKT của 
WB tính đến tháng 31/12/2003 là hơn 135 khoản với trị giá khoảng 322 triệu USD; trong đó bao 
gồm 19 khoản đồng tài trợ trị giá 210,6 triệu USD. 
2.4. Các hoạt động khác của WB tại Việt nam 
 Được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Trung tâm Thông tin Phát triển Việt nam 
(VDIC) trực thuộc Văn phòng WB tại Hà nội đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 4/1/2001. 
Mục tiêu của Trung tâm này là mở rộng quan hệ hợp tác, tăng cường chất lượng hoạt động, nâng 
cao hiệu quả hỗ trợ của Nhóm WB cho Việt nam cũng như tăng cường sự hợp tác với các cơ 
quan hỗ trợ phát triển đang hoạt động tại Việt nam. Trung tâm này hỗ trợ Việt nam tiếp cận tri 
thức và thông tin phát triển mới nhất cũng như chia sẻ kinh nghiệm với các nước khác trên thế 
giới; đồng thời góp phần giúp cho thế giới bên ngoài hiểu rõ hơn về Việt nam. Trong thời gian 
hoạt động vừa qua, Trung tâm đã tổ chức một số khoá học liên quan tới các lĩnh vực ưu tiên 
phát triển. 
 Hiện nay, WB đang dự kiến việc mở thêm một Trung tâm Đào tạo Từ xa tại TP. Hồ Chí 
Minh và mở rộng mạng kết nối đào tạo phát triển toàn cầu (GDLN) . 
3. Chiến lược hỗ trợ của WB tại Việt Nam 
Chiến lược hỗ trợ quốc gia của Ngân hàng Thế giới là “kế hoạch kinh doanh” được trực 
tiếp thông tin cũng như hướng dẫn của Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện của 
Chính phủ Việt Nam (CPRGS), chiến lược này đặt mục tiêu giảm nghèo và tăng trưởng ở trung 
tâm của các chiến lược phát triển của Chính phủ. 
Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện được Thủ tướng chính phủ thông qua 
tháng 5 năm 2002, được xây dựng trên cơ sở tham vấn rộng rãi với các bộ, ngành, các nhà tài trợ 
và các cộng đồng trong xã hội, đóng vai trò là một kế hoạch hành động cho Chính phủ và thông 
qua Chiến lược hỗ trợ quốc gia mới cho Việt Nam, là khuôn khổ cho chương trình hỗ trợ của 
Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam trong tương lai. Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn 
diện đặt ra ba mục tiêu lớn và ba mục tiêu này lại được coi là các nguyên tắc tổ chức chính của 
Chiến lược hỗ trợ quốc gia của Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam. 
Mục tiêu thứ nhất là hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, sẽ vẫn tiếp 
tục là mục tiêu trung tâm của các hoạt động của Ngân hàng Thế giới, với sự chuyển hướng từ 
“thiết kế” sang hỗ trợ Chính phủ “thực hiện” chương trình cải cách chính sách. 
Các chương trình kế hoạch được thiết kế trong Chiến lược hỗ trợ quốc gia tập trung vào 
phát triển ngành tài chính; cải cách các doanh nghiệp nhà nước; hỗ trợ cho khu vực kinh tế tư 
nhân đang nổi lên; quản trị doanh nghiệp và sự tham gia của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng. 
Công ty tài chính quốc tế IFC, Chương trình Phát triển Dự án Mê kông MPDF và Tổ chức bảo 
lãnh đầu tư đa phương M IGA sẽ mở rộng chương trình hoạt động để cải thiện môi trường đầu tư 
trong nước cũng như nước ngoài. 
Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện đưa ra một chương trình 6 bước nêu bật 
các thách thức trong tương lai để đạt được mục tiêu lớn thứ hai của chiến lược này là củng cố 
phát triển công bằng, hội nhập và bền vững. Mục tiêu này được Ngân hàng Thế giới hỗ trợ tích 
cực thông qua toàn bộ giai đoạn thực hiện của Chiến lược hỗ trợ quốc gia CAS. Các ưu tiên 
chính được đưa ra ở mục tiêu này gồm phối hợp với Chính phủ thu hẹp các khoảng cách phát 
triển của các vùng khó khăn và tụt hậu; nâng cao mức sống của các cộng đồng dân tộc thiểu số; 
nhận thức rõ công bằng giới và tiến bộ của phụ nữ; người nghèo có thể tiếp cận và trả tiền được 
các dịch vụ xã hội cơ bản; giảm nhẹ ảnh hưởng của thiên tai và các chấn động khác; và củng cố 
phát triển môi trường bền vũng. Những vấn đề này được nhấn mạnh trong toàn bộ chương trình 
hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới. 
