Tiểu luận Chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Bình Phước

docx 55 trang yenvu 24/10/2024 280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Bình Phước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Bình Phước

Tiểu luận Chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Bình Phước
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA KINH TẾ
---
TIỂU LUẬN
CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TỈNH BÌNH PHƯỚC
MÔN HỌC: KINH TẾ PHÁT TRIỂN
GVHD: PGS. TS Nguyễn Chí Hải
LỚP: K11401T	NHÓM: 1
THÀNH VIÊN:
Nguyễn Ngọc Chân	K114010006
Nguyễn Thị Hồng Ngọc	K114030409
TP. HCM THÁNG 4/2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, khi mà nền kinh tế có những khởi sắc nhất định, bên cạnh việc quan tâm đến tăng trưởng kinh tế ở mặt tăng lên về số lượng thu nhập tăng thêm thì người ta bắt đầu quan tâm đến mặt chất lượng của những con số này, nói cách khác là người ta quan tâm nhiều hơn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Có nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng tăng trưởng kinh tế. Nhưng nhìn chung tất cả đều hướng tới phản ánh nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, duy trì trong một thời gian dài, gắn với quá trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phúc lợi xã hội được cải thiện, giảm số người nghèo đói. 
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế cũng tồn tại mặt trái của nó, chúng ta đã biết nhiều đến tình trạng khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu nghèo, văn hóa – xã hội không theo kịp phát triển kinh tế Đó là lý do vì sao các quốc gia, các địa phương thường hay chú trọng đến vấn đề chất lượng tăng trưởng kinh tế trong các kế hoạch phát triển của mình.
Bình Phước là một tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, diện tích khoảng 6871, 5 km2, có 260,4 km đường biên giới giáp với vương quốc Campuchia. Tỉnh là cửa ngõ, cầu nối của vùng Đông Nam bộ với Tây Nguyên và Campuchia. Thế mạnh của tỉnh là cây công nghiệp (điều, hồ tiêu, cà phê, cao su,), ngoài ra, tỉnh còn là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp trọng điểm. Trong những năm gần đây kinh tế Bình Phước nằm trong nhóm 10 tỉnh có tăng trưởng cao nhất cả nước. Năm 2013, kinh tế Bình Phước tiếp tục duy trì được tăng trưởng tương đối cao. GDP của địa phương ước tính tăng 9,59%; thu nhập bình quân đầu người/năm đạt trên 41,6 triệu đồng, tăng khoảng 9,4% so với năm 2012... Theo thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết quả mà Bình Phước đạt được trong thời gian qua là khá toàn diện. 
Với vị thế là một vùng đất hứa cho phát triển kinh tế xã hội trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong tương lai, Binh Phước đang đứng trước thời cơ tăng trưởng rất lớn nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức không hề nhỏ của tăng trưởng bền vững. Thêm vào đó, vấn đề chất lượng tăng trưởng kinh tế hiện nay đang thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học kinh tế. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, sách báo, bài viết tiếp cận vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau, từ tổng quan tình hình cho đến từng chỉ tiêu, từ trên quy mô tổng thể quốc gia đến cụ thể từng địa phương. Tuy nhiên, qua nghiên cứu tổng quan vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu về chất lượng tăng trưởng kinh tế ở một tỉnh giàu tiềm năng như Bình Phước. Vì thế, nghiên cứu về “Chất lượng tăng trưởng kinh tế của tỉnh Bình Phước” trong thời điểm này để kịp thời đưa ra các giải pháp, hướng đi đúng đắn cho sự phát triển của địa phương là một vấn đề vô cùng cấp thiết.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Về chất lượng tăng trưởng kinh tế nói chung thời gian qua trên thế giới và ở cả Việt Nam cũng đã có nhiều đề tài, nhiều nhà khoa học kinh tế đề cập tới vấn đề này.
Trên thế giới, một số nhà kinh tế học như   G. Beckeer, R.Lucas, J.Stiglitz, từ những nghiên cứu của mình đã đưa ra những quan điểm về tăng trưởng kinh tế, cũng như chất lượng tăng trưởng kinh tế. Từ những quan điểm đó đã mở rộng ra và hình thành nên khái niệm tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng như bộ các tiêu chuẩn của chúng.
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều các đề tài về chất lượng tăng trưởng kinh tế, không chỉ xét trên quy mô quốc gia mà còn có cả các đề tài đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế ở một địa phương cụ thể.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế trên quy mô quốc gia có thể thấy nổi trội lên là các đề tài như:
“Một số quan niệm về chất lượng tăng trưởng kinh tế” của Thịnh Văn Khoa, bài viết đã nêu ra một số quan niệm thường gặp về chất lượng tăng trưởng kinh tế và phân tích từng quan điểm trong từng trường hợp nhất định.
	GS. TS Đỗ Đức Bình, “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam dưới góc độ hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: hiện trạng và một số giải pháp”. Công trình đã đánh giá chất lượng kinh tế Việt Nam dưới góc độ hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể.
	GS,TS, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Vũ Văn Hiền, bài viết “Phát triển bền vững ở Việt Nam”, mục Nghiên cứu – trao đổi, tạp chí Cộng Sản. Bài viết đưa ra cái nhìn tổng quan vể phát triển bền vững, từ đó liên hệ thực trạng ở Việt Nam, đặt ra những vấn đề nổi bật và hướng đi đột phá để giải quyết.
	PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, “Nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên”. Công trình nghiên cứu vai trò quan trọng của việc khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên đối với chất lượng tăng trưởng kinh tế và đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế gắn với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
	Về cụ thể ở các địa phương, có các công trình như:
	Nguyễn Văn Đoàn, “Giải quyết vấn đề xã hội trong tăng trưởng kinh tế ở Vĩnh Phúc”. Đề tài nghiên cứu chất lượng tăng trưởng kinh tế ở khía cạnh giải quyết các vấn đề xã hội. Bên cạnh đó tác giả còn đưa ra hướng đi cho tỉnh Vĩnh Phúc trong giải quyết các vấn đề xã hội nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
	Phạm Văn Binh, “Các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Gia Lai”. Từ thực trạng ở tỉnh Gia Lai, đề tài tập trung đưa ra những giải pháp đồng bộ từ thể chế đến mối trường nhầm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Gia Lai.
