Tiểu luận Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW ở một số nước và ở Việt Nam

pdf 22 trang yenvu 26/04/2024 1820
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW ở một số nước và ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW ở một số nước và ở Việt Nam

Tiểu luận Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW ở một số nước và ở Việt Nam
1 
 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
KHOA KINH TẾ 
 -------------- 
TIỂU LUẬN MÔN HỌC: 
NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG & CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 
 Đề tài 
 CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NHTW 
Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ Ở VIỆT NAM 
Nhóm học viên: 
 1. Huỳnh Như Ngọc 
 2. Lê Thị Như Ngọc 
 3. Phạm Thị Hoàng Nhung 
 4. Đoàn Thị Kiều Oanh 
 5. Phạm Thị Oanh 
6. Phạm Thanh Phong 
 7. Nguyễn Thanh Phương 
 Lớp : Cao học Khóa 9 
 Chuyên ngành: KT Tài chính- Ngân hàng 
TP.HCM, năm 2010 
2 
MỤC LỤC 
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 3 
Chương I. TỔ NG QUAN VỀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI S UẤT .......................................... 4 
I. KHÁI NIỆM CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT:................................................................. 4 
II. C ÁCH THỨC ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở CÁC NƯỚC VÀ Ở VIỆT NAM. ............. 4 
1. C ách thức điều hành lãi suất ở các nước phát triển................................................... 4 
2. C ơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam ......................................................................... 7 
Chương II. THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở CÁC NƯỚ C PHÁT TRIỂN VÀ Ở 
VIỆT NAM. .................................................................................................................................... 8 
I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG C Ơ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở C ÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN 
VÀ Ở VIỆT NAM. ..................................................................................................................... 8 
1. Đặc điểm chung cơ chế điều hành lãi suất ở các nước phát triển ............................. 8 
2. Đặc điểm cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam. .................................................. 11 
II. THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH LÃI SUẤT Ở C ÁC NƯỚC VÀ Ở VIỆT NAM THỜ I 
GIAN QUA . ............................................................................................................................. 12 
1. Thực trạng điều hành lãi suất ở các nước phát triển. .............................................. 12 
2. Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt Nam................................................................ 16 
Chương III. ĐÁNH GIÁ CƠ C HẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT VIỆT NAM THỜ I GIAN 
QUA. ............................................................................................................................................. 18 
I. ƯU ĐIỂM: ................................................................................................................................ 18 
II. HẠN C HẾ: ....................................................................................................................... 18 
III. VIỆT NAM CÓ NÊN GIỮ LÃI S UẤT CƠ BẢN. ........................................................ 19 
KẾT LUẬN .................................................................................................................................. 21 
3 
CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA CÁC NGÂN HÀNG TRUNG 
ƯƠNG Ở CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN VÀ Ở VIỆT NAM. 
LỜI MỞ ĐẦU 
Thế giới đã và đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hết sức phức tạp với 
sức công phá nặng nề, là nỗi ám ảnh đối với nền kinh tế của nhiều nước. Tất cả các quốc 
gia đều đang nỗ lực chèo chống con thuyền của mình vượt bão lớn và Việt Nam cũng 
nằm trong số đó. Hàng loạt chính sách và biện pháp đã được đưa ra nhằm tăng trưởng 
kinh tế, kìm chế lạm phát, củng cố thị trường, ổn định nền kinh tế vĩ mô. Lãi suất là một 
trong những công cụ quan trọng mà Ngân hàng trung ương (NHTW) sử dụng để điều 
hành thị trường tiền tệ, thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Nhưng sự tác động 
của công cụ này ở mỗi quốc gia luôn khác nhau bởi nó phụ thuộc vào các yếu tố như thực 
trạng nền kinh tế, mức phát triển thị trường tiền tệ. 
Trước đây đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về lãi suất, trong đề tài nghiên cứu lần này 
chúng tôi chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu các cơ chế điều hành lãi suất của các quốc gia 
phát triển trên thế giới cũng như tại Việt Nam, qua đó thấy được sự điều hành khác nhau 
giữa các quốc gia và những hạn chế trong cơ chế tại Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về cơ chế 
điều hành lãi suất trước tiên ta tìm hiểu những khái niệm cơ bản về cơ chế điều hành lãi 
suất và hình thức điều hành lãi suất ở các quôc gia. 
Thông qua phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, cũng như thu thập và 
phân tích số liệu, chúng tôi sẽ trình bày nội dung đề tài trong ba chương: 
Chương I : Lý luận cơ bản về cơ chế điều chỉnh lãi suất. 
Chương II: Thực trạng điều hành lãi suất ở các nước và Việt Nam. 
Chương III: Nhận xét và một số kiến nghị. 
4 
Chương I. TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT 
I. KHÁI NIỆM CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT: 
Cơ chế điều hành lãi suất là hệ thống các nguyên tắc, cách thức quản lý và điều hành lãi 
suất của ngân hàng trung ương của một nước hay nhóm các nước liên minh nhằm hướng 
lãi suất thị trường về lãi suất mục tiêu để thực hiện chính sách tiền tệ. 
II. CÁCH THỨC ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở CÁC NƯỚC VÀ Ở VIỆT NAM. 
1. Cách thức điều hành lãi suất ở các nước phát triển 
 Ở Mỹ. 
Hệ thống lãi suất Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) gồm hai hình thức lãi suất sau: 
- Lãi suất chiết khấu (Discount Rate): Trong đó bao gồm Lãi suất tín dụng chính 
(Primary credit), Lãi suất tín dụng mở (Secondary credit) và Lãi suất thời vụ 
(Seasonal credit) 
- Lãi suất quỹ dự trữ liên bang (Federal Funds Rate) 
Các NHTM của Mỹ, giống như ở các nước, bị buộc phải giữ một lượng tiền mặt nhất 
định tại Cục Dự trữ Liên bang (tức là ngân hàng trung ương của Mỹ thường được gọi tắt 
là FED). Lượng tiền này, trên tổng số tiền gửi không kỳ hạn, ít nhất phải bằng tỷ lệ dự trữ 
bắt buộc mà FED đặt ra. Vì số tiền dự trữ bắt buộc không được trả lãi suất nên các 
NHTM M ỹ luôn giữ ở mức sát với tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Khi một NHTM có nguy cơ 
không đảm bảo được tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì ngân hàng đó phải vay trên thị trường liên 
ngân hàng lượng dự trữ bắt buộc còn thừa của các ngân hàng khác. Lãi suất cho vay dự 
trữ bắt buộc giữa các NHTM được FED ấn định và gọi là Lãi suất quỹ dự trữ liên bang 
(Fed funds rate) . 
