Tiểu luận Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Bánh kẹo Hải Châu

pdf 108 trang yenvu 06/10/2024 350
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Bánh kẹo Hải Châu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Bánh kẹo Hải Châu

Tiểu luận Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Bánh kẹo Hải Châu
TIỂU LUẬN: 
Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh 
của công ty bánh kẹo Hải Châu 
Lời nói đầu 
 Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các chủ thể tham gia phải biết tôn trọng các qui 
luật kinh tế khách quan của nó, trong đó có qui luật cơ bản: Cạnh tranh. Nền kinh tế 
thị trường càng phát triển thì cạnh tranh càng gay gắt. Các doanh nghiệp Việt Nam 
muốn tồn tại và phát triển không còn lựa chọn nào khác là phải sẵn sàng chấp nhận 
cạnh tranh. Hơn thế nữa, nền kinh tế Việt Nam không thể đứng ngoài thị trường thế 
giới: Năm 2002, Hiệp định thương mại Việt Mỹ thực tế đi vào cuộc sống kèm theo lộ 
trình đi tới tự do hoá hoàn toàn thương mại và đầu tư. Năm 2003, khu vực mậu dịch 
tự do asean (AFTA) bắt đầu có hiệu lực. Và những năm tiếp theo, chúng ta sẽ gia 
nhập WTO. Đó là những thời khắc có ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế nước nhà. 
Doanh nghiệp Việt Nam, sản phẩm Việt Nam sẽ phải chiến đấu ngay trên sân nhà và 
trên sân chơi toàn cầu để tồn tại. Khi mọi hàng rào mậu dịch sẽ phải lần lượt gỡ bỏ, 
để có đủ sức cạnh tranh, thì một điều chắc chắn là các doanh nghiệp phải tự làm 
mạnh thêm nội lực của bản thân mình về các mặt vốn, công nghệ, lao động..., phải 
tăng cường đầu tư để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. 
 Công ty bánh kẹo Hải Châu là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong 
lĩnh vực sản xuất kinh doanh bánh kẹo, trước những thay đổi của môi trường cạnh 
tranh đã không phải không gặp những lúng túng khó khăn. Nhưng với sự nỗ lực sáng 
tạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo và toàn thể CBCNV trong hoạt động sản xuất kinh 
doanh mà nổi bật là hoạt động đầu tư, Công ty đã từng bước phát triển và trở thành 
một trong những doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo hàng đầu cả nước.Tuy nhiên, 
những gì Công ty đạt được mới chỉ là bước đầu, phía trước còn rất nhiều thử thách. 
Cạnh tranh trên thị trường bánh kẹo rất quyết liệt. Rào cản gia nhập ngành không lớn 
nên ngày càng nhiều cơ sở sản xuất bánh kẹo mọc lên. Điều đó đòi hỏi Công ty bánh 
kẹo Hải Châu không ngừng đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của mình để chiến 
thắng các đối thủ, tiếp tục giữ vững và mở rộng thị trường. 
 Xuất phát từ thực tế trên, sau một thời gian thực tập tại Công ty bánh kẹo Hải 
Châu, tôi đã quyết định chọn đề tài " Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của 
công ty bánh kẹo Hải Châu " cho luận văn tốt nghiệp của mình. Đề tài ngoài phần 
mở đầu và kết luận gồm có 3 chương được kết cấu như sau: 
Chương 1. Đầu tư với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 
Chương 2. Thực trạng hoạt động đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty 
bánh kẹo Hải Châu. 
Chương 3. Một số giải pháp về đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của 
Công ty bánh kẹo Hải Châu. 
Chương 1. Đầu tư với việc nâng cao khả năng 
 cạnh tranh của doanh nghiệp 
I/ Nhận thức cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 
1. Cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường: 
1.1. Khái niệm và phân loại cạnh tranh: 
 1.1.1. Khái niệm: 
 Xét từ góc độ tổng thể nền kinh tế, cạnh tranh trong cơ chế kinh tế thị trường 
có thể được hiểu là cuộc cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào thị truờng 
nhằm giành giật các lợi ích kinh tế về mình. 
 Các chủ thể kinh tế ở đây chính là các bên bán và bên mua các loại hàng hoá 
và dịch vụ. Đối với các bên mua họ muốn tối đa hoá lợi ích của những hàng hoá mà 
họ mua được hay nói cách khác là họ muốn mua được loại hàng có chất lượng cao, 
thoả mãn nhu cầu tiêu dùng mà giá cả lại rẻ. Ngược lại, bên bán bao giờ cũng hướng 
tới tối đa hoá lợi nhuận bằng cách bán được nhiều hàng với giá cao. Vì vậy, các bên 
cạnh tranh với nhau để giành những phần có lợi hơn về mình. 
 Xét ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được Mác đề 
cập như sau:"Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa 
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ 
hàng hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch". ở đây, Mác đã đề cập đến vấn đề cạnh tranh 
trong một không gian hẹp chủ nghĩa tư bản Lúc này cạnh tranh được xem là sự lấn 
át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại, quan niệm về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ 
khá tiêu cực. 