TS Đỗ Phú Trần Tình, “Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở thành phố Hồ Chí Minh trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Đề tài phân tích sâu thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế ở thành phố Hồ Chí Minh trên nhiều mặt, từ đó đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế trên địa bàn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
	Mục đích của tiểu luận là làm rõ cơ sở lý thuyết và thực trạng về chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Bình Phước trong thời gian qua. Từ đó, đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Bình Phước trong thời gian sắp tới.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bài tiểu luận nhỏ chưa thể nào khai thác hết được các khia cạnh của chất lượng tăng trưởng kinh tế. Dựa vào phương pháp luận và những nghiên cứu trước đây bài tiểu luận chỉ dừng lại ở 3 mục tiêu chính sau đây:
Trình bày cơ sở lý thuyết về tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng kinh tế để làm cơ sở cho việc phân tích đánh giá cho trường hợp ở tỉnh Bình Phước.
Từ tình hình và số liệu thực tế phân tích các yếu tố và khía cạnh để có những đánh giá về chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Bình Phước..
Trên cơ sở phân tích, kết hợp với việc tham khảo kinh nghiệm của các địa phương, các quốc gia trên thế giới, sẽ đề xuất một vài kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở tỉnh Bình Phước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
	Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng tăng trưởng kinh tế ở tỉnh Bình Phước. Tập trung chủ yếu vào các chỉ tiêu tăng trưởng thực tế của tỉnh để có thể phân tích, đánh giá.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: đề tài nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
- Về thời gian: 
5. Phương pháp nghiên cứu
	Nhóm nghiên cứu sử dụng kết hợp các phương pháp như: thống kê mô tả, phân tích, so sánh, đánh giá, mô hình hóanhằm bổ sung cho nhau, giúp nghiên cứu sâu và đưa ra kết quả đáng tin cậy.
	Ngoài ra, nhóm còn sử dụng phương pháp thu thập tài liệu bằng cách kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đó; tổng hợp các nguồn số liệu thông qua các báo cáo, tổng kết của các sở, ban,ngành trong tỉnh; lấy thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng: báo chí, internet
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
	Trước hết đề tài tổng kết và làm rõ được các khía cạnh của chất lượng tăng trưởng kinh tế về mặt phương pháp luận.
	Về thực tiễn, từ tình hình thực tế, đề tài cơ bản đánh giá được tình hình chất lượng tăng trưởng kinh tế của địa phương; từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Bình Phước. Ngoài ra, đề tài cũng sẽ còn tồn tại nhiều khía cạnh chưa thể giải quyết được, đó là điểm yếu nhưng cũng vừa là gợi mở cho các đề tài tiếp theo.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, cấu trúc bài tiểu luận được chia làm 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng tăng trưởng kinh tế; Chương 2: Thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Bình Phước; Chương 3: Những kiến nghị nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Bình Phước.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.
Lý luận chung về chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế.
Trong những giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế người ta thường quan tâm nhiều đến tăng trưởng kinh tế. Trên thực tế có nhiều các quan điểm khác nhau nhưng bổ sung cho nhau về khái niệm này và tổng quan nhât có thể nói: Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm hay là sự gia tăng về quy mô sản lượng trong nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Quy mô sản lượng của nền kinh tế được thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP) hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người. Nói vậy có nghĩa là tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm hay gia tăng của các chỉ tiêu nêu trên của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Nếu thể hiện sự tăng trưởng của nền kinh tế thông qua các chỉ số như GDP hoặc GNI thì chỉ là đơn thuần thể hiện việc mở rộng sản lượng quốc gia của một nước. Còn tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng các chỉ số bình quân đầu người có nghĩa là người ta muốn nói đến sự tăng trưởng mức sống của quốc gia đó. Ở cách thứ hai, người ta có thể so sánh giữa các quốc gia với nhau. 
Tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất để quốc gia giảm bớt trình trạng đói nghèo, khắc phục lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng. Nhờ vậy, mức sống của người dân sẽ được cải thiện, kéo theo phát triển kinh tế xã hội. Khi nền kinh tế có sự tăng trưởng sẽ giúp các quốc gia giải quyết được các vấn đề tồn đọng về thất nghiệp, cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế Hơn thế nữa, tăng trưởng kinh tế còn là tiền đề vật chất cho các quốc gia củng cố an ninh quốc phòng, củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã hội.
Các quan điểm về chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế còn có mặt trái của nó, sẽ là không nên nếu theo đuổi tăng trưởng bằng mọi giá. Thực tế cho thấy, tăng trưởng kinh tế “quá nóng” sẽ dẫn đến những bất ổn trong ổn định kinh tế vĩ mô, không những thế còn tác động đến môi trường, sử dụng không hiệu quả các nguồn lực của xã hội. Vì thế hiện nay ngoài việc quan tâm đến tăng trưởng kinh tế ở khía cạnh số lượng người ta còn quan tâm đến chất lượng của tăng trưởng kinh tế. Song, để làm rõ khái niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế không phải là vấn đề dễ dàng, bởi cho đến hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Có thể thấy quan niệm thường gặp nhất là chất lượng tăng trưởng kinh tế là phát triển bền vững. Theo khái niệm của Ủy ban quốc tế về Môi trường và Phát triển (WCED) “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu của thế hệ hiện tại, nhưng không trở ngại cho việc đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ mai sau". Hay rõ hơn, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bên vững tại Nam Phi năm 2002 đưa ra khái niệm "Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển, đó là phát triển bền vững về kinh tế, phát triển bền vững về xã hội và phát triển bền vững về môi trường". Theo quan điểm này thì chất lượng tăng trưởng kinh tế không chỉ hiểu là duy trì tốc độ tăng trưởng cao và lâu dài như nhiều người thường hiểu, mà rộng hơn chất lượng tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển bền vững theo nghĩa chú trọng đến cả ba thành tố: kinh tế, xã hội và môi trường.
Thứ hai là đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế theo quan niệm hiệu quả. Theo quan niệm này chất lượng tăng trưởng kinh tế được đánh giá theo nguồn gốc của tăng trưởng. Đối với tăng trưởng theo chiều rông, nguồn gốc của tăng trưởng là vốn, lao động và khai thác tài nguyên, đối với tăng trưởng theo chiều sâu, nguồn gốc của tăng trưởng lại là thể hiện ở tăng năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn sản xuất nâng cao với thước đo tổng hợp năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) tăng lên. Vậy chất lượng tăng trưởng kinh tế chính là việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển kinh tế nêu trên. Hiện nay quan điểm này chỉ phù họp để nghiên cứu đối với các quốc gia phát triển, khi mà người ta bắt đầu quan tâm đến tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Lúc đó đối với các quốc gia này yếu tố về chất lượng nhân lực, công nghệ có vai trò vượt trội so với các yếu tố truyền thống như tài nguyên thiên nhiên, vốn vật chất, lao động nhiều và rẻ. Điều đó cũng chỉ ra rằng, để tăng trưởng có hiệu quả kinh tế cao trong điều kiện hiện nay, cần đầu tư nâng cao chất lượng ngành giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, nghiên cứu và triển khai.