Nằm trong khuôn khổ mục tiêu lớn thứ ba thúc đẩy quản trị tốt, Ngân hàng Thế giới sẽ 
tập trung hỗ trợ giúp Chính phủ cải thiện quản lý tài chính công, thông tin và tính minh bạch và 
cũng củng cố phát triển luật pháp. Các hỗ trợ kỹ thuật chủ yếu sẽ được cung cấp cho từng lĩnh 
vực và các dự án sẽ được xây dựng là Quản lý tài chính công, Chính phủ điện tử và có thể cả 
phát triển luật pháp. Chiến lược hỗ trợ quốc gia cũng nêu rõ quan hệ đối tác là chìa khoá để đạt 
được tiến bộ trong lĩnh vực quản trị. Nhóm Ngân hàng Thế giới sẽ tiếp tục cố gắng hỗ trợ Việt 
Nam giải quyết nạn tham nhũng, trực tiếp qua chương trình hỗ trợ của Ngân hàng và thông qua 
việc hỗ trợ Chính phủ giải quyết vấn đề này một cách có hệ thống. 
Để hỗ trợ ba mục tiêu chính yếu này, Chiến lược hỗ trợ quốc gia đưa ra một chương trình 
hỗ trợ theo kế hoạch trong ba năm tới bao gồm các hoạt động nghiên cứu và tư vấn, dự án hỗ trợ 
thông qua chương trình cho vay của Ngân hàng Thế giới và các hoạt động hỗ trợ của Công ty tài 
chính quốc tế IFC, Chương trình Phát triển Dự án Mê kông M PDF và Tổ chức bảo lãnh đầu tư 
đa phương MIGA để hỗ trợ khu vực tư nhân và đầu tư, và một loạt các tín dụng giảm nghèo 
hàng năm (PRSCs) hỗ trợ giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam, quan hệ đối tác và điều phối 
chương trình ODA. 
Trong từng lĩnh vực mà Ngân hàng Thế giới đặt kế hoạch hỗ trợ đều đã được Chính phủ 
và các nhà tài trợ nhất trí nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn ODA được hiệu quả cao nhất. Chiến 
lược hỗ trợ quốc gia đưa ra các chương trình cho vay dự kiến từ 300 đến 760 triệu đô la M ỹ mỗi 
năm, trực tiếp hỗ trợ các mục tiêu giảm nghèo của Việt Nam được đặt ra trong Chiến lược tăng 
trưởng và giảm nghèo toàn diện (CPRGS), tập trung cho bốn ngành chính: phát triển nông thôn; 
phát triển đô thị; cơ sở hạ tầng và phát triển con người. 
4. Đánh giá chung 
Về quan hệ VN - WB: Kể từ khi nối lại quan hệ với tín dụng với Việt Nam đến nay, WB 
đã có những đóng góp và hỗ trợ tích cực vào công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế, đặc biệt là 
công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt nam. Quan hệ giữa Việt Nam và WB ngày càng được củng 
cố và phát triển. Điều này được thể hiện thông qua các chuyến thăm và làm việc chính thức tại 
Việt Nam của Chủ tịch WB - Ngài James D. Wolfensohn năm 1996 và 2000 và các chuyến thăm 
của các Tổng Giám đốc, các Phó Chủ tịch. Phía WB đã đánh giá cao những kết quả đạt được và 
nỗ lực to lớn của Chính phủ Việt Nam trong công cuộc cải cách kinh tế, xoá đói giảm nghèo và 
thực hiện công bằng xã hội 
Quan hệ với IFC: Kể từ năm 1993, IFC đã thông qua 30 dự án với tổng số vốn đầu tư là 
605 triệu USD dưới hình thức tài trợ trực tiếp và hợp vốn, hỗ trợ cho các dự án có tổng số vốn 
đầu tư khoảng 1,6 tỷ USD. Hoạt động của IFC chủ yếu đầu tư vào khu vực ngoài quốc doanh 
của nền kinh tế như sản xuất xi măng, thép, khách sạn, may mặc, chế biến nông sản... Ngoài ra, 
IFC còn thành lập Chương trình Phát triển Dự án Mê kông (MPDF). Trong thời gian vừa qua, 
MPDF đã hỗ trợ tiếp cận tài chính cho 72 dự án của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SM E) trị giá 
50 triệu USD và thực hiện 15 khoản HTKT. M PDF đã tích cực giúp đánh giá môi trường kinh 
doanh cho các doanh nghiệp tư nhân ở Việt nam, trong lĩnh vực đào tạo cho các ngân hàng và 
các nhà quản lý trong nước, và xây dựng năng lực cho tư vấn trong nước 
Quan hệ với MIGA: với mục tiêu hoạt động của mình, MIGA đã phát hành 7 Hiệp định 
bảo lãnh ở Việt nam với tổng trị giá 451 triệu USD trong lĩnh vực xây dựng khách sạn, chế biến 
xuất khẩu cà phê, xây dựng nhà máy sản xuất kính và dự án điện BOT Phú M ỹ 3. 