 ở nước ta, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, cạnh tranh giữa các 
doanh nghiệp được hiểu một cách cứng nhắc. Trong một thời kỳ dài, chúng ta chỉ 
nhìn thấy mặt trái của cạnh tranh, phê phán cạnh tranh, coi cạnh tranh là doanh 
nghiệp mạnh đè bẹp doanh nghiệp yếu mà chưa thấy được những mặt tích cực của 
cạnh tranh. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, quan niệm về cạnh tranh của các 
doanh nghiệp ở nước ta đã được thay đổi. Ngày nay, các quốc gia trên thế giới đều 
thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh là môi trường và động lực của sự phát triển 
kinh tế xã hội. Cạnh tranh của các doanh nghiệp được quan niệm là cuộc đấu tranh 
gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu 
khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm giành được những điều kiện thuận lợi nhất về 
sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ để thu được lợi nhuận lớn nhất đồng thời thúc 
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Chúng ta cùng có thể hiểu theo nghĩa chung nhất 
cạnh tranh của các doanh nghiệp là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc 
giành giật khách hàng hoặc thị trường mà kết quả cuối cùng là để tiêu thụ được ngày 
càng nhiều hàng hoá với lợi nhuận cao. 
 Nếu xét trong mối tương quan giữa các doanh nghiệp với nhau và trên cơ sở 
nhu cầu mua sắm của xã hội thì chúng ta hiểu cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là 
quá trình các doanh nghiệp đưa ra các biện pháp kinh tế tích cực sáng tạo nhằm tồn 
tại được trên thị trường và ngày càng thu được nhiều lợi nhuận trên cơ sở tạo ra các 
ưu thế về sản phẩm cũng như trong tiêu thụ sản phẩm. 
 1.1.2. Các loại hình cạnh tranh: 
 Cạnh tranh trên thị trường giữa các doanh nghiệp được phân thành nhiều loại 
khác nhau. Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia làm 2 loại: Cạnh 
tranh giữa các ngành và cạnh tranh trong nội bộ ngành. Để giành lợi thế trên thị 
trường, các doanh nghiệp phải nắm vững các loại cạnh tranh này để xác định đúng 
đối thủ cạnh tranh, từ đó lựa chọn chính xác vũ khí cạnh tranh phù hợp với điều kiện 
và đặc điểm của mình. 
 Cạnh tranh giữa các ngành: là cuộc đấu tranh giữa các nhà doanh nghiệp 
sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm thu 
lợi nhuận và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đã bỏ ra và đầu tư vốn vào 
ngành có lợi nhất cho sự phát triển. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các 
doanh nghiệp luôn tìm kiếm những ngành đầu tư có lợi nhất nên đã chuyển vốn từ 
ngành ít lợi nhuận sang ngành có nhiều lợi nhuận. Sau một thời gian nhất định, sự 
điều chuyển tự nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này, vô hình chung hình thành lên 
sự phân phối vốn hợp lí giữa các ngành sản xuất, dẫn đến kết quả cuối cùng là các 
chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn bằng nhau chỉ thu được 
lợi nhuận như nhau. 
 Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp 
cùng sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Cạnh tranh trong 
nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường đồng nhất đối với hàng hoá dịch 
vụ cùng loại trên cơ sở giá trị xã hội của hàng hoá dịch vụ đó. Trong cuộc cạnh tranh 
này, các doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở 
rộng phạm vi họat động của mình trên thị trường, những doanh nghiệp thua cuộc sẽ 
phải thu hẹp kinh doanh, thậm chí bị phá sản. 
 Khi nền sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng 
người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Do đó, để thắng trong cuộc chiến 
giành lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp không ngừng thu thập thông tin về các đối thủ, đem 
so sánh với bản thân doanh nghiệp, nhờ đó phát hiện được những lĩnh vực mà mình có ưu thế 
hay bất lợi trong cạnh tranh và là cơ sở để xây dựng được một chiến lược cạnh tranh đúng 
đắn. 
1.2. Vai trò của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp: 
 Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Cội nguồn của sự cạnh 
tranh là sự tự do trong sản xuất kinh doanh, đa dạng kiểu dáng, nhiều thành phần 
kinh tế, nhiều người hoạt động sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh thực chất là một cuộc 
chạy đua không có đích. Chạy đua về mặt kinh tế phải luôn luôn ở phía trước để 
tránh những trận đòn của người chạy phía sau, và không phải chỉ để thắng một trận 
tuyến giữa các đối thủ mà là để thắng trên hai trận tuyến. Đó là cạnh tranh giữa 
những người mua với người bán và cạnh tranh giữa những người bán với nhau. Do 
vậy, cạnh tranh không chỉ có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp tham gia thị 
trường mà còn có ý nghĩa to lớn đối với người tiêu dùng và toàn xã hội. 
 - Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của 
doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh (cải tiến 
thiết bị công nghệ, sử dụng nguồn tài nguyên một cách tối ưu...), ảnh hưởng đến uy 
tín, quyết định vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. 
 - Đối với người tiêu dùng, cạnh tranh giúp họ thoả mãn nhu cầu về hàng hoá 
dịch vụ, chất lượng sản phẩm ngày càng cao cùng mức giá phù hợp với khả năng của 
họ. 
 - Đối với nền kinh tế quôc dân thì cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát 
triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để giải phóng lực lượng 
sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kĩ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội. Đó 
cũng là điều kiện để xoá bỏ độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ bất bình đẳng trong kinh 
doanh, phát huy tính tháo vát và óc sáng tạo của các nhà doanh nghiệp, gợi mở nhu 
cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng cao chất lượng đời sống xã hội, 
phát triển nền văn minh nhân loại. 
 Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận mặt tiêu cực của cạnh tranh, cạnh 
tranh không lành mạnh sẽ gây ra những hậu quả tiêu cực. Vì bị cuốn hút bởi các mục 
tiêu hạ giá thành, tăng lợi nhuận..., các doanh nghiệp đã không chịu bỏ ra chi phí cho 
việc xử lý các chất thải, ô nhiễm môi trường và các vấn đề xã hội khác. Ngoài ra, 
cạnh tranh có thể có xu hướng dẫn đến độc quyền ..v..v ... Để khắc phục được những 
tiêu cực đó thì vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. 
1.3. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp: 
 Do sự khan hiếm nguồn lực xã hội, khả năng kinh doanh của doanh nghiệp 
hạn chế nên các doanh nghiệp không thể có lợi thế hơn các đối thủ về mọi mặt. Vì 
vậy, mỗi doanh nghiệp cần biết tận dụng những lợi thế của mình, biến chúng thành 
các công cụ cạnh tranh thực sự lợi hại để đạt được mục tiêu kinh tế đã đạt ra. Tuy 
nhiên, các mặt khác mà doanh nghiệp không có lợi thế bằng thì cũng không nên bỏ 
qua. 
 1.3.1.Sản phẩm và chất lượng sản phẩm. 
 Sản xuất cái gì? như thế nào? cho ai? là câu hỏi lớn nhất mà mỗi doanh 
nghiệp sản xuất kinh doanh phải đối mặt trong cơ chế thị trường. Trả lời được câu 
hỏi này có nghĩa là doanh nghiệp đã xây dựng cho mình một chính sách sản phẩm. 
Không một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị trường mà lại không có sản phẩm 
kinh doanh cho dù là hữu hình hay vô hình.Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là 
phải làm cho sản phẩm của mình thích ứng được với thị trường một cách nhanh 
chóng thì mới có thể tiêu thụ hết trên thị trường, mở rộng thị trường, tăng sức cạnh 
tranh của doanh nghiệp. 
 a) Sản phẩm: 
 Có thể xây dựng lợi thế cạnh tranh từ sản phẩm theo hai cách: 
 Đa dạng hoá sản phẩm: Mức độ đa dạng của sản phẩm thể hiện ở danh mục 
sản phẩm của công ty (đó là tập hợp của tất cả những loại sản phẩm và mặt hàng 
được đưa ra để bán). Để có thể theo kịp nhu cầu thị trường, bên cạnh việc duy trì và 
cải tiến các loại sản phẩm hiện đang là thế mạnh, doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu 
các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Đa dạng 
hoá sản phẩm không chỉ là để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu thị trường, thu nhiều 
lợi nhuận mà còn là một biện pháp phân tán sự rủi trong kinh doanh khi mà cuộc 
cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt quyết liệt. 
 Đi đôi với việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, để đảm bảo đứng vững trong 
cuộc cạnh tranh, doanh nghiệp có thể thực hiện chiến lược khác biệt hoá sản phẩm 
bằng cách tạo ra sản phẩm dịch vụ mà khách hàng cho là có những điểm độc đáo và 
từ đó hấp dẫn khách hàng vì sự độc đáo đó. Ưu điểm của chiến lược này là doanh 
nghiệp không bị cạnh tranh từ các đối thủ vì các đối thủ khó lòng vượt qua lòng trung 
thành của khách hàng về nhãn hiệu mà DN xây dựng được. (Ví dụ, xe ô tô: có tính 
sang trọng là Mercedes - Ben, tính kinh tế là Toyota...). Tuy nhiên, DN rất khó giữ 
vững thị phần của mình vì khó có thể duy trì sự khác biệt trong thời gian dài do bị đối 
thủ bắt chước rất nhanh và gặp khó khăn trong duy trì giá cao. 
 Như vậy, sản phẩm và xác định cơ cấu sản phẩm tối ưu là một trong những 
yếu tố quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. 
 b) Chất lượng sản phẩm: 
 Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và 
ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố: công nghệ dây 
chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động, trình độ quản lý...Chất 
lượng sản phẩm có thể được hiểu là mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn kinh tế kĩ thuật 
hoặc là khả năng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Nâng cao chất lượng thì 
phải giải quyết được cả hai vấn đề trên. 
 Xuất phát từ quan điểm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, khi đời sống của con 
người ngày càng cao thì việc cải thiện chất lượng sản phẩm trở thành vấn đề cấp bách đối với 
mỗi DN. Làm ngược lại, DN đã tự từ chối khách hàng, đẩy lùi hoạt động sản xuất kinh doanh. 
Mặt khác, cải tiến sản phẩm còn giúp DN hội nhập tốt hơn với xu hướng toàn cầu hoá nền 
kinh tế, vươn tới những thị trường xa hơn. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được kí kết tháng 
7 năm 2000 đã mở ra những cơ hội lớn cho các DN Việt Nam. Song để xuất khẩu hàng hoá 
sang Mỹ, các sản phẩm của ta phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về công nghệ, hàm 
lượng dinh dưỡng, an toàn vệ sinh, cũng như về bao gói, bảo quản... 
 Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, một quan niệm mới về chất 
lượng đã xuất hiện: Chất lượng sản phẩm không chỉ là tốt, bền, đẹp mà nó còn do 
khách hàng quyết định. Quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố chủ quan còn sự đánh 
giá của khách hàng mang tính khách quan. ở đây, nhân tố khách quan đã tác động, 
chi phối yếu tố chủ quan. Quan niệm này xuất phát từ thực tế là mức độ cạnh tranh 
trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt hơn. 
 Chất lượng sản phẩm thể hiện tính quyết định sức cạnh tranh của doanh 
nghiệp ở chỗ : 
 - Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng 
khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. 