Nếu vì lý do nào đó mà cung quỹ dự trữ liên bang trên thị trường không đủ cầu và lãi suất 
liên ngân hàng cho quỹ dự trữ có nguy cơ vượt lãi suất quỹ dự trữ liên bang thì FED sẽ 
can thiệp ngay lập tức qua hoạt động thị trường mở (OMO) mua lại trái phiếu chính phủ 
5 
Mỹ để bơm thêm tiền dự trữ vào hệ thống ngân hàng. Vì FED mua lại trái phiếu chính 
phủ với lãi suất tái chiết khấu đúng bằng lãi suất quỹ dự trữ liên bang được công bố trước 
đó nên không NHTM nào lại đi vay liên ngân hàng với lãi suất cao hơn lãi suất quỹ dự 
trữ liên bang để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc cả. Bởi vậy lãi suất quỹ dự trữ liên bang sẽ 
là lãi suất trần trên thị trường liên ngân hàng nếu các NHTM tham gia vào thị trường này 
chỉ để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. 
Bên cạnh nhu cầu đảm bảo lượng dự trữ tối thiểu, các NHTM còn có nhu cầu quản lý 
thanh khoản của mình, tức là đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn trong 
đó bao gồm nhu cầu rút tiền của những người gửi tiền không thời hạn. Khi các NHTM 
Mỹ có nguy cơ thiếu thanh khoản, họ có thể vay tiền từ hai nguồn: cửa sổ chiết khấu của 
FED (discount window) hoặc trên thị trường liên ngân hàng. Về cơ bản, FED ấn định lãi 
suất cho vay tại các cửa sổ chiết khấu gọi là lãi suất chiết khấu (discount rate) thông thường 
cao hơn lãi suất quỹ dự trữ liên bang khoảng 0.5% đến 1%. Đây chính là chức năng “người 
cho vay cuối cùng” (lender of last resort - LOLS) của một ngân hàng trung ương. 
Nếu vay trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất sẽ do hai bên thỏa thuận và lãi suất trung 
bình trên thị trường này hàng ngày sẽ được 16 NHTM lớn nhất Mỹ báo cáo cho BBA 
(British Bankers Association) để tổ chức này tính lãi suất liên ngân hàng trung bình cho 
ngày hôm đó rồi công bố trên thị trường tài chính với cái tên LIBOR. Về mặt lý thuyết, 
LIBOR cho thị trường liên ngân hàng của M ỹ sẽ phải thấp hơn lãi suất chiết khấu của 
FED vì nếu cao hơn thì các NHTM sẽ quay về vay tiền của FED từ cửa sổ chiết khấu. 
Trên thực tế các NHTM thường tránh không vay từ cửa sổ chiết khấu vì họ không muốn 
bị mang tiếng là tình hình thanh khoản và mức độ rủi ro tín dụng quá xấu đến mức không 
vay được trên thị trường liên ngân hàng nữa mà buộc phải quay về “người cho vay cuối 
cùng” cầu cứu. Bởi vậy trong những giai đoạn khủng hoảng tài chính đôi khi LIBOR cao 
hơn discount rate, nhưng nhìn chung lãi suất này thường thấp hơn discount rate và có thể 
coi discount rate là lãi suất trần của LIBOR trên thị trường liên ngân hàng. 
Ngược lại LIBOR thường cao hơn lãi suất dự trữ liên bang khoảng 0.1% (tuy cũng có 
lúc tăng lên đến 0.7%) vì các N HTM khi cho vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng 
luôn tính đến rủi ro tín dụng khi đối tác của mình không trả được nợ. Chính cái khoảng 
chênh lệch 0.1% giữa LIBOR và lãi suất dự trữ liên bang là rủi ro tín dụng mà các 
6 
NHTM cộng thêm vào khi cho các NHTM khác vay liên ngân hàng để quản lý rủi ro 
thanh khoản. Sở dĩ khi cho vay quỹ dự trữ (sẽ được giữ trên tài khoản tại FED) các 
NHTM không tính đến rủi ro tính dụng vì đối tác không được rút quỹ dự trữ về cho các 
mục đích thanh khoản nên kể cả khi đối tác phá sản số tiền cho vay dưới dạng quỹ dự trữ 
cũng không bị mất. Điều đó có nghĩa là lãi suất quỹ dự trữ liên bang là lãi suất sàn cho 
LIBOR trên thị trường liên ngân hàng. 
Như vậy, trong hệ thống ngân hàng của M ỹ, lãi suất liên ngân hàng LIBOR mà các 
NHTM vay để quản lý thanh khoản thường dao động trong khoảng giữa lãi suất dự trữ và 
lãi suất chiết khấu là hai công cụ chính sách mà FED quản lý được trực tiếp. Vì gần như 
tất cả các loại lãi suất thương mại khác đều lấy LIBOR làm chuẩn nên khi FED thay đổi lãi 
suất dự trữ và lãi suất chiết khấu thì về bản chất FED đã làm thay đổi lãi suất thương mại 
trên toàn bộ thị trường vốn của Mỹ. Tức là FED thực thi các chính sách tiền tệ của mình 
thông qua việc điều hành hai lãi suất cơ bản nói trên hoàn toàn qua cơ chế thị trường. 
 Cơ chế điều hành lãi suất ở Anh. 
Tại đất nước Anh Ngân hàng trung ương điều hành lãi suất dựa trên lãi suất chính thức 
(Official Rate). Lãi suất chính thức này có biên độ giao động lên xuống 1% , biên độ này 
áp dụng cho tất cả trong tháng. Tuy nhiên tại kỳ duy trừ lượng dự trữ lại Ngân hàng trung 
ương thì sự giao động giảm xuống chỉ còn lên xuống 0,25% áp dụng cho lãi suất liên 
ngân hàng kỳ hạn dưới 3 tháng. Sự quy định này buộc các NHTM ở Anh phải điều chỉnh 
các hoạt động của mình sao cho vừa đủ lượng dự trữ bắt buộc tại NHTW vừa có đủ khả 
năng thanh toán mà vẫn hoạt động hiệu quả. 