Quan niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là nâng cao phúc lợi của công dân và gắn liền tăng trưởng với công bằng xã hội. Theo quan điểm này người ta dùng khả năng đáp ứng phúc lợi cho nhân dân làm thước đo cho chất lượng tăng trưởng kinh tế. tăng trưởng tạo nên của cải cho xã hội và chất lượng của tăng trưởng gắn liền với việc sử dụng các của cải đó cho phúc lợi xã hội như thế nào. Cần phải nói thêm ở đây phúc lợi không chỉ thể hiện ở thu nhập bình quân đầu người mà còn là chất lượng cuộc sống, môi trường xã hội, môi trường tự nhiên, cơ hội học tập và chăm lo sức khỏe; công bằng xã hội thể hiện ở nhiều chỉ tiêu như hệ số Gini về giáo dục, thu nhập và tỷ lệ người nghèo trong xã hội. Có vẻ như quan điểm này được đề cao nhất.
Quan niệm chất lượng cơ cấu kinh tế là cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây là quan điểm xuất phát từ coi chất lượng sự vật là sự biến đổi cơ cấu bên trong của sự vật, không gắn chất lượng sự vật với mục đích tồn tại, bối cảnh, môi trường, điều kiện mà sự vật tồn tại hoặc các sự vật có mối liên hệ tác động mật thiết với nhau. Cơ cấu tăng trưởng thể hiện ở chỉ tiêu điểm phần trăm đóng góp của các ngành vào tăng trưởng và chỉ tiêu tỷ trọng đóng góp của mỗi bộ phận trong 100% mức tăng trưởng. Cơ cấu tăng trưởng còn có thể xét theo khu vực thể chế, thành phần kinh tế, vùng, miền và theo yếu tố sản xuất: vốn, lao động, yêú tố năng suất tổng hợp (TFP).
Ngoài các quan điểm được nêu trên, khái niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế còn được xem xét trên các khía cạnh: năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, thể chế dân chủ trong môi trường chính trị xã hội của nền kinh tế. Nhưng tạm thời những quan điểm nêu trên là những quan điệm trọng yếu nhất góp phần hoàn thiện khái niệm chất lượng kinh tế nói chung. Đối với từng điều kiện tăng trưởng, ở từng quốc gia khác nhau mà người ta xem xét tăng trưởng kinh tế theo quan niệm nào. Với khuôn khổ một bài tiểu luận và vchir xem xét trên quy mô một tỉnh như ở Bình Phước, nhóm nghiên cứu xin chỉ xem xét chất lượng tăng trưởng kinh tế theo phạm vi hẹp, nghĩa là chỉ xem xét qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đạt được mặt số lượng của tăng trưởng và khả năng duy trì nó trong dài hạn. Cụ thể là nghiên cứu về các tiêu chí như hiệu quả sử dụng vốn, lao động, hệ số sử dụng vốn, TFP cũng như cơ cấu của các yếu tố đầu vào trong tăng trưởng kinh tế.
Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất.
Thứ nhất, chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động.
Năng suất lao động là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng lao động, đặc trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) với lao động để sản xuất ra nó. Năng suất lao động là một trong những yếu tố quan trọng tác động tới sức cạnh tranh, đặc biệt, năng suất lao động lại phản ánh yếu tố chất lượng người lao động - yếu tố cốt lõi của sự phát triển trong sự cạnh tranh toàn cầu, sự phát triển của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức hiện nay.
Định nghĩa của tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OCED về năng suất lao động, đó là “tỷ số giữa sản lượng đầu ra với số lượng đầu vào được sử dụng”. Thước đo sản lượng đầu ra thường là GDP(Gross Domestic Product) hoặc GVA (Gross Value Added) tính theo giá cố định, điều chỉnh theo lạm phát. Ba thước đo thường sử dụng nhất của lượng đầu vào là: thời gian làm việc, sức lao động và số người tham gia lao động. 
Từ đó ta có công thức sau:
Năng suất lao động = GVA hoặc GDP (theo giá so sánh)/Số lao động.
Năng suất lao động phản ánh năng lực tạo ra của cải, hay hiệu suất của lao động cụ thể trong quá trình sản xuất, đo bằng số sản phẩm, lượng giá trị sử dụng (hay lượng giá trị) được tạo ra trong một đơn vị thời gian, hay đo bằng lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị thành phẩm. Năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện tính chất và trình độ tiến bộ của một tổ chức, một đơn vị sản xuất, hay của một phương thức sản xuất. Năng suất lao động được quyết định bởi nhiều nhân tố, như trình độ thành thạo của người lao động, trình độ phát triển khoa học và áp dụng công nghệ, sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất, quy mô và tính hiệu quả của các tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên.
Thứ hai, chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn.
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng tăng trưởng kinh tế không chỉ dựa vào lượng vốn đầu tư nhiều hay ít, mà quan trọng hơn là dựa vào hiệu quả sử dụng của lượng vốn này cao hay thấp.
Một trong những chỉ tiêu quan trọng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn là hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio) - hiệu quả sử dụng vốn sản phẩm gia tăng. Hệ số này cho biết để tăng thêm một đơn vị hay một phần trăm GDP cần phải tăng thêm bao nhiêu đơn vị hoặc bao nhiêu phần trăm GDP vốn đầu tư thực hiện. Hệ số này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Nếu hệ số ICOR thấp tức là hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cao và ngược lại. Tuy nhiên, theo quy luật hiệu quả cận biên của tư bản có khuynh hướng giảm dần, khi nền kinh tế tăng trưởng thì hệ số ICOR sẽ tăng lên, tức là để duy trì cùng một tốc độ tăng trưởng, thì giai đoạn sau cần một tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP cao hơn.
Có hai cách để tính hệ số ICOR:
Thứ nhất, ICOR = I1Y1-Y0 
Trong đó:
I1 là tổng vốn đầu của năm nghiên cứu tính theo giá thực tế (hoặc giá so sánh).
Y1 là GDP của năm nghiên cứu tính theo giá thực tế (hoặc giá so sánh).
Y0 là GDP của năm gốc tính theo giá thực tế (hoặc giá so sánh).