 - Sản phẩm chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp, kích thích 
khách hàng mua hàng và mở rộng thị trường. 
 - Chất lượng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài 
chính của doanh nghiệp. 
 1.3.2. Giá bán sản phẩm: 
 Giá cả là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định thị phần của DN 
và khả năng sinh lời của nó. Đồng thời, giá cả còn là công cụ linh hoạt nhất, mềm 
dẻo nhất trong cạnh tranh. 
 Giá của sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua thoả thuận giữa 
người bán và người mua. Nó đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hay 
không mua của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, có sự cạnh tranh của các 
doanh nghiệp, ''khách hàng là thượng đế '' họ có quyền lựa chọn những gì mà họ mà 
họ cho là tốt nhất, và cùng một loại sản phẩm với chất lượng tương đương nhau, chắc 
chắn họ sẽ lựa chọn mức giá bán thấp hơn, khi đó sản lượng tiêu thụ của doanh 
nghiệp sẽ tăng lên. 
 Mặc dù vậy, khi thu nhập của đại bộ phận dân cư đều tăng, khoa học kĩ thuật 
phát triển thì việc định giá thấp chưa hẳn là giải pháp hữu hiệu, đôi khi còn bị đánh 
đồng với việc suy giảm chất lượng. Vì vậy, định giá thấp, định giá ngang thị trường 
hay định giá cao, làm sao sử dụng giá cả như một vũ khí cạnh tranh lợi hại là tuỳ 
thuộc vào từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay tuỳ thuộc 
vào đặc điểm của từng vùng thị trường. 
 1.3.3. Nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm: 
 Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường bao gồm cả chức năng sản xuất và 
tiêu thụ.Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, đây 
cũng là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhuận. Nghệ thuật tiêu thụ sản 
phẩm thể hiện ở hai mặt: 
 Trước hết là phải lựa chọn các kênh phân phối để sản phẩm sản xuất ra tiêu 
thụ nhanh chóng, hợp lý và đạt hiệu quả cao. Tiêu thụ nhanh với số lượng nhiều sẽ 
tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Xây 
dựng một hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi tính toán nhiều yếu tố, phải 
mất nhiều năm và không dễ gì thay đổi được nó. Bù lại, DN có một nền móng vững 
chắc để phát triển thị trường, bảo vệ thị phần của doanh nghiệp có được. 
 Bên cạnh việc tổ chức mạng lưới bán hàng, doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh 
các hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, khuyến mại, một số chính sách phục 
vụ khách hàng như chính sách thanh toán, các dịch vụ trước và sau bán hàng. Đây là 
một hình thức cạnh tranh phi giá, gây sự chú ý và thu hút khách hàng. 
 Công tác tổ chức tiêu thụ tốt cũng là một trong những yếu tố làm tăng uy tín 
của doanh nghiệp trên thị trường. Các hoạt động giao tiếp khuếch trương như quảng 
cáo, tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng... là những hình thức tốt nhất để 
giới thiệu về các sản phẩm và doanh nghiệp của mình từ đó giúp cho doanh nghiệp 
tìm ra được nhiều bạn hàng mới, mở rộng thị trường nâng cao sức cạnh tranh của 
doanh nghiệp. 
2. Nâng cao khả năng cạnh tranh là vấn đề tất yếu của doanh nghiệp trong nền kinh tế 
thị trường và tiến trình hội nhập. 
2.1. Quan niệm về khả năng cạnh tranh: 
 Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về khả năng cạnh tranh của một doanh 
nghiệp: 
 - Theo Fafchams : khả năng cạnh tranh của một DN chính là khả năng của DN đó có 
thể sản xuất ra sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. 
Theo cách hiểu này DN nào sản xuất ra các sản phẩm tương tự như của các DN khác nhưng 
với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh. 
 - Randall lại cho rằng : khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và duy trì thị 
phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định 
 - Dunning : khả năng cạnh tranh là khả năng cung ứng sản phẩm của chính DN trên 
các thị trường khác nhau mà không biệt nơi bố trí sản xuất của DN đó. 
 - Một quan niệm khác cho rằng : khả năng cạnh tranh là trình độ công nghệ sản xuất 
sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường đồng thời duy trì được thu nhập của mình. 
 Có thể thấy rằng các quan niệm đứng trên các góc độ khác nhau nhưng chung quy lại 
đều nói tới việc chiếm lĩnh thị trường và lợi nhuận. 
2.2. Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 
 Mỗi doanh nghiệp bắt đầu vào khởi sự kinh doanh phải có những nguồn lực nhát định. 
Để duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh buộc các doanh nghiệp phải phát huy 
triệt để mọi tiềm lực, mọi thế mạnh nhằm tạo lợi thế bằng hoặc hơn các doanh nghiệp khác. 
Có như vậy mới đảm bảo cho doanh nghiệp vững vàng trong cạnh tranh. Để thực hiện được 
mục tiêu này buộc các doanh nghiệp phải tăng cường khả năng cạnh tranh củ mình. 
 Thực chất tăng khả năng cạnh tranh là tạo ra ngày một nhiều hơn các ưu thế về tất cả 
các mặt: giá cả, giá trị sử dụng của sản phẩm, uy tín...Cụ thể là doanh nghiệp phải áp dụng 
tổng hợp các biện pháp khác nhau như cắt giảm chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm, hạ 
giá bán, áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, 
nâng cao trình độ đội ngũ lao động...Hay nói cách khác tăng cường khả năng cạnh tranh của 
doanh nghiệp là thay đổi mối tương quan về thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường về 
mọi mặt của quá trình sản xuất. 