 Cơ chế điều hành lãi suất ở Nhật. 
Ngân hàng trung ương Nhật Bản điều hành chính sách lãi suất thông qua lãi suất đồng 
Yên Nhật, nó bao gồm lãi suất cho vay cơ bản và lãi suất chiết khấu cơ bản (Basic 
discount rate và Basic loan rate). 
 Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng trung ương Châu Âu 
Các công cụ để Ngân hàng trung ương Châu Âu thực hiện để thi hành chính sách lãi suất 
của mình bao gồm: 
7 
- Lãi suất cho hoạt động tái cấp vốn chính (Main refinancing operations – MRO) 
- Lãi suất cho các phương tiện tiền gửi thường xuyên (Deposit Facility) 
- Lãi suất cho các phương tiện vay giới hạn (Marginal Lending Facility) 
2. Cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam 
Không giống như lãi suất ở các nước phát triển khác, lãi suất Việt nam bao gồm ba loại 
lãi suất sau: 
- Lãi suất cơ bản: do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín 
dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi 
suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà 
nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-
cầu vốn. 
- Lãi suất tái chiết khấu: lãi suất tái chiết khấu là lãi suất thực hiện trên cơ sở đối 
tượng là các giấy tờ có giá. VD: Hối phiếu, lệnh phiếu, Trái phiếu , ...Các ngân hàng 
sẽ chấp nhận trả tiền cho người cầm (hoặc sở hữu các giấy đó để đổi lại một khoản 
lời mà ta gọi là lãi suất chiết khấu và thu lại khoản tiền của họ đối với người thanh 
toán ghi trên đó khi đến hạn. Các ngân hàng này lại cần tiền nhưng các giấy tờ đó 
chưa đến hạn thanh toán họ bán lại các khoản sẽ thu này cho NH TW để đổi lấy tiền 
mặt và bớt lại cho NHTW một khoản, ta gọi đó là lãi suất tái chiết khấu. 
- Lãi suất tái cấp vốn: Cũng gần giống như hình thức của lãi suất tái chiếu khấu đối 
tượng ở đây là các khoản cho vay của các NH TM, và sau đó họ bán lại các khoản 
này cho NH TW để đổi lấy lương tiền mặt gọi là lãi suất tái cấp vốn. 
Thông qua ba loại lãi suất trên Ngân hàng nhà nước Việt Nam điều hành sẽ tác động trực 
tiếp đến lãi suất vay mượn trên thị trường. Luật Ngân hàng quy định lãi suất cho vay của 
các NHTM và các tổ chức tín dụng không được vượt quá 150% so với lãi suất cơ bản mà 
Ngân hàng nhà nước công bố. Do đó với một mức thay đổi lãi suất cơ bản bất kỳ của 
Ngân hàng nhà nước sẽ tác động trực tiếp và ngay lập tức đến các lãi suất trên thị trường. 
8 
Chương II. THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN 
VÀ Ở VIỆT NAM. 
I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở CÁC NƯỚC 
PHÁT TRIỂN VÀ Ở VIỆT NAM. 
1. Đặc điểm chung cơ chế điều hành lãi suất ở các nước phát triển 
 Mỗi nước có một tên gọi khác nhau đặt cho lãi suất của NHTW 
Căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ, căn cứ vào thực trạng hoạt động của hệ thống tài 
chính và thực trạng hoạt động của nền kinh tế Ngân hàng Trung ương các nước đưa ra 
một mức lãi suất được gọi là lãi suất cơ bản để các lãi suất khác tham chiếu vào tự điều 
chỉnh theo. Mỗi nước có một tên gọi khách nhau về lãi suất cơ bản để Ngân hàng trung 
ương nước đó công bố (ví dụ ở M ỹ đó là lãi suất quỹ dự trữ liên bang, ở Anh đó là lãi 
suất chính thức, ở Nhật đó là lãi suất đồng Yên..) tuy nhiên tất cả đều là công cụ để các 
NHTW thực hiện các chính sách điều hành lãi suất. 
Lãi suất ở đây được gọi là lãi suất cơ bản vì nó là căn cứ để các loại hình lãi suất khác 
trên thị trường tự điều chỉnh theo, sao cho phù hợp và đây cũng là lãi suất cho khách 
hàng vay với độ rủi ro bằng không, vì nó được đảm bảo bởi Ngân hàng trung ương chính 
nước đó. 
 Lãi suất do NHTW công bố chỉ mang tính chất mục tiêu, không mang tính áp 
đặt hành chính. 
Ở Mỹ, khi công bố lãi suất cục dự trữ liên bang, FED không có một quy định, quy chế 
nào bắt buộc các tổ chức tín dụng khác phải áp dụng đúng theo mức lãi suất đó, cũng như 
không có bất cứ hình phạt náp để buộc một tổ chức không vi phạm. Ví dụ vào ngày 18 
tháng 03 năm 2008, FED công bố thực hiện cắt giảm lãi suất cơ bản từ 3% xuống 2,25%, 
tuy nhiên các ngân hàng hoàng toàn tự quyết định lãi suất đi vay và cho vay của mình đối 
với khác hàng. Các ngân hàng thương mại có thể đi vay với mức cao hơn 2,25%, và cũng có 
thể cho vay với mức dưới 2,25% hoặc ngược lại, FED không cam thiệt. Tuy nhiên tất cả các 
9 
ngân hàng lại luôn theo dõi sát sao việc lãi suất quỹ dự trữ liên bang mà FED công bố. Vì 
sao vậy? trong khi họ có toàn quyền quyết định trong việc cho vay và đi vay bao nhiêu. 