Hệ số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: Để GDP tính theo giá thực tế (hoặc giá so sánh) tăng 1 đồng đòi hỏi phải có bao nhiêu đồng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tính theo giá thực tế (hoặc giá so sánh)?
Thứ hai, ICOR = IY (%)g (%)
Trong đó:
I/Y là tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP.
 Gy là tốc độ tăng GDP.
Hệ số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: Để GDP tăng 1% đòi hỏi tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP phải đạt bao nhiêu %?
Thứ ba, chỉ tiêu phản ánh đóng góp của khoa học công nghệ, trình độ quản lý đối với tăng trưởng kinh tế - TFP
Khi phân tích các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các nguồn lực, thì một trong nhân tố không thể không nhắc đến là tác động của khoa học công nghệ và trình độ quản lý. Ngày nay, để đánh giá tác động của các yếu tố này người ta thường dùng chỉ tiêu nhân tố năng suất tổng hợp.
Năng suất các nhân tố tổng hợp (viết tắt tiếng Anh là TFP - Total Factor Produc-tivity) là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động (các nhân tố hữu hình), nhờ vào tác động của các nhân tố vô hình như đổi mới công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động của công nhân,v.v... (gọi chung là các nhân tố tổng hợp).
Tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp phản ánh tốc độ tiến bộ khoa học công nghệ là chỉ tiêu tổng hợp phản ảnh sự nhanh, chậm của tiến bộ khoa học công nghệ trong một thời gian nhất định
Nhân tố năng suất tổng hợp được coi là yếu tố chất lượng của tăng trưởng hay tăng trưởng theo chiều sâu. Nếu nhân tố năng suất tổng hợp tăng nhanh và chiếm tỷ trọng đóng góp cao cho tăng trưởng kinh tế thì sẽ đảm bảo duy trì tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, tránh được những biến động từ yếu tố bên ngoài. Để tính tác động của TFP đến tăng trưởng kinh tế, người ta thường sử dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas để tính toán.
Y = A.Kα.L1-α.
Y là biến số về sản lượng của nền kinh tế (thường tính bằng GDP theo giá cố định).
K là biến số về vốn.
L là biến số về lao động.
A là TFP.
Hàm này có thể chuyển sang hàm tuyến tính bằng cách logarit hóa hai về như sau:
LnY = lnA + αlnK + βlnL.
Trong đó: α, β là các số lũy thừa, phản ánh tỷ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào.
Mô hình này xác định tác động của tốc độ tăng vốn là lao động đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế và phần còn lại của tăng trưởng kinh tế là do TFP (nhân tố năng suất tổng hợp).
Thông thường để tính toán người ta dùng hồi quy mô hình kinh tế lượng cho hàm sản xuất Cobb – Douglas bằng phần mềm Eviews để xác định đóng góp của từng nhân tố trong tăng trưởng.
Chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ, những mối quan hệ qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, chúng vận động vào những mục tiêu nhất định. Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không cố định. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mục đích của việc chuyển dịch này là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới, tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện trình độ phát triển của nền kinh tế, sự liên kết, phối hợp giữa các bộ phận hợp thành ở trình độ càng cao thì sự phát triển hài hòa được đảm bảo.
Người ta thường phân tích cơ cấu kinh tế theo các góc độ:
Góc độ chuyển dịch cơ cấu ngành: thực tế ta thường thấy cơ cấu ngành kinh tế thường được chia thành ba nhóm ngành lớn là nông – lâm – ngư nghiệp, công nghiệp xây dựng và dịch vụ. Để đánh giá chuyển dịch cơ cấu ngành người ta thường xem xét đến sự thay đổi tỷ trọng đóng góp của các ngành trong GDP. Xu hướng của các nền kinh tế phát triển thường là tăng tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp xây dựng và giảm tỷ trọng của ngành nông lâm ngư nghiệp trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân. Ngoài ra, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cơ cấu nội bộ ngành cũng là một biểu hiện quan trọng của chất lượng tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế tăng trưởng có chất lượng thường là có sự chuyển dịch trong nội bộ ngành theo hướng tích cực, điển hình như sự chuyển dịch sang các ngành dịch vụ nông nghiệ trong nội bộ ngành nông nghiệp; sự chuyển dịch sang ngành công nghiệp thâm dụng khoa học công nghệ trong nội bộ ngành công nghiệp và chuyển dịch cá ngành dịch vụ cao cấp trong nội bộ ngành dịch vụ.
Góc độ chuyển dịch cơ cấu sở hữu: hay nói cách khác là chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Trong một nền kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc có bao nhiêu thành phần kinh tế tồn tại, thành phần nào đóng vai trò chủ đạo có ảnh hưởng lớn đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Có thể thấy, Việt Nam là một minh chứng rõ nét cho trường hợp này, từ sau 1986, Việt Nam bắt đầu đổi mới, phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính điều đó đã đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khó khăn, tăng trưởng vượt bậc. Về nguyên tắc, môi trường kinh tế nhiều thành phần sẽ thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế, hướng đến mục tiêu xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, công bằng hơn.
Chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế với khả năng đảm bảo cơ sở hạ tầng.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế phải được thể hiện thông qua việc tăng trưởng kinh tế phải gắn với khả năng đảm bảo cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế trong quá trình tăng trưởng. Đặc biệt là hạ tầng giao thông và khả năng đáp ứng nhu cầu năng lượng trong quá trình tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao thường dẫn đến vấn đề quá tải của cơ sở hạ tầng. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc tăng trưởng kinh tế trong những chu kỳ tiếp theo. Do đó, nếu tăng trưởng kinh tế mà không đảm bảo cơ sở hạ tầng thì chất lượng tăng trưởng kinh tế không cao.
Chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế với các vấn đề môi trường.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế phải được thể hiện thông qua việc tăng trưởng phải gắn với khai thác tài nguyên hợp lý và bảo vệ môi trường. Nếu tăng trưởng kinh tế mà dựa chủ yếu vào việc khai thác tài nguyên thì tăng trưởng kinh tế này sẽ không bền vững, tức chất lượng tăng trưởng kinh tế sẽ không cao. Các chỉ tiêu chính để đánh giá vấn đề này bao gồm: mức độ cạn kiệt tài nguyên, tình hình ô nhiễm môi trường
Chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh tăng trưởng.