 Trong cơ chế thị trường, tăng sức cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Song 
song với tốc độ phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, đòi hỏi của khách hàng 
ngày càng khe khắt, họ luôn có xu hướng tiêu dùng những sản phẩm chất lượng cao 
với giá cả hợp lí. Để đáp ứng nhu cầu đó doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để cải tiến 
sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, đổi mới công nghệ...hay phát huy mọi lợi thế 
của mình so với các đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn cao nhất đòi hỏi của thị 
trường. 
 Mặt khác, xu hướng tự do mở cửa nền kinh tế diễn ra ngày một nhanh, tiến 
trình hội nhập đang tới gần thì nâng cao năng lực cạnh trạnh lại là vấn đề sống còn. 
Khi hàng rào thuế quan dần xoá bỏ và mở rộng hợp tác kinh tế, sẽ là khó khăn hơn 
đối với mỗi doanh nghiệp khi giành giật thị trường và khách hàng từ tay các công ty 
xuyên quốc gia hùng mạnh dày kinh nghiệm, các doanh nghiệp bản địa nhạy bén, 
năng động cùng sự gia nhập ồ ạt của hàng ngàn DN mới. 
 Đối với Việt Nam, khi chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường, các 
doanh nghiệp nhà nước không còn tính độc quyền và được nhà nước bao cấp như 
trước nữa mà phải tự quyết định lấy các vấn đề quan trọng mang tính sống còn của 
doanh nghiệp (sản xuất cho ai, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, bao nhiêu...). 
Các doanh nghiệp nhà nước buộc phải làm quen với điều này cũng như phải thích 
nghi với môi trường kinh doanh mới của cơ chế thị trường, chấp nhận các quy luật 
của thị trường cũng như là phải chấp nhận cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường 
đa hình thức sở hữu, khi mà quan điểm, chính sách của nhà nước về vai trò của các 
thành phần kinh tế khác đi, các doanh nghiệp nhà nước nếu không tự đổi mới sẽ 
không thể chạy đua nổi. Bởi các hãng nổi tiếng trên thế giới đầu tư vào Việt Nam 
ngày càng nhiều và có ưu thế hơn hẳn về tiềm lực tài chính cũng như là trình độ kỹ 
thuật, kinh nghiệm quản lý. Bên cạnh đó là khu vực kinh tế tư nhân đầy năng động và 
hiệu quả đang vươn lên mạnh mẽ. 
2.3. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh 
nghiệp: được khái quát thông qua mô hình sau: 
2.3.1. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp: 
 a) Môi trường vĩ mô: gồm các nhân tố nằm ngoài sự kiểm soát của doanh 
nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. 
 a1) Môi trường kinh tế: 
 Các nhân tố kinh tế là những nhân tố quan trọng nhất của môi trường hoạt 
động kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế phát triển với tốc độ cao sẽ kéo theo 
Môi trường vĩ mô: 
 Kinh tế, công nghệ, luật 
pháp, tự nhiên... 
Môi trường ngành 
Nhân tố bên trong 
 doanh 
nghiệp 
uy tín 
 vốn 
 kĩ thuật 
Khả 
năng 
cạnh 
tranh 
sự tăng thu nhập cũng như khả năng thanh toán của người dân do vậy sức mua của 
nhân dân cũng tăng lên. Mặt khác nền kinh tế phát triển mạnh làm tăng khả năng tích 
tụ và tập trung tư bản lớn, tăng cơ hội đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh cho các 
doanh nghiệp.Tuy nhiên, do sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ kéo theo sự tăng lên 
một cách nhanh chóng số lượng các doanh nghiệp tham gia thị trường, và như vậy 
mức độ cạnh tranh sẽ lại trở nên gay gắt. Trái lại, khi nền kinh tế đang trong giai 
đoạn suy thoái, tỉ lệ lạm phát tăng làm cho giá cả sẽ tăng, sức mua của người dân bị 
giảm sút, các doanh ngiệp phải tìm mọi cách để giữ khách hàng, do đó sự cạnh tranh 
trên thị trường cũng sẽ khốc liệt hơn. 
 Lãi suất ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm. Với mức lãi suất đi vay cao, chi 
phí sản xuất của doanh nghiệp cũng sẽ tăng lên do phải trả lãi tiền vay lớn, do vậy 
sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng sẽ bị giảm đi đặc biệt là đối với các đối thủ có 
tiềm lực mạnh về tài chính. 
 Các nhân tố lạm phát, tỉ giá hối đoái, các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế... 
cũng ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của từng doanh 
nghiệp cũng như là mức độ cạnh tranh trên thị trường. 
 a2) Môi trường khoa học công nghệ: 
 Tiến bộ khoa học công nghệ tạo điều kiện cho doanh nghiệp áp dụng các thiết 
bị hiện đại để sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, thu thập xử lí thông tin về các 
đối thủ và thị trường. Bên cạnh đó, hiện nay khi công cụ cạnh tranh chuyển từ giá 
sang chất lượng thì các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao mới có sức cạnh tranh 
cao. 