Nguyên nhân ở chỗ mỗi mức lãi suất FED công bố ra mang trong đó rất nhiều tín hiệu 
của nền kinh tế cũng như chưa đựng nhiều dự báo cho các chính sách tiền tệ tiếp theo sau 
mà FED sẽ thực thi. Xét thời điểm tháng 03 năm 2008. Cuộc khủng hoảng kinh tế có dấu 
hiệu trầm trọng hơn nhiều so với dự báo của các chuyên gia, tiêu biểu là Bear Stearns - 
investment bank lớn thứ 5 của Mỹ đang đứng trước nguy cơ phá sản. Trước tình hình đó 
FED công bố giảm lãi suất cục dự trữ liên bang từ 3% xuống còn 2,25%, cùng lúc đó 
FED mở thêm cả nghiệp vụ TSLF, PDCF và tăng giới hạn các swap lines đã được mở từ 
tháng 12/2007, đây là những tín hiệu cho thấy nền kinh tế Mỹ thực sự cần những chính 
sách mạnh tay hơn để thực thi chính sách nới lỏng tiền tệ. Với những chính sách này 
buộc các NHTM phải chiều chính ngay lập tức chính sách hoạt động của mình cho phù 
hợp với tình hình mới. 
 NHTW sau khi công bố lãi suất sẽ dùng nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết 
nhằm hướng lãi suất cho vay qua đêm sao cho gần sát với lãi suất công bố. 
Tại Mỹ, tuy không công bố ra nhưng nhìn trên thị trường ta dễ dàng nhận ra rằng lãi suất 
quỹ dự trữ liên bang đóng vai trò là lãi suất trần, còn lãi suất chiết khấu đóng vai trò là lãi 
suất sàn. 
Một điểm rất quan trọng cần lưu ý là để hệ thống này hoạt động trơn chu, FED phải cam 
kết bảo vệ lãi suất quỹ dự trữ liên bang và lãi suất chiết khấu thông qua thị trường mở và 
cửa triết khấu bất kỳ khi nào lãi suất cho quỹ dự trữ hoặc LIBOR có xu hướng phá vỡ 
trần trên thị trường liên ngân hàng. Điều này tương đương với việc FED cam kết thực 
hiện chức năng người cho vay cuối cùng cho các NHTM trong mọi trường hợp. Không 
chỉ trong những lúc các NHTM lâm vào tình trạng khủng hoảng thanh khoản mà ngay cả 
khi hệ thống ngân hàng đang hoạt động bình thường FED vẫn phải thực hiện chức năng 
người cho vay cuối cùng cung cấp quỹ dự trữ và thanh khoản cho những NHTM nào có 
nhu cầu. Tuy nhiên cơ chế này cần một điều kiện nữa là các NHTM phải nắm giữ một 
lượng trái phiếu chính phủ đủ lớn để tham gia vào thị trường mở hoặc vay tiền mặt từ cửa 
sổ triếu khấu. 
10 
Trong giai đoạn đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng cho vay bất động sản dưới chuẩn 
(subprime mortgage) vào những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008, nhiều NHTM 
gặp khó khăn về thanh khoản và bắt đầu cạn kiệt trái phiếu chính phủ. Đồng thời rủi ro 
tín dụng trên thị trường tăng cao dẫn đến nguy cơ LIBOR vượt ra ngoài giới hạn thông 
thường, Đối phó với tình trạng này, FED đã tung ra hai công cụ điều hành tiền tệ hoàn 
toàn mới là TAF (Term Auction Facility) và TSLF (Term Securities Lending Facility), về 
bản chất là cho phép các NHTM và một số tổ chức tài chính lớn (primary dealers) được 
phép dùng các loại trái phiếu thương mại để vay tiền mặt hoặc trao đổi (swap) trái phiếu 
thương mại lấy trái phiếu chính phủ từ FED. Mục tiêu cuối cùng của việc đưa ra hai công 
cụ tiền tệ mới này là để ổn định tính thanh khoản trong hệ thống tài chính và bảo vệ lãi 
suất quỹ dự trữ liên bang và lãi suất chiết khấu trên thị trường liên ngân hàng khi hệ 
thống bị khủng hoảng. Cho đến thời điểm này, TAF và TSLF đã có những thành công 
nhất định trong việc ổn định thị trường nên FED dự tính sẽ giữ hai công cụ mới này lâu 
dài chứ không phải chỉ hạn chế trong khoảng 600 tỷ USD ban đầu. 
 Việc điều chỉnh lãi suất của NHTW có tác động trực tiếp đến các trung gian tài 
chính, không tác động trực tiếp đến người tiêu dùng và doanh nghiệp. 
Hai công cụ lãi suất mà cục dự trữ liên bang M ỹ sử dụng điều chỉnh để thực thi chính 
sách tiền tệ là Lãi suất cục dự trữ liên bang (Fed funds rate) và Lãi suất chiết khấu 
(discount rate), nhưng về bản chất FED làm thay đổi lãi suất thương mại trên toàn bộ thị 
trường vốn của Mỹ1. 
 Thời điểm công bố lãi suất được ấn định cụ thể, rõ ràng và công khai. 
Mỗi khi Quỹ dự trữ liên bang của Mỹ cắt giảm hay nâng lãi suất, đó là lãi suất qua đêm, 
lãi suất các ngân hàng tính cho nhau khi vay qua đêm để bảo đảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. 
Quyết định nâng, giảm lãi suất chính ra là do Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FEDeral 
Open Market Committee) đưa ra. Cứ 45 ngày (ngoại trừ những trường hợp bất thường), 
Ủy ban này họp một lần để đánh giá chính sách tiền tệ. Ngay cả khi không có bất kỳ sự 
điều chỉnh lãi suất nào thì Ủy ban này vẫn họp và công bố lại lãi suất. Thông tin về các 
lần họp này được công bố công khai tai website của FED và mọi người có thể theo dõi. 
1
 Như đã đề cập tại mục I.1 trên 
11 
 Hầu hết ở các nước lãi suất được ấn định bởi một hội đồng (hay ủy ban). 