IV. Vai trò của WB đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam và xu hướng ODA của WB 
cho Việt Nam. 
 Kể từ khi nối lại quan hệ tín dụng với WB vào 10/1993, WB cung cấp 3 loại dịch vụ chủ 
yếu là: (1) thiết kế và tài trợ cho các dự án phát triển; (2) hỗ trợ kỹ thuật (TA), tư vấn về chính 
sách và các báo cáo phân tích; và (3) điều phối viện trợ 
(1) Tài trợ của WB cho Việt nam thường tập trung vào các dự án trong các lĩnh vực phát 
triển cơ sở hạ tầng, phát triển thể chế và nguồn nhân lực ... nay hướng trọng tâm vào xoá đói 
giảm nghèo, các khoản vay chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và các khoản vay chương 
trình theo ngành trong thời gian tới. Điều này cho thấy Việt nam đã dần dần nâng cao năng lực 
tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian qua 
 Chương trình Tín dụng Điều chỉnh Cơ cấu (SAC I) và Chương trình Tín dụng Hỗ trợ 
Giảm nghèo (PRSC) I và II tập trung vào 5 lĩnh vực cải cách trọng tâm của nền kinh tế bao gồm 
: (i) cải cách ngân hàng; (ii) cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước; (iii) cải cách chi tiêu 
công; (iv) tự do hoá thương mại; và (v) phát triển khu vực tư nhân. Ngoài ra, chương trình PRSC 
II còn được mở rộng sang một số lĩnh vực khác như giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường. Việt nam 
sẽ chuẩn bị tiếp nhận các PRSC trong những năm tiếp theo. 
(2) HTKT và tư vấn về chính sách và các báo cáo phân tích 
Các HTKT của WB tập trung vào các lĩnh vực như: hỗ trợ chuẩn bị các dự án do WB tài 
trợ tín dụng, phát triển thể chế nhằm xây dựng và nâng cao năng lực quản lý điều hành của một 
số ngành và cơ quan liên quan đến dự án, xây dựng và phát triển chính sách nhằm nâng cao 
khuôn khổ chính sách, pháp lý cho các dự án hạ tầng cơ sở thuộc ngành điện, vệ sinh môi 
trường, cấp thoát nước, tài chính, ngân hàng v.v. và đã phát huy được hiệu quả trong quá trình 
thực hiện 
Ngoài ra, hàng năm WB còn cử các đoàn vào Việt nam phối hợp với các bộ ngành soạn 
thảo và phát hành các báo cáo kinh tế, báo cáo ngành, xây dựng Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia 
(CAS) cho Việt Nam 
(3) Điều phối viện trợ: hàng năm Hội nghị tư vấn giữa các nhà tài cho Việt nam (CG) - 
do WB làm đồng chủ tọa - được tổ chức nhằm vận động các nhà tài trợ cung cấp hỗ trợ tài chính, 
kỹ thuật và điều phối viện trợ giữa các nhà tài trợ . Nhờ đó, vốn viện trợ được sử dụng hiệu quả 
hơn phục vụ cho công cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam. WB đã tái khẳng định cam kết tiếp 
tục hỗ trợ Việt nam theo Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia (CAS) cho Việt nam trong thời kỳ 2 năm 
tới, từ 2004 - 2006. 
Tóm lại, các hỗ trợ dưới hình thức cho vay ưu đãi, hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn của IDA cho 
Việt nam chiếm vai trò chủ đạo trong mối quan hệ giữa Việt nam với nhóm WB. Đặc biệt, bên 
cạnh hỗ trợ về tài chính, Chính phủ Việt nam đánh giá cao vai trò tư vấn về chính sách để thực 
hiện thành công Chương trình Tín dụng Điều chỉnh Cơ cấu (SAC I) và các Chương trình Tín 
dụng Hỗ trợ Giảm nghèo (PRSC ) I và II. Với vai trò đồng chủ tọa Hội nghị CG hàng năm, WB 
đã làm tốt vai trò điều phối và kêu gọi tài trợ trực tiếp để hỗ trợ Việt nam phát triển kinh tế, qua 
đó tăng uy tín của Việt nam trong cộng đồng tài chính quốc tế, góp phần thu hút đầu tư trực tiếp 
nước ngoài vào Việt nam. Điều này thể hiện qua việc đồng tổ chức thành công Hội nghị CG năm 
2003 với mức cam kết 2,8 tỷ USD cho Việt nam trong năm 2004. 