 Sự ra đời của hàng vạn phát minh mới tạo cơ hội phát triển sản phẩm mới 
nhưng cũng là mối đe dọa một khi các sản phẩm đang sản xuất rất nhanh trở nên lỗi 
thời. 
 a3) Môi trường chính trị và pháp luật: 
 Thể chế chính trị, hệ thống luật pháp rõ ràng, mở rộng và ổn định sẽ là cơ sở 
đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, cạnh 
tranh lành mạnh và có hiệu quả. Ngược lại sẽ thành rào cản đối với họ. Chẳng hạn, 
luật cạnh tranh và chống độc quyền, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện 
cạnh tranh, bảo đảm cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc loại thành 
phần và trên mọi lĩnh vực. Hay các chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu, về 
thuế xuất nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh 
nghiệp sản xuất trong nước so với các doanh nghiệp sản xuất ở nước ngoài. 
 a4) Môi trường tự nhiên, văn hoá xã hội: 
 Các nhân tố tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên của đất nước, vị trí địa lý 
về việc phân bố vị trí địa lý của các tổ chức kinh doanh. Vị trí địa lý thuận lợi sẽ tạo 
điều kiện khuyếch trương sản phẩm, mở rộng thị trường, giảm các chi phí thương 
mại phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Với nhân tố tự nhiên là điều kiện tài nguyên 
thiên nhiên, nếu tài nguyên thiên nhiên phong phú sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho 
doanh nghiệp chủ động trong công tác cung ứng các yếu tố đầu vào, sản xuất hàng 
hoá vật chất đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh 
nghiệp. 
 Văn hoá và các vấn đề xã hội giờ đây đã trở thành một trong những mối quan 
tâm hàng đầu của các nhà quản trị doanh nghiệp. Đối với các hãng kinh doanh nổi 
tiếng thế giới, năm 2001 thực sự là một thử thách. Đó là sự suy giảm trong việc 
chiếm lĩnh thị phần thế giới( Coke:5%, Microsoft:7%, Ford:17%...) do bị sức ép cạnh 
tranh mạnh mẽ từ các nhãn hiệu nội. Sự vượt lên của các nhãn hiệu nội là do dễ thích 
nghi với nhu cầu người dân vì nghiên cứu được thói quen, tập tục và cả "gu" văn hoá 
của người nước họ, trong khi các nhãn hiệu quốc tế không chịu khai thác để tìm hiểu 
nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. 
 b) Môi trường ngành: bao gồm các nhân tố tác động trực tiếp đến hoạt động của 
doanh nghiệp. 
 Tình trạng về cầu trong ngành là yếu tố tác động mạnh đến sư cạnh tranh. Tăng nhu 
cầu của người tiêu dùng tạo ra cơ hội cho việc mở rộng sản xuất, làm dịu bớt cạnh tranh. 
Ngựơc lại khi cầu giảm, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trở nên mạnh mẽ hơn, một doanh 
nghiệp chỉ đạt đến sự tăng trưởng bằng cách lấy đi thị phần của những doanh nghiệp khác. 
Mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành tuỳ thuộc vào số lượng, qui mô các 
doanh nghiệp trong ngành. Trong một ngành, nếu như các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh 
có qui mô và thế lực ngang nhau thì sự cạnh tranh trên thị trường trở nên gay gắt hơn và khi 
đó sức cạnh tranh của doanh nghiệp cao hơn hoăc thấp đi. 
 Không chỉ thế, doanh nghiệp còn phải đề phòng sự xuất hiện của các đối thủ tiềm ẩn: 
Đối thủ mới tham gia trong ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do họ 
đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn giành một phần thị trường. Vì 
vậy để bảo vệ vị trí cạnh tranh của mình, doanh nghệp thường duy trì các hàng rào hợp pháp 
ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngoài ( chẳng hạn như lợi thế về uy tín, qui mô, kinh nghiệm 
quản lý... ). Kinh nghiệm cho thấy có nhiều khả năng doanh nghiệp bị những đối thủ cạnh 
tranh ngấm ngầm " chôn vùi " hơn là bị các đối thủ cạnh tranh hiện tại. 
 Sự tồn tại của những sản phẩm thay thế cũng hình thành một áp lực cạnh tranh rất lớn, 
nó giới hạn mức giá một doanh nghiệp có thể định ra và do đó giới hạn mức lợi nhuận của 
doanh nghiệp. Ngược lại, nếu sản phẩm của một doanh nghiệp có rất ít sản phẩm thay thế, 
doanh nghiệp có cơ hội tăng gía và kiếm được lợi nhuận tăng thêm. 
 Bên cạnh đó, sức ép về giá của người cung cấp và khách hàng cũng tác động đến sức 
cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhà cung cấp được coi là đe dọa với doanh nghiệp khi họ đảy 
mức giá hàng cung cấp lên. Còn người mua khi có cơ hội thì đẩy giá cả xuống hoặc yêu cầu 
chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn làm tăng chi phí hoạt động của doanh nghiệp, và tất 
nhiên giảm lợi nhuận doanh nghiệp kiếm được. Môi trường bên ngoài luôn luôn biến 
động ngoài mong muốn của doanh nghiệp . Nó có thể cùng một lúc tác động tới hoạt động 
của doanh nghiệp.Trong cảnh hỗn loạn đó, chiến thắng sẽ thuộc về kẻ nào bình tĩnh, sáng suốt 
nhận ra cơ hội và biết tạo ra khả năng cạnh tranh cho mình từ những nguồn lực hiện có. 
2.3.2. Nhân tố bên trong doanh nghiệp: Đây là nhóm nhân tố doanh nghiệp có thể 
kiểm soát được và quyết định sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp. 
 a. Nguồn nhân lực 
 Luôn có tính chất quyết định trong mọi tổ chức. 