Hội đồng này ở Mỹ được gọi là Ủy ban thị trường mở Liên bang. Ủy ban này gồm 7 
thành viên của Hội đồng Thống đốc của Hệ thống Dự trữ Liên bang, và 5 trong số 12 
thống đốc của các ngân hàng dự trữ khu vực. Chủ tịch của Hệ thống Dự trữ Liên bang 
cũng là chủ tịch của Ủy ban thị trường mở Liên bang. Tại các phiên họp các thành viên 
tham dự có quyền bỏ phiếu theo nguyên tắc bình đẳng ngang nhau, không ai có quyền 
lớn hơn ai ngay cả là chủ tịch ngân hàng trung ương hay bất kỳ thành viên nào khác tham 
gia. Kết quả bỏ phiếu được công bố công khai sau đó (theo từng thành viên tham gia), lấy 
mức lãi suất thống kê trên số đông người tham mà không lấy bình quân. Chính quy định 
này ở các nước phát triển buộc các thành viên tham gia bỏ phiếu phải có trách nhiệm về 
lá phiếu của mình, họ có thể phải giải thích cho quyết định của mình trước công chúng 
cũng như chính phủ. 
2. Đặc điểm cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam. 
 Sự điều hành lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước Việt Nam mang tích áp đặt 
hành chính và ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng cũng như các doanh nghiệp. 
Cụ thể như ngày 19/5/2008, Ngân hàng Nhà nước chính thức áp cơ chế cho vay đối với 
VND theo lãi suất tối đa 150% lãi suất cơ bản, do đó các Ngân hàng thương mại hoạt 
động cho vay không được vượt quá mức 150% lãi suất cơ bản mà Ngân hàng nhà nước 
quy định. Như vậy là khi ngân hàng nhà nước công bố lãi suất cơ bản điều chỉnh từ 12% 
lên 14% vào tháng 06 năm 2008 thì cùng với đó mức lãi suất tối đa mà các ngân hàng 
thương mại có thể cho vay cũng tăng từ 18% lên đến 21%. 
Thay vì đặt ra lãi suất mục tiêu cho nền kinh tế và sau đó tiến hành các chính sách để bảo 
vệ lãi suất mục tiêu đó thông qua nghiệp vụ thị trường mở để điều hành lãi suất tái chiết 
khấu và lãi suất tái cấp vồn, từ đó sẽ tác động ngược trở lại lãi suất vay và cho vay trên 
thị trường. Thì ngân hàng nhà nước lại đưa ra lãi suất cơ bản và gần như ấn định luôn cả 
lãi suất vay và cho vay trên thị trường. Hơn nữa khi đưa ra mức lãi suất cơ bản ngân hàng 
nhà nước cũng không hề bảo vệ mức lãi suất đấy, có thể thay đổi bất cứ lúc nào nếu cảm 
thấy cần thiết. Mức quy định cho vay không được vượt qua 150% lãi suất cơ bản đưa ra 
cũng không có luận chứng khoa học xác thực, gần như đây chỉ là con số ngẫu nhiên. 
12 
Ngân hàng nhà nước căn cứ vào đấy buộc các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín 
dụng khác phải tuân theo. Và cũng chỉ có các hình phạt hành chính áp dụng khi vi phạm. 
Tuy nhiên thực tế cho thấy hầu hết các quan hệ vay mượn tại các NHTM đề không tuân 
thủ theo quy định này dưới hình thức này hay hình thức khác mà NHNN không thể kiểm 
soát hết được. 
 Mức lãi suất cơ bản mà NHNN công bố không công bố cụ thể những thành viên 
đưa ra quyết định này. 
Kết quả cuối cùng mà khi NHNN công bố mức lãi suất cơ bản chỉ là kết quả cuối cùng 
của cuộc họp và không có thành viên nào phải đứng ra chịu trách nhiệm về quyết định 
này. Vì thế một khi mức lãi suất đó không điều tiết được thị trường thì NHNN sẵn sàng 
hủy bổ, hay thay đổi đến một mức lãi suất khác. 
Tuy NHNN Việt Nam cũng họp và công bố lãi suất cơ bản, nhưng lịch họp và công bố lãi 
suất cũng chưa được xác định rõ ràng. Còn nhiều thay đổi tùy vào tình hình từng kỳ họp. 
Nhà đầu tư không thể chủ động để nắm bắt tình hình được dẫn đến thế bị động theo từng 
quyết định của NHNN. 
II. THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH LÃI SUẤT Ở CÁC NƯỚC VÀ Ở VIỆT NAM 
THỜI GIAN QUA . 
1. Thực trạng điều hành lãi suất ở các nước phát triển. 
Tại các nước phát triển Lãi suất được điều hành nhằm thực hiện mục tiêu tiền tệ quốc gia. 
Cách thức NHTW điều hành lãi suất phụ thuộc vào tình hình kinh tế khác nhau ở các thời 
điểm. 
- Khi nền kinh tế kém phát triển, trì trệ suy thoái hay lâm và khủng hoảng, Chính phủ 
muốn thúc đẩy kinh tế tăng trưởng mạnh hơn, NHTW sẽ cắt giảm lãi suất, mở rộng 
điều điện tín dụng, cho vay với lãi suất thấp, khiến NHTM tăng cường đi vay từ 
NHTW, đồng thời hạ lãi suất cho vay đối với khách hàng vay vốn của mình. Điều 
này sẽ kích thích tiêu dùng trong nền kinh tế, kích thích sản xuất gia tăng. 
- Khi nền kinh tế tăng trưởng nóng, hay có lạm phát cao, chính phủ muốn “hạ nhiệt” 
nền kinh tế lại, NHTW tăng lãi suất, và thắt chặt lại điều kiện tín dụng, NHTM 
13 
không thể đi vay hoặc đi vay rất khó khăn, buộc NHTM phải điều chỉnh lại lãi suất 
của mình trên thị trường đối với việc cho vay cũng như đi vay, từ đó tắc động đến 
nền kinh tế như tăng tiết kiệm, giảm hoạt động mở rộng sản suất, 
 Xét tình hình kinh tế ở Mỹ thời gian qua. 
Khi nước Mỹ lâm vào khủng hoảng trầm trọng: Nhìn vào mức độ tăng trưởng GDP hàng 
quý của M ỹ từ năm 2007 đến hết năm 2008, ta có thể thấy rằng trong quý I năm 2007 
GDP tăng trưởng rất nhỏ, gần như ở mức không, sang quý 4 /2007, tấc độ tăng trưởng trở 
nên âm, dấu hiệu cho thây kinh tế Mỹ đang suy thoái một cách nghiêm trọng. 