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế phản ảnh khả năng nền kinh tế đó đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao, là tăng năng lực sản xuất bằng việc đổi mới, sử dụng các công nghệ cao hơn, đào tạo kỹ năng liên tục, quan tâm đến công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Ở góc độ một nền kinh tế người ta thường đánh giá theo ba tiêu chỉ: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm, năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Ở góc độ tỉnh thành, năng lực cạnh tranh thường được thể hiện qua môi trường đầu tư, yếu tố công nghệ, trình độ quản lý, trình độ lao động. Tuy nhiên với khuôn khổ một để tài tiểu luận, việc nghiên cứu tỏng quan các chỉ tiêu trên là khá khó khăn. Vì thế, trong đề tài này nhóm dựa vào chỉ số PCI- chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh- để đánh giá về năng lực cạnh tranh tăng trưởng.
Cần phải nói thêm PCI được gọi là chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh do phong thương mại – công nghiệp Việt Nam (VCCI) và dự án nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) công bố hàng năm. PCI thể hiện một số nội dung về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh.
PCI có 10 chỉ số thành phần với thang điểm là 100:
STT
Chỉ tiêu
Tỷ trọng
1
Chi phí gia nhập thị trường
5%
2
Tiếp cận đất đai và Sự ổn định trong sử dụng đất
5%
3
Tính minh bạch và tiếp cận thông tin
15%
4
Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước
10%
5
Chi phí không chính thức
5%
6
Cạnh tranh bình đẳng
5%
7
Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh
15%
8
Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp
15%
9
Đào tạo lao động
15%
10
Thiết chế pháp lý
10%
Tổng
100%
Nguồn: VCCI
Trong những năm gần đây, chỉ số PCI ngày càng chứng tỏ được tầm quan trọng của mình. Theo PGS TS Edmund Malesky khẳng định: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) ngày càng tiệm cận hơn với môi trường kinh doanh của các tỉnh, thành trên cả nước. Đặc biệt, những thay đổi của PCI sẽ khiến cho các địa phương đổi mới các chính sách và trực tiếp cải thiện môi trường kinh doanh hơn là dựa vào các chính sách cũ.
Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tăng trưởng kinh tế.
 Tài nguyên thiên nhiên.
Tài nguyên thiên là một trong những yếu tố nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất. Xét trên phạm vi toàn thể giới, nếu không có tài nguyên , đất đai thì sẽ không có sản xuất và cũng không có sự tồn tại của con người. Tuy nhiên, đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, tài nguyên thiên nhiên chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn, vì thế tài nguyên thiên nhiên chỉ trở thành sức mạnh của nền kinh tế khi con người biết khai thác và sử dụng chúng một cách hiệu quả. 
Thực tế cho thấy nhiều quốc gia có trữ lượng tài nguyên phong phú, đa dạng song vẫn là nước nghèo và kém phát triển như Chi lê, Venezuela, Ả rập Saudi,... Ngược lại, nhiều quốc gia nghèo về tài nguyên khoáng sản nhưng lại trở thành những nước công nghiệp phát triển mạnh hiện nay như Nhật Bản, Anh, Pháp,...
Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển, các nước đang phát triền thường quan tâm đến việc xuất khẩu sản phẩm thô, đó là những sản phẩm được khai thác trực tiếp từ nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước, chưa qua chế biến hoặc ở dạng sơ chế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng là cơ sở để phát triển các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, công nghiệp chế biên, các ngành công nghiệp năng, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, thủy tinh, sành sứ
Đối với hầu hết các nước, việc tích lũy vốn đòi hỏi một quá trình lâu dài, gian khổ liên quan chặt chẽ với tiêu dùng trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia, nhờ những ưu đãi của tự nhiên có nguồn tài nguyên lớn, đa dạng nên có thể rút nhắn quá trình tích lũy vốn bằng cách khai thác các sản phẩm thô để bán hoặc để đa dạng hóa nền kinh tế tạo nguồn tích lũy vốn ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Như trên chúng ta đã thấy, nguồn tài nguyên thiên nhiên thường là cơ sở để phát triển một số ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành kinh tế khác, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Sự giàu có về tài nguyên, đặc biệt về năng lượng giúp cho một quốc gia ít bị lệ thuộc hơn vào các quốc gia khác và có thể tăng trưởng một cách ổn định, độc lập khi thị trường tài nguyên thế giới bị rời vào trạng thái bất ổn.
Yếu tố thể chế chính trị, kinh tế - xã hội. 
Đây là yếu tố ngày càng có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Có giả thiết cho rằng sự khác biệt về thể chế kinh tế là nguyên nhân cơ bản của các mẫu hình khác nhau trong tăng trưởng kinh tế. Cốt lõi của giả thiết này dựa trên luận điểm cách thức con người tổ chức xã hội của họ quyết định xã hội đó có thịnh vượng hay không. Một cách tổ chức xã hội khuyến khích mọi người đổi mới, chấp nhận rủi ro, tiết kiệm cho tương lai, học tập, giải quyết những vấn đề chung và cung cấp các hàng hoá công cộng là một xã hội đạt tới mức thu nhập cao hơn. Ngược lại với cách tổ chức này thì xã hội đó sẽ rơi vào tình cảnh nghèo đói.
Theo kinh tế học hiện đại, một thể chế thuận lợi cho sự phát triển kinh tế phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Thể chế phải có tính mềm dẻo, linh hoạt, nhạy bén, có khả năng thích ứng.
Phải tạo ra sự ổn định về mọi mặt.
Phải xây dựng được một nền kinh tế mở cửa hiệu quả.
Có đội ngũ chuyên gia, các nhà quản lý và doanh nghiệp có năng lực và năng động.
Thể chế này phải có khả năng huy động sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, yếu tố thể chế chỉ tạo điều kiện thuận lợi để các chương trình, dự án, kế hoạch hoạt động theo mục tiêu có lợi, chứ không phải là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế.
Yếu tố về nguồn lực.
Thứ nhất, nguồn nhân lực. Chất  lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực được xem là yếu tố chất lượng của tăng trưởng.
Thứ hai, tư bản (vốn) là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi....
Thứ ba, khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, tức quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,công nghệ vật liệu mới... có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên cứu; công nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ "phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở BÌNH PHƯỚC.
 Tình hình tăng trưởng kinh tế ở Bình Phước.
Giới thiệu khái quát về Bình Phước.
Bình Phước là một tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có 260,4 km đường biên giới giáp với vương quốc Campuchia. Tỉnh là cửa ngõ, cầu nối của vùng Đông Nam bộ với Tây Nguyên và Campuchia. Cụ thể, phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai; phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Campuchia; phía Nam giáp tỉnh Bình Dương; phía Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk và Campuchia. Hiện nay, Bình Phước có 3 thị xã và 7 huyện, với tổng 111 xã, phường, thị trấn.