V. Các Tổ chức thành viên của WB tại Việt Nam 
1. IFC tại Việt Nam 
Từ năm 1994, cho đến tháng 10 năm 2001, IFC đã cam kết cấp vốn cho 15 dự án tại Việt 
Nam. 
Đối với các dự án này IFC đã cung cấp 383 triệu USD trong đó 180 triệu USD do bản 
thân IFC và 203 triệu USD cho các ngân hàng tham gia. 
 IFC hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân tại Việt Nam qua đầu tư và tư vấn. Ưu tiên 
chiến lược của IFC tại Viêt Nam là tiếp tục tập trung vào: 
 Xây dựng tổ chức và thị trường tài chính trong nước. 
 Phát triển cơ sở hạ tầng qua tư nhân hoá và đầu tư. 
 Cải cách Doanh nghiệp nhà nước. 
 Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). 
 Cải thiện môi trường đầu tư. 
Ngoài ra, IFC quản lý Chưong Trình Phát Triển Dự Án Mekong (MPDF), một hoạt động 
do nhiều tổ chức tài trợ nhằm đẩy mạnh việc thành lập và phát triển của các SMEs tại Việt Nam, 
Lào, Cambodia. 
Từ khi thành lập vào năm 1997, MPDF đã cung cấp hỗ trợ cho 80 công ty và thu xếp tài 
chính trị giá khoảng 40 triệu USD. 
IFC, cùng với Ngân Hàng Thế Giới, hiện đang tích cực đẩy mạnh Diễn Đàn Doanh 
Nghiệp. Mục tiêu của diễn đàn nhằm cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam và tổ chức 2 
lần một năm hội nghị giữa các nhà hoạch định chính sách, đại diện doanh nghiệp và các nhà tài 
trợ. 
Các Dự án IFC tại Việt Nam 
Tài Chính: vào năm tài chính 1997 IFC giúp thành lập Công ty Cho Thuê Quốc Tế Việt Nam 
(Vietnam International Leasing Company Limited (VILC), công ty thuê tài chính đầu tiên tại 
Việt Nam). 
VILC đóng vai trò là quan trọng trong, cung cấp nguồn tài chính trung hạn cho các SM Es 
tại Việt Nam. Từ khi thành lập, VILC đã cung cấp 35 triệu USD vốn thuê mua tài chính cho gần 
250 công ty. Nguồn vốn của công ty đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước mua sắm 
nhiều tài sản cố định bao gồm máy móc, thiết bị văn phòng và cho nhà máy. 
VILC phát triển từ chương trình hỗ trợ của IFC vào năm 1991: IFC tư vấn cho chính phủ 
Việt Nam về thuê mua và xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp cho việc cấp phép, quản lý và 
thực hiện hoạt động cho thuê tài chính. 
Doanh nghiệp vừa và nhỏ: IFC cung cấp khoản vay trị giá 300,000 USD cho công ty Vinh Phat 
(Vinh Phat), một cơ sở sản xuất và xuất khẩu sản phẩm may mặc trong nước. Khoản đầu tư này 
tạo điều kiện cho Vĩnh Phát mở rộng sản xuất và trang thiết bị và mua dây chuyền thiết bị mới. 
Dự án giúp công ty tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm. 
Giáo dục: Vào năm tài chính 2001 IFC phê duyệt khoản vay trị giá 7.25 triệu USD để thành lập 
Trường Đại Học Tổng Hợp RMIT (RM IT). Đóng tại Thành Phố Hồ Chính Minh, RMIT là 
trường đại học nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam. Do thiếu trường đại học và trung cấp, chỉ có 1 
trong 6 sinh viên có thể vào học tại các trường đại học tại Việt Nam. 
Dự án sẽ tạo điều kiện hàng nghìn học sinh có thể có được giáo dục đại học hiện đại chất 
lượng cao mà không phải đi ra nước ngoài. Trường đại học sẽ cung cấp các chương trình đào tạo 
có bằng, dạy ngoại ngữ và đào tạo chuyên môn xây dựng theo nhu cầu thị trường. 
2. Tổ chức bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA) tại Việt Nam 
Tổ chức bảo

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_cac_to_chuc_tai_chinh_wto_wb_imf.pdf