Tính đến hết tháng 12/2008, tổng số việc làm bị cắt giảm trong năm 2008 ở Mỹ đã lên tới 
2,6 triệu, đẩy tỷ lệ thất nghiệp lên mức 7,2%. Đây là mức cao nhất trong khoảng 10 năm 
trở lại đây. 
Tiêu dùng cá nhân, một yếu tố đóng góp lớn vào sự tăng trưởng của nền kinh tế M ỹ, 
trong quý 3/2008 đã sụt giảm tới 3,8% so với quý trước đó. Trong đó, hàng hóa lâu bền 
như nhà cửa, ôtô, máy móc đã sụt giảm rất mạnh trong quý 3/2008 lên tới 14,8% sau khi 
đã giảm liên tiếp từ quý 1 và quý 2/2008 với mức giảm tương ứng là 4,3% và 2,8% so với 
quý liền trước đó. 
Sản xuất công nghiệp của Mỹ suy giảm 4 quý liên tiếp tính từ quý 4/2007. Mức độ sụt 
giảm càng về cuối năm 2008 càng mạnh hơn, nếu như quý 1/2008 mới chỉ giảm nhẹ 
0,1% thì tới quý 3/2008 đã giảm 1,3%. 
Trong hoàn cảnh này chính phủ M ỹ phải hành động để phục hồi lại nền kinh tế, và cắt 
giảm lãi suất thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ là một trong những biện pháp được 
thực hiện. 
14 
Ngay từ tháng 02 năm 2008 Fed đã chính thức tuyên bố bước vào chu kỳ nới lỏng, cùng 
với số liệu thống kê tăng trưởng GDP Q4 năm 2007 âm, Quốc hội Mỹ đã thông qua một 
kế hoạch kích thích tài chính trị giá $168 tỉ dưới hình thức hoàn thuế. Sang tháng 03 năm 
2008, với sự kiện Bear Stearns, ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ đang đứng trên bờ 
vực phá sản, cùng với nhiều biệm pháp nhằm giải cứu Bear Stearns, Ngân hàng liên bang 
Mỹ (FED) đã thực hiện cắt giảm lãi suất 02 lần khá mạnh. 
 - Vào ngày 16/03 /2008: FED cắt giảm lãi suất chiết khấu từ 3,5% xuống còn 3,25% 
- Vào ngày 18/03/2008: FED lại tiếp tục cắt giảm lãi suất chiết khấu từ 3,25% xuống 
2,25% và cắt giảm lãi suất cơ bản từ 3% xuống 2,25%, giảm 75 điểm phần trăm là một 
mức cắt giảm rất mạnh nếu so với mức cắt giảm thông thường trước đây: đa số là tăng 
giảm trong biên độ 25 điểm phần trăm, rất ít khi lên tới 50 điểm phần trăm. 
Trước đó FED cũng đã có nhiều lần cắt giảm: Mở màn là tháng 9/2007, lần đầu tiên sau 4 
năm, Fed đã cắt giảm hẳn 50 điểm phần trăm, từ mức 5,25% xuống mức 4,75%/năm. 
Liền sau đó, tháng 11/2007, Fed đã cắt giảm 25 điểm phần trăm, từ mức 4,75% xuống 
mức 4,5%/năm. Đến đầu tháng 12/2008, lãi suất đã được cắt xuống 4,25%. Trước đó nữa, 
hôm 20/8, Fed cũng đã cắt giảm lãi suất nhưng chỉ là cắt giảm đối với các khoản tiền cho 
các ngân hàng vay nhằm giúp giải quyết vấn đề về khả năng thanh khoản. Và đến thời 
điểm hiện nay mức lãi suất cơ bản ở M ỹ chỉ giữ khoảng 0% - 0.25% (xem biểu đồ trên). 
15 
Động thái giảm lãi suất trên sẽ có tác động rất lớn bởi khi Fed cắt giảm lãi suất cho các 
ngân hàng vay tiền thì các ngân hàng dễ tiếp cận nguồn tiền hơn, qua đó giúp giải quyết 
vấn đề về khả năng thanh khoản để ngăn ngừa nguy cơ khủng hoảng tài chính. 
 Xét nền kinh tế Nhật Bản thời gian qua. 
- Vào ngày 31/10/2008: Ngân hàng trung ương Nhật bản, ra quyết định giảm lãi suất 
đồng Yên từ 0.5% xuống 3% sau 7 năm giữ nguyên mức lãi suất này. 
- Vào ngày 19/12/2008: lãi suất cơ bản đồng Yên giảm xuống chỉ còn 0.1%. 
Cũng tương tự như ở M ỹ, chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu kinh tế 
Nhật Bản hầu như không tăng trưởng suốt năm 2007 và năm 2008, thậm chí quý 4 năm 
2008, tỷ lệ tăng GDP ở mức lớn hơn 3%. 
Nếu nhìn vào tình hình lạm ở N hật ta thấy Chính phủ Nhật phải liên tục đối phó với tình 
trạng giảm phát. M ức lạm phát cao nhất ở Nhật trong hai năm 2007 – 2008 chưa đạt mức 
2,5%, mà hầu hết các quý đều dưới 1%. Hậu quả của nó là tăng tỷ lệ thất nghiệp và mất 
việc làm Chính nguyên nhân này khiến NHTW Nhật phải cắt giảm mạnh lãi suất giử ở 
mức gần như 0%. 
Trong lịch sử Nhật bản cũng đã từng cắt giảm mạnh lãi suất, khi mà bong bóng chứng 
khoản năm 1989, và tình trạng làm ăn thua lỗ của các ngân hàng, để cứu nền kinh tế 
16 
chính phủ Nhật bản liên tục cắt giảm lãi suất từ năm 1990 từ 6% xuống còn 0.5% và đầu 
năm 1995, thậm chí năm 2001 Nhật bản áp dụng mức lãi suất cơ bản 0%. 
Tuy nhiên khi nền kinh tế phục hồi trở lại chính phủ Nhật bản tăng dần lãi suất cơ bản 
lên, thoái khỏi tình trạng lãi suất 0% kéo dài xuốt 6 năm nhằn khôi phục kinh tế. 
2. Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt Nam. 