Bình Phước nằm trong vùng mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo gió mùa, có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ bình quân trong năm cao đều và ổn định từ 25,80C - 26,20C. 
Về nguồn nước gồm có nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm. Nguồn nước mặt với hệ thống sông suối tương đối nhiều, mật độ 0,7 - 0,8km/km2, bao gồm sông Sài gòn, Sông Bé, sông Đồng Nai, sông Măng và nhiều suối lớn. Ngoài ra còn có một số hồ, đập như hồ Suối Lam, hồ Suối Cam, đập nước thuỷ điện Thác Mơ (dung tích 1,47 tỷ m3 ), đập thuỷ điện Cần Đơn, đập thuỷ điện Sork phú miêng. Nguồn nước ngầm, từ các vùng thấp dọc theo các con sông và suối, nhất là phía Tây Nam tỉnh, nguồn nước khá phong phú có thể khai thác để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Tỉnh có diện tích 6.871,5 km², gồm 7 nhóm đất chính với 13 loại đất, trong đó diện tích đất lâm nghiệp chiếm 51,3% tổng diện tích đất toàn tỉnh. Dân số 905.300 người, mật độ dân số đạt 132 người/km² (theo số liệu thống kê năm 2011), gồm nhiều dân tộc khác nhau (đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 17,9%) sinh sống trên địa bàn 111 xã, phường, thị trấn thuộc 7 huyện, 3 thị xã.
Thế mạnh của tỉnh là cây công nghiệp (điều, hồ tiêu, cao su, ca cao), với tổng diện tích cây lâu năm ước đến hết năm 2012 là 391.174 ha, trong đó cây điều, cao su của tỉnh vẫn đóng vai trò thủ phủ của cả nước. Đây là yếu tố cơ bản nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu phong phú để phát triển công nghiệp chế biến, xuất khẩu. Có nguồn tài nguyên khoáng sản, trong đo đáng lưu ý là mỏ đá vôi Tà Thiết cung cấp nguyên liệu cho sản xuất xi măng, cao lanh, đá xây dựng, sét, gạch ngói đảm bảo cho nhu cầu phát triển trong tỉnh. Tỉnh cũng có tiềm năng lớn về rừng và đất rừng có thể phát triển và khai thác có hiệu quả tiềm năng này.
Tỉnh hiện có 18 khu công nghiệp (diện tích hơn 5.211 ha), tập trung chủ yếu ở huyện Chơn Thành, Hớn Quản, Đồng Phú, thị xã Đồng Xoài và một khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Hoa Lư (huyện Lộc Ninh) với tổng diện tích hơn 28.300ha.
Bình Phước đang là điểm đến lý tưởng và môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, với hàng loạt chính sách mở, ưu đãi và thông thoáng. Tỉnh có tài nguyên phong phú, quỹ đất sạch dồi dào, giao thông thuận tiện, nguồn nhân công giá rẻ, đồng thời là vựa rốn cây công nghiệp và hàng nông sản  đã và đang là thế mạnh “hút” nhà đầu tư.
 Khái quát tình hình tăng trưởng kinh tế ở Bình Phước.
Đầu năm 1997, tỉnh Bình Phước được tái lập. Vào thời điểm đó, tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế, và là một trong những tỉnh nghèo nhất cả nước. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) lúc này chỉ đạt 1.311,30 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 1994). Thu ngân sách toàn tỉnh đạt 176 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người 2,2 triệu đồng/năm. 
Cơ sở vật chất kỹ thuật lúc này còn yếu kém. Cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông lâm thủy sản (73,12%), công nghiệp – xây dựng (3,9%) và dịch vụ (22,98%) chiếm tỷ lệ rất thấp. 
Quan hệ quốc tế chưa được mở rộng, thị trường xuất khẩu năm 1997 chỉ có 17 quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ có 1 dự án với số vốn đăng ký là 20,58 triệu USD. Năm 1997 toàn tỉnh chỉ có 176 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký là 35 tỷ đồng.
Từ một tỉnh nông nghiệp, kinh tế chậm phát triển như thế, sau 12 năm tái lập, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đã có những bước phát triển vượt bậc. Tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2008 đạt 4.889,70 tỉ đồng, bằng 98,14% kế hoạch đề ra đến năm 2010. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2006 - 2008 đạt 14,29% (mục tiêu tăng bình quân 14% - 15%). Năm 2006 tăng 14,37%, năm 2007 tăng 14,2% và năm 2008 tăng 14,3%. Tổng thu ngân sách nhà nước vượt ngưỡng 1.500 tỉ đồng. Thu nhập bình quân đầu người năm 2008 đạt 14,88 triệu đồng, tương đương 892 USD. 
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Nông lâm thủy sản giảm xuống còn 51,56%, trong khi đó cơ cấu Công nghiệp – Xây dựng tăng mạnh đến 22,38%. Sản xuất công nghiệp tiếp tục có sự chuyển biến, phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với hàng xuất khẩu; đầu tư đưa lưới điện quốc gia phủ khắp 100% số xã, phường, thị trấn trong tỉnh với 83% số hộ gia đình sử dụng điện...
Đến năm 2010, quy mô GRDP đạt 6.083,40 tỷ đồng (theo giá so sánh 1994), theo giá hiện hành đạt 17.872,3 tỷ đồng. Đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao, thu nhập bình quân đầu người 20,01 triệu đồng, tăng gấp 9,1 lần so với năm 1997. 
Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng từ 3,9% năm 1997 tăng lên 25,73% vào năm 2010; ngành dịch vụ từ 22,98% tăng lên 27,06%; ngành nông, lâm, thủy sản giảm từ 73,12% xuống còn 47,21% vào năm 2010. 
Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới. Quan hệ quốc tế không ngừng được mở rộng, thị trường xuất khẩu đã được mở rộng đến hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến 31/12/2010 có 81 dự án; có 3 dự án của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đầu tư ra nước ngoài. Các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển. Nếu như năm 1997 toàn tỉnh chỉ có 176 doanh nghiệp, thì đến 31/12/2010 đã có 2.848 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký là 19.657 tỷ đồng, gấp 16,2 lần về số doanh nghiệp và gấp 561,6 lần về số vốn đăng ký so với năm 1997.
	Năm 2011, trải qua 15 năm xây dựng và phát triển, Bình Phước đã có nhiều thay đổi. Thu nhập bình quân đầu người là 28,34 triệu đồng/năm. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa bình quân đạt 12,33%. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) là 6,874.40 (theo giá so sánh 1994). 