 Bộ phận quản lí doanh nghiệp là đầu não của doanh nghiệp, quyết định các 
hoạt động sản xuất kinh doanh: Sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào, 
khối lượng bao nhiêu. Mỗi một quyết định của họ có một ý nghĩa hết sức quan trọng 
liên quan tới sự tồn tại phát triển hay diệt vong của doanh nghiệp. Chính họ là những 
người quyết định cạnh tranh với đối thủ nào và bằng những cách nào. Mặt khác, nếu 
bộ máy quản lí tinh gọn sẽ góp phần tiết kiệm chi phí quản lí doanh nghiệp. 
 Cùng với máy móc thiết bị và công nghệ, công nhân là những người trực tiếp 
sản xuất ra sản phẩm. Sức khoẻ tốt cùng với trình độ tay nghề cao là cơ sở đảm bảo 
chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động. Lòng yêu nghề, yêu doanh nghiệp 
của họ sẽ giúp doanh nghiệp vượt qua những lúc khó khăn hoạn nạn, tiếp tục đứng 
vững trên thương trường. 
 b. Cơ sở vật chất kỹ thuật 
 Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến 
phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ làm tăng sức cạnh tranh 
của công ty lên rất nhiều. Với một cơ sở vật chất như vậy chất lượng sản phẩm được 
nâng cao hơn, tiết kiệm nguyên vật liệu, giá thành sản phẩm hạ đi kéo theo sự giảm 
giá bán trên thị trường, khả năng chiến thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ là 
rất lớn. Ngược lại, không một doanh nghiệp nào lại có sức cạnh tranh cao khi mà 
công nghệ sản xuất lạc hậu máy móc thiết bị cũ kỹ vì chính nó sẽ làm giảm chất 
lượng sản phẩm tăng chi phí sản xuất. 
 c. Khả năng tài chính 
 Để có thể cạnh tranh tốt doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh. 
Tiềm lực tài chính phản ánh qui mô của doanh nghiệp và quyết định khả năng sản 
xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ, thực hiện các hoạt động chào hàng, 
khuyếnmại, giao tiếp khuếch trương cũng như nghiên cứu và phát triển thị trường. 
An toàn về mặt tài chính giúp doanh nghiệp dễ dàng vay vốn, kêu gọi đối tác. Ngoài 
ra, với một khả năng tài chính hùng mạnh, một doanh nghiệp cũng dễ dàng xoay xở 
khi hoạt động kinh doanh gặp khó khăn, hay để giữ vững và mở rộng thị phần của 
mình, doanh nghiệp có khả năng hạ giá sản phẩm, chấp nhận lỗ một thời gian ngắn. 
 d. Mạng lưới phân phối 
 Thực tế cho thấy rằng, mạng lưới phân phối của doanh nghiệp được tổ chức, 
quản lý điều hành một cách hợp lý thì nó sẽ là một phương tiện có hiệu quả để sản 
xuất của doanh nghiệp tiếp cận với thị trường. Khách hàng bao giờ cũng muốn mua 
hàng ở những nơi mà hình thức mua bán, hình thức thanh toán và vận chuyển tiện lợi 
nhất. Có mạng lưới hệ thống kênh phân phối tốt giúp phần làm cho sản phẩm của 
doanh nghiệp tiếp cận đúng nơi có nhu cầu một cách kịp thời - yếu tố thời gian là một 
công cụ cạnh tranh có hiệu quả của bất kỳ doanh nghiệp nào. 
 e. Quy mô kinh doanh và uy tín 
 Chúng ta đều biết một trong năm nguyên nhân dẫn đến độc quyền của một 
doanh nghiệp là doanh nghiệp đó có tính kinh tế nhờ quy mô. Một doanh nghiệp có 
quy mô sản xuất lớn sản xuất càng nhiều sản phẩm thì chi phí cận biên cho sản xuất 
đơn vị sản phẩm tiếp theo nhỏ dần, và như vậy giá thành đơn vị sản phảm càng hạ. 
Quy mô của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, 
doanh nghiệp có quy mô lớn có thuận lợi hơn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ trong 
cạnh tranh, đặc biệt khi các doanh nghiệp này sản xuất vượt công suất. 
 Uy tín của doanh nghiệp được hình thành từ sự tin tưởng của khách hàng vào 
sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Uy tín của một doanh nghiệp được hình 
thành sau một thời gian dài hoạt động trên thị trường và là một tài sản vô hình mà 
doanh nghiệp cần phải biết giữ gìn và làm giàu thêm tài sản đó. Chính lòng trung 
thành của khách hàng sẽ đem lại cho doanh nghiệp món lợi nhuận kếch xù và bảo vệ 
doanh nghiệp khỏi sự tấn công của các đối thủ cạnh tranh. Ví như nhờ uy tín, 
Samsung có thể định giá cao hơn cho các sản phẩm của mình, còn Honda lại làm 
điêu đứng các nhà cung cấp xe máy khi tung ra thị trường Việt Nam sản phẩm Wave 
- Anpha. 
2.4. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp: 
 Để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể dựa vào một số chỉ tiêu sau: 
 2.4.1. Thị phần của doanh nghiệp/ thị phần của các đối thủ cạnh tranh: 
 Là một chỉ tiêu hay được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 
 Người ta thường xem xét các loại thị phần sau: 
 - Thị phần của công ty so với toàn bộ thị trường: Đó chính là tỉ lệ % giữa doanh số của 
công ty so với doanh số của toàn ngành. 
 - Thị phần của công ty so với phân khúc mà nó phục vụ: Đó là tỉ lệ % giữa doanh số 
của công ty so với doanh số của toàn phân khúc. 