Câu hỏi đặt ra là liệu Chính phủ Việt Nam có điều hành lãi suất như các quốc gia trên 
thế giới không? Và hiệu quả của các lần can thiệt như thế nào trong cuộc khủng hoảng 
vừa qua? 
Để đánh giá chính xác những chính sách của NHNN Việt nam trước tiên chúng ta tìm 
hiểu sơ bộ về kinh tế Việt nam thời gian qua năm 2007 – 2008. 
Một điểm mổi bật mà bất kỳ ai cũng có thể nhận xét về kinh tế Việt Nam là tỷ lệ lạm phát 
rất cao và được đo lường theo tháng, thay vì theo năm: mức tăng liên tục 2% /tháng và 
đỉnh điểm là tháng 2 và tháng 5 năm 2008. 
Và không chỉ có năm 2008, lạm phát Việt Nam mới tăng cao như vậy mà ngay từ các 
năm trước Lạm phát ở Việt nam cũng đã cao hơn các nước khác trong khu vực kể cả 
Trung Quốc. Thông qua số liệu thống kê trên ta có thể thấy điều đó. 
17 
Trước tình hình kinh tế lạm phát cao như vậy, NHTW liên tục điều hành lãi suất cơ bản 
nhằm điều tiết thị trường Cuộc điều chỉnh lãi suất năm 2008 lại chủ yếu nhằm kiềm chế 
lạm phát đang có xu hướng tăng mạnh thời điểm đầu năm . 
Biểu đồ lãi suất cơ bản của NHNN Việt Nam ta có thể thấy hai cột mốc đáng chú ý là: 
- Tháng 6/2008, NHNN tăng lãi suất chiết khấu từ 13 lên 15, lãi suất cơ bản từ 12% 
lên 14% cùng với đó là biên độ lãi suất cho vay của NHTM có thể lên tới 21%. Việc 
tăng lãi suất sẽ khiến lượng tiền trong lưu thông giảm xuống vì người có vốn thay 
vì đem vốn đầu tư hoặc mua chứng khoán sẽ mang đến gửi ở ngân hàng nhiều 
hơn. Đối với các Doanh nghiệp, việc các tăng lãi suất sẽ khiến họ hạn chế vay vốn 
mở rộng đầu tư và sẽ phải tiết kiệm nhiều hơn trong chi tiêu. Chính vì vậy , nó sẽ có 
tác dụng giảm lượng tiền trong lưu thông , giúp Nhà nước có thể kiềm chế được lạm 
phát ổn định nền kinh tế . 
- Đến tháng 10/ 2008: NHNN bắt đầu cắt giảm lãi suất bởi tỷ lệ lạm phát từ tháng 9 có 
dấu hiệu được kiểm soát, mức tăng lạm phát sấp xỉ 0%. Và đến tháng 2/2009 lãi 
suất cơ bản giảm xuống chỉ còn 7%, như vậy biên độ cho vay tối đa có thể cũng 
giảm xuống đến 10,5%. Nhằm giữ mức lạm phát tương đối cho kinh tế phát triển. 
18 
Chương III. ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. 
I. ƯU ĐIỂM: 
- Một là, việc áp dụng kịp thời cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đã phần nào ngăn 
chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các 
NHTM trong cuộc khủng hoảng những tháng đầu năm 2008. Khắc phục được tình 
trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các NHTM bằng cách 
đẩy lãi suất lên cao, ổn định và hoạt động của các NHTM đảm bảo khả năng thanh 
toán, làm lãi suất trong những tháng đầu năm 2009 tương đối ổn định. 
- Hai là, các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt 
động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, cụ thể là lãi suất thị trường liên 
ngân hàng từ chỗ bị đẩy lên rất cao có lúc lên đên 41%, đã biến động ổn định lại và 
xoay quanh các mức lãi suất chủ đạo của NHNN. Năm 2008 và những tháng đầu 
năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ 
trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng. 
- Ba là, việc điều hành linh hoạt lãi suất cơ bản, vừa là công cụ điều tiết thị trường, 
vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành 
chính sách tiền tệ của NHNN là “thắt chặt” hay “nới lỏng” tiền tệ. Kết quả này có ý 
nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính 
sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô. 
- Bốn là, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật NHNN và 
Bộ luật Dân sự, mục tiêu của chính sách tiền tệ hiện nay và các năm tới đây là kiểm 
soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững. 
II. HẠN CHẾ: 
Tuy vậy chính sách lãi suất đã có những thành tựu nhất đinh, song vẫn còn những hạn 
chế cần tháo gỡ. 
- Một là: có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và đưa ra thị trường các sản phẩm tín 
dụng có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường. Xử lý vấn đề này, 
NHNN đã ban hành cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận đối với các nhu cầu vốn phục 
19 
vụ đời sống và phát hành thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê, theo dõi 
và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro. 
- Lãi suất cơ bản do NHNN quy định chưa dựa trên một cơ sở khoa học nào và mức 
giới hạn 150% đã được duy trì trong khoảng thời gian dài trong khi thực tế nền kinh 
tế đã có nhiều thay đổi. 
- NHNN điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lãi suất cho vay của các NHTM. Tuy là 
phương pháp này sẽ phát huy hiệu quả ngay lập tức đối với nền kinh tế nhưng dễ bị sốc. 
- Bên cạnh đó, lãi suất cơ bản được ban hành ra dựa trên quy định hành chính để tác 
động đến thị trường mà không có cơ chế bảo vệ. Như thời gian vừa qua, lãi suất cho 
vay thị trường liên ngân hàng liên tục vượt khỏi mức giới hạn 12%/năm, có khi đạt 
đỉnh điểm gần 30%/năm. 
III. VIỆT NAM CÓ NÊN GIỮ LÃI SUẤT CƠ BẢN. 
Đã có rất nhiều tranh luận xung quanh vấn đề NHNN Việt Nam nên giữ hay không giữ lãi 
suất cơ bản hiện nay, để trả lời câu hỏi này trước tiên chúng ta hãy nhìn lại tình hình nền kinh 
tế nước ta thời điểm hiện nay và những gì mà lãi suất cơ bản đã và đang thực hiện. 