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng. Tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản giảm còn 44,73%; công nghiệp - xây dựng tăng lên 28,74%, gấp 7,4 lần so với năm đầu tái lập (1997).
Sản xuất công nghiệp có chiều hướng phát triển khá tốt, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2011 đạt 5.685,9 tỷ đồng, tăng gấp hơn 46 lần năm 1997. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 700 nghìn USD, tăng 4,8 lần so với năm đầu tái lập tỉnh. Thu nhập bình quân đầu người năm 2011 đạt 27,28 triệu đồng, gấp hơn mười lần so với năm 1997. 
Thu ngân sách, mặc dù có nhiều khó khăn, nhưng vẫn đạt mục tiêu đề ra, tốc độ tăng thu bình quân hằng năm gần 14%. Năm 2011, số thu ngân sách đạt 3.500 tỷ đồng, tăng gấp gần 20 lần so với năm đầu tái lập tỉnh.
Toàn tỉnh có tám khu công nghiệp với diện tích 5.244 ha, trong đó có bốn khu công nghiệp và một khu kinh tế cửa khẩu đi vào hoạt động hiệu quả. Trên địa bàn tỉnh có hơn 3.200 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký gần 23 nghìn tỷ đồng, tăng gần 18,2 lần về số doanh nghiệp và 657,1 lần về số vốn đăng ký so với năm 1997. Toàn tỉnh có 86 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với vốn đăng ký hơn bảy trăm triệu USD. 
Kinh tế tập thể tiếp tục phát triển. Toàn tỉnh có 90 hợp tác xã, với 5.239 xã viên và tổng số vốn điều lệ 69.708 triệu đồng. Toàn tỉnh có gần năm nghìn trang trại và trở thành "thủ phủ" của cây cao-su, cây điều với diện tích 203.418 ha cao-su và 147.502 ha cây điều. Ðến nay, có 85% số hộ dân được sử dụng nước sạch, 91% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia. Ðường nhựa đến trung tâm xã đạt 94%. Lượng khách du lịch đến Bình Phước tăng bình quân hơn 29%/năm, trong đó khách quốc tế tăng gần 34%/năm, khách nội địa tăng 29%.
	Tiếp tục với đà tăng trưởng trên, đến năm 2012, kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước đã có những bước phát triển khá nhanh và đồng bộ trên nhiều lĩnh vực. Quy mô tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) năm 2012 đạt 7.675,9 tỷ đồng (theo giá so sánh 1994), gấp 5,9 lần so với năm 1997. Đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, thu nhập bình quân đầu người đạt 31,25 triệu đồng/người. Kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 133 triệu USD, tăng 8,6% so với năm ngoái. Tổng thu ngân sách năm 2012 thực hiện được 3.853 tỷ đồng, giảm 1,5% so với năm 2011. Có hơn 600.000 người trong độ tuổi lao động (giai đoạn cơ cấu dân số “vàng”), là nguồn nhân lực dồi dào cho phát triển công nghiệp, chuyển dịch kinh tế.
Phát huy những thành tựu đã đạt được, qua hơn 2 năm đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015, trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế trong nước và thế giới, kinh tế của Bình Phước vẫn luôn tăng trưởng ổn định. Tốc độ tăng trưởng bình quân 2 năm 2011-2012 đạt 12,3%. Trong đó: Khu vực nông, lâm, thuỷ sản đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7,6%; Khu vực công nghiệp - xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng 20,8%; Khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng 12,1%.
Trong từng ngành đã có sự chuyển dịch cơ cấu, gắn sản xuất với thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm. Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng, thế mạnh của nhiều hình thức sở hữu. 
Tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng năm 2010 là 25,73%, đến năm 2012 ước là 29,75%; ngành dịch vụ tương ứng là 27,06% và 26,95%; ngành nông, lâm, thủy sản là 47,21% và 43,3%. Như vậy, cơ cấu kinh tế Bình Phước thời gian qua đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến bước đầu đã khai thác được các lợi thế về nguồn nguyên liệu trong tỉnh để nâng cao giá trị xuất khẩu, như: sản phẩm từ hạt điều, cao su, sản phẩm gỗ xuất khẩu, xi măng.
Ngành dịch vụ cũng có sự chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng bình quân 2 năm 2011-2012 là 12,1%/năm. Bên cạnh các ngành thương nghiệp, vận tải, bưu chính viễn thông, khách sạn, nhà hàng, thì các ngành dịch vụ có tỷ lệ chi phí trung gian thấp, như: ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn đã phát triển khá nhanh, góp phần nâng giá trị tăng thêm ngành dịch vụ để chiếm tỷ trọng ngày càng cao.
Ngành nông - lâm - thuỷ sản tăng trưởng ổn định, cơ cấu cây trồng vật nuôi được chuyển đổi, nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá và đa dạng hoá ngành nghề. Công tác xây dựng thuỷ lợi được quan tâm đầu tư công tác thú y, bảo vệ thực vật được chú ý.
Về phát triển doanh nghiệp, tính đến 31/12/2012, toàn tỉnh Bình Phước có 3.689 doanh nghiệp trong nước với tổng vốn điều lệ đăng ký 28.891 tỷ đồng; đã thu hút được 98 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư 811,083 triệu USD. Trong đó: trong KCN, khu kinh tế cửa khẩu 68 dự án, tổng vốn đăng ký 521,2 triệu USD, ngoài KCN 30 dự án với tổng vốn đăng ký 289,883 triệu USD; Tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 349,714 triệu USD (đạt tỷ lệ 43,1% trên tổng vốn đăng ký), trong đó vốn đầu tư trong khu công nghiệp, khu kinh tế là: 183,480.triệu USD, vốn đầu tư ngoài khu công nghiệp là: 166,234 triệu USD.
	Năm 2013, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Bình Phước tuy còn thấp so với kế hoạch đề ra, nhưng vẫn được đánh giá ở mức cao. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước thực hiện cả năm 27.916 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 9,54% so với năm 2012. Nếu tính theo giá so sánh 1994, tổng sản phẩm trên địa bàn đạt 8.408,5 tỷ đồng, tăng 9,59% (kế hoạch tăng 11,5%), trong đó khu vực nông lâm nghiệp tăng 5,63%, công nghiệp xây dựng tăng 10,9% và dịch vụ tăng 13,19%.
 Thu nhập bình quân đầu người đạt 41,62 triệu đồng (tương đương 1.982 USD), tăng 9,4% so với năm 2012. Thu ngân sách nhà nước ước thực hiện năm 2013 là 4.000 tỷ đồng, đạt 86,96% kế hoạch năm.
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2013 (giá so sánh 1994) ước đạt 7.102 tỷ đồng, tăng 9,9% so với năm 2012; theo giá so sánh năm 2010 đạt 21.082 tỷ đồng, tăng 10,1% so với năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước cả năm 2013 thực hiện 22.501,7 tỷ đồng, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên không đạt kế hoạch đề ra do tình hình kinh tế khó khăn, sức mua giảm sút nên tốc độ tăng có chậm hơn so với những năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả năm 2013 tăng 7% so với cuối tháng 12/2012.
 Kim ngạch xuất khẩu năm 2013 thực hiện được 700 triệu USD, đạt 100% kế hoạch năm, tăng 14,95% so cùng kỳ năm 2012; nhập khẩu ước thực hiện 145 triệu USD, đạt 100% kế hoạch năm, tăng 9,02% so cùng kỳ năm 2012.
Cả năm 2013 có 400 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký 1.590 tỷ đồng. Tỉnh cũng đã thu hút được 13 dự án FDI, với tổng số vốn đăng ký 802,158 triệu USD, giảm 7,1% về số dự án và tăng 25,1% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2012. Lũy kế đến 2013, trên địa bàn tỉnh đã có 104 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký là 817.358 triệu USD.
Trong năm 2014, tỉnh tiếp tục đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và phát triển bền vững, chú trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng gắn với tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng. Bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Củng cố, đảm bảo quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh hơn công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế (khoảng 10%) gắn với nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Mặt khác, đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, đồng thời rà soát, đánh giá việc thực hiện các tiêu chí trên từng xã điểm để tập trung chỉ đạo và tăng cường các biện pháp thực hiện.
Phân tích chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Bình Phước.
 Phân tích hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất.
 Hiệu quả sử dụng lao động.
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động được thể hiện thông qua năng suất lao động. Năng suất lao động được tính bằng GDP (theo giá so sánh) chia cho tổng số lao động đang làm việc. Ở phạm vi địa phương, năng suất lao động sẽ được tính bằng cách lấy GRDP – tổng sản phẩm trên địa bàn (theo giá so sánh) chia cho số lao động đang làm việc.
Bảng 2.1: Năng suất lao động của Bình Phước giai đoạn 2005-2012.
Năm
Số lao động đang làm việc (nghìn người)
GRDP tính theo giá cố định 1994 (tỷ đồng)
Năng suất lao động (triệu đồng/người/năm)
Tốc độ tăng năng suất
2005
391,7
3.273,6
8,36
2006
414,0
3.744,1
9,04
8,1%
2007
440,4
4.293,8
9,75
7,9%
2008
466,7
4.889,7
10,48
7,5%
2009
497,9
5.387,3
10,82
3,2%
2010
516,8
6.083,4
11,77
8,9%
2011
528,9
6.885,45
13,02
10,6%
2012
556,2
7.675,9
13,80
6,0%
(Nguồn: Tính toán từ niên giám thống kê tỉnh Bình Phước).
Biểu đồ 2.1: Năng suất lao động của Bình Phước giai đoạn 2005 – 2012.
Có thể thấy, từ năm 2005-2012, năng suất lao động của tỉnh Bình Phước tăng dần qua các năm, từ 8,36 (triệu đồng/người/năm) năm 2005, đến năm 2012 đã đạt được 13,80 (triệu đồng/người/năm). 
Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất của tỉnh còn chậm, đáng chú ý ở năm 2009 chỉ đạt 3,2%, nhưng ở năm tiếp theo đó, tốc độ đã tăng mạnh lên đến 8,9%, và tiếp tục tăng lên 10,6% vào năm 2011, đến năm 2012, tốc độ lại giảm xuống còn 6%.
Bảng 2.2: So sánh năng suất lao động của tỉnh Bình Phước với năng suất lao động của cả nước giai đoạn 2005-2013.
Năm
NSLĐ Bình Phước (triệu đồng/người/năm)
NSLĐ Cả nước (triệu đồng/người/năm)
2005
8,36
9,19
2006
9,04
9,67
2007
9,75
10,2
2008
10,48
10,56
2009
10,82
10,82
2010
11,77
11,25
2011
13,02
11,61
2012
13,80
11,87
(Nguồn: Tính toán từ niên giám thống kê tỉnh Bình Phước và Việt Nam).
Qua bảng số liệu trên, có thể thấy năng suất lao động của tỉnh Bình Phước so với cả nước không có nhiều chênh lệch, thậm chí từ năm 2010-2013, năng suất lao động của tỉnh tăng cao hơn so với năng suất lao động chung của cả nước.
Biểu đồ 2.2: So sánh NSLĐ của Bình Phước với NSLĐ của cả nước giai đoạn 2005 -2012.
Có được kết quả trên là nhờ vào lực lượng lao động không hề nhỏ hiện có ở Bình Phước. Bình Phước là một tỉnh có nền nông nghiệp chiếm 51% và lao động đang làm việc ở tỉnh phần lớn cũng tập trung vào ngành Nông nghiệp - Lâm nghiệp - Thủy sản, vì thế, năng suất lao động ở ngành này ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất lao động của toàn tỉnh.
Bảng 2.3: Cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế ở Bình Phước. (Ở đây chỉ xét những ngành có số lao động làm việc chiếm tỉ lệ lớn).
Năm
NN-LN-TS
CN chế biến
Xây dựng
Bán buôn bán lẻ
Vận tải kho bãi
2000
87,50%
2,98%
0,97%
2,65%
0,94%
2005
75,85%
4,67%
1,91%
4,83%
1,30%
2008
72,38%
5,55%
2,81%
6,69%
1,56%
2009
69,77%
5,92%
3,15%
7,39%
1,65%
2010
69,58%
6,13%
3,13%
7,41%
1,64%
2011
66,33%
9,02%
3,14%
7,56%
1,57%
(Nguồn: Tính toán từ niên giám thống kê tỉnh Bình Phước).
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế ở Bình Phước.
Có thể thấy cơ cấu lao động theo các ngành ở Bình Phước có sự thay đổi qua các thời kì. Tuy nhiên, điểm chung đó là tỉ lệ lao động làm việc trong ngành Nông nghiệp – Lâm nghiệp – Thủy sản luôn 

File đính kèm:

  • docxtieu_luan_chat_luong_tang_truong_kinh_te_tinh_binh_phuoc.docx