Theo kinh nghiệm của quá trình tự do hoá lãi suất ở các nước và nước ta trong nhiều năm 
qua cho thấy điều kiện để tự do hoá lãi suất là kinh tế vĩ mô ổn định, thị trường tài chính 
– tiền tệ minh bạch và có chiều sâu, mục tiêu chủ yếu của chính sách tiền tệ là kiểm soát 
lạm phát; phát triển hệ thống thanh toán có khả năng kiểm soát được hầu hết các luồng 
vốn khả dụng của khu vực ngân hàng, chứng khoán và các định chế tài chính khác; hệ 
thống NHTM có năng lực cạnh tranh và khả năng đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh; 
ngân sách nhà nước thâm hụt ở mức thấp. Với các điều kiện này, có lẽ nền kinh tế và thị 
trường tài chính – tiền tệ của nước ta hiện nay chưa đáp ứng được. 
Kể từ khi lãi suất cơ bản ra đời vào tháng 6-2000, lãi suất cơ bản (cộng biên độ) ra đời thay 
thế cơ chế lãi suất trần cho vay trước đó. Việc áp dụng lãi suất cơ bản lúc đó được đánh giá là 
một tiến bộ lớn và là một bước đệm cho tiến trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. 
Bước sang năm 2007 lạm phát phi mã xảy ra cộng với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 
năm 2008, buộc NHNN phải thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ tạo ra cuộc chạy đua 
lãi suất giữa các ngân hàng, đẩy mặt bằng lãi suất huy động và cho vay lên đến đỉnh 
20 
điểm. Lãi suất cơ bản nay trở thành một vật cản cho các chính sách tiền tệ và hoạt động 
của các tổ chức tín dụng. Với quy định trần lãi suất cho vay không được vượt qua 150% 
lãi suất cơ bản (hiện nay là 8%), điều này hạn chế khả năng hoạt động của các NHTM, 
tuy nhiên NHNN không thể đưa ra lời giải thích khoa học cho mức lãi suất cơ bản mà 
mình công bố cũng như cho hạn mức 150% áp dụng này. Đồng thời khi công bố ra thị 
trường NHNN cũng không có đủ tiềm lực tác động vào thị trường để bảo vệ mức lãi suất 
công bố đó. Giả sử nếu lãi suất cơ bản mục tiêu 8% một năm thì thay vì NHNN phải can 
thiệp tiền tệ để đưa lãi suất thị trường về với mức lãi suất này, NHNN cần tăng cường 
hoạt động mua vào các giấy tờ có giá trên thị trường mở. Lãi suất tái chiết khấu cũng 
phải điều chỉnh để hỗ trợ khả năng can thiệp của NHNN. Tuy nhiên NHNN không có đủ 
khả năng để cam thiệp và thị trường tiền tệ như ý muốn. 
Thực tế hiện nay là lãi suất cơ bản không phản ánh điều kiện nền kinh tế. Các ngân hàng 
đang tăng lãi suất huy động để duy trì lượng tiền gửi trong khi lại không thể tăng lãi suất 
cho vay lên hơn khiến cho khe hở lãi suất ngân hàng thu hẹp dần đến điểm hòa vốn. 
Trong ngắn hạn, một số các ngân hàng có thể sẽ chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc thậm chí 
thua lỗ để giữ chân người gửi tiền nhưng về dài hạn thì điều này sẽ ảnh hưởng đến tiết 
kiệm của nền kinh tế. Vả lại, khi kỳ vọng lạm phát tăng lên thì lãi suất danh nghĩa cũng 
cần phải tăng tương ứng để duy trì mức lãi suất thực cho người gửi tiền. 
Với những điều kiện trên, NHNN Việt Nam nên bỏ lãi suất cơ bản thay vào đó cần tập 
trung xác định mục tiêu chính sách tiền tệ hợp lý và tập trung vào điều hành lãi suất 
thông qua các cơ chế lãi suất liên ngân hàng để tác động đến lãi suất qua đêm liên ngân 
hàng thay vì tác động trực tiếp đến người vay và cho vay. Việc dở bổ lãi suất cơ bản là 
hợp lý để tại điều kiện cho sự tự do cho nền tiền tệ cũng như loại bỏ bớt những quy định 
hành chính trong nền kinh tế. 
21 
KẾT LUẬN 
Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính phủ sử dụng lãi suất như một 
công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng tiền cung ứng. Thông 
qua sự biến động của lãi suất, người ta có thể dự đoán nền kinh tế đang phát triển hay 
đang suy thoái. Thời gian qua, cơ chế điều chỉnh lãi suất của Việt Nam đã có những cố 
gắng trong việc tự do hóa cũng như cải thiện tính hiệu quả, tuy nhiên nhiều biện pháp đưa 
ra hiện nay chỉ mang tính tình thế, chấp vá và manh mún. 
Bản thân lãi suất là sự phản ánh quan hệ cung cầu vốn trên thị trường, do đó nó nên do 
bản thân thị trường quyết định, không nên mang nặng tính hành chính. Trong những điều 
kiện và thời điểm thích hợp, lãi suất cần được tự do hóa và kết hợp một cách linh hoạt với 
các công cụ khác như nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc nhằm phát huy tối đa vai 
trò điều tiết của nó. Diễn biến của kinh tế thế giới ngày càng phức tạp, do đó, chỉ có 
những công cụ phản ánh được tính khách quan của thị trường mới có thể giúp cho các 
biện pháp và chính sách được thực thi một cách có hiệu quả nhất. 
22 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thị Cành, Hoàng Công Gia Khánh, Tài chính phát triển, NXB 
ĐHGQ,2009 
2. Nguyễn Duệ, Ngân hàng Trung ương, NXB thống kê, 2003 
3. Các website: 
-  fedralreserve.gov 
-  sbv.gov.vn 
- Saga.vn 
- vietstock.com.vn 
- Diễn đàn vanginfo.com.vn 
- VietNamNet.vn 
- Vneconomy.vn 
4. Các tạp chí: 
- Đầu tư tài chính 
- Thời báo kinh tế Sài Gòn, 
- Tạp chí The Economist 
5. Các tài liệu tham khảo khác. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_co_che_dieu_hanh_lai_suat_cua_nhtw_o_mot_so_nuoc_v.pdf