 - Thị phần tương đối: Đó là tỉ lệ so sánh về doanh số của công ty với đối thủ cạnh tranh 
mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của sản phẩm trong cạnh tranh trên thị trường như thế nào. 
 Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà doanh nghiệp biết mình đang đứng ở 
vị trí nào, và cần vạch ra chiến lược hành động như thế nào. 
 Ưu điểm: Chỉ tiêu này đơn giản và dễ tính 
 Nhược điểm: Khó đảm bảo tính chính xác do khó thu thập được doanh số chính xác 
của các doanh nghiệp. 
 2.4.2. Doanh thu/ doanh thu của các đối thủ mạnh nhất: 
 Nếu sử dụng chỉ tiêu này người ta có thể chọn từ 2 đến 5 doanh nghiệp mạnh nhất tuỳ 
theo lĩnh vực cạnh tranh khác nhau mà chọn khác nhau. 
 Chỉ tiêu này có ưu điểm đơn giản, dễ tính. Nhưng có nhược điểm là khó chính xác vì 
mỗi lĩnh vực có doanh nghiệp đứng đầu khác nhau. 
 2.4.3. Tỉ lệ chi phí Marketing/ tổng doanh thu: 
 Đây là chỉ tiêu hiện nay đang được sử dụng nhiều để đánh giá khả năng cạnh tranh 
cũng như hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp. 
 Thông qua chỉ tiêu này mà doanh nghiệp thấy được hiệu quả hoạt động của mình. Nếu 
chỉ tiêu này cao có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào chi phí cho công tác 
Marketing mà hiệu quả không cao. 
 Xem xét tỉ lệ: Chi phí Marketing/ tổng chi phí ta thấy: 
 Tỉ lệ này cao chứng tỏ việc đầu tư cho khâu Marketing là tương đối lớn, đòi hỏi doanh 
nghiệp phải xem xét lại cơ cấu chi tiêu. Có thể thay vì quảng cáo rầm rộ công ty có thể đầu tư 
cho nghiên cứu và phát triển. 
 2.4.4. Tỉ suất lợi nhuận: 
 Tỉ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng cạnh tranh 
của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 
ấy. Đó chính là: chênh lệch ( giá bán - giá thành )/ giá bán. Nếu chỉ tiêu này thấp chứng tỏ 
cạnh tranh trên thị trường là rất gay gắt. Ngựơc lại, nếu chỉ tiêu này cao thì điều đó có nghĩa là 
doanh nghiệp đang kinh doanh rất thuận lợi. 
II/ Đầu tư - yếu tố quan trọng để nâng cao sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp: 
1. Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp 
 1.1- Khái niệm đầu tư: Đầu tư được hiểu là sự hi sinh nguồn lực ở hiện tại nhằm thu 
về các kết quả cao hơn cho nhà đầu tư tương lai. 
 Doanh nghiệp với tư cách là một nhà đầu tư trong trong nền kinh tế, tuỳ thuộc vào 
chức năng sản xuất kinh doanh của mình mà tiến hành các hoạt động đầu tư khác nhau: 
 - Đầu tư phát triển. 
 - Đầu tư thương mại. 
 - Hay đầu tư tài chính. 
 Đối với một doanh nghiệp, việc nâng cao khả năng cạnh tranh được tiến hành thông 
qua hình thức đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển trong các doanh nghiệp có thể hiểu là việc sử 
dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa 
chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi 
dưỡng đào tạo nguồn nhân lực thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của của 
các tài sản này nhằm duy trì, tăng cường, mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh của doanh 
nghiệp. 
 1.2 -Vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp : 
 a) Khái niệm: Trong các nguồn lực được sử dụng để đầu tư thì vốn là nhân tố quan 
trọng hàng đầu. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, trước tiên mỗi doanh nghiệp cần 
có vốn. Vốn được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. 
 Song căn cứ vào nội dungkinh tế ta có thể chia thành hai nguồn cơ bản; đó là: 
 - Nguồn vốn chủ sở hữu. 
 - Nguồn vốn vay. 
  Nguồn vốn chủ sở hữu : Trong nền kinh tế thị trường qui mô tài sản là rất quan 
trọng nhưng quan trọng hơn là khối lượng tài sản doanh nghiệp đang nắm giữ và sử dụng hình 
thành từ nguồn nào. Nguồn vốn chủ sở hữu biểu hiện quyền sở hữu của người chủ về các tài 
sản hiện có của doanh nghiệp. Nó được hình thành từ các nguồn sau : 
 - Do số tiền đóng góp của các nhà đầu tư - chủ sở hữu của doanh nghiệp. 
 - Vốn được tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, gọi là lãi lưu giữ hay lãi 
chưa phân phối. 
 - Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn bao gồm chênh lệch đánh giá lại tài sản, từ các quĩ của 
doanh nghiệp. 
  Nguồn vốn vay : Hiện nay, hầu như không một doanh nghiệp nào chỉ sản xuất kinh 
doanh bằng vốn tự có, mà đều phải hoạt động bằng nhiều nguồn vốn trong đó có nguồn vốn 
vay chiếm tỉ lệ đáng kể khoảng 70 - 90%. Vốn vay có ý nghĩa quan trọng không những ở khả 
năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh của công ty 
mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp qui mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các 
khoản nợ đến hạn và giảm số lượng vốn vay. Có thể thực hiện vay vốn dưới các phương thức 
chủ yếu sau : 
 - Tín dụng ngân hàng. 
 - Phát hành trái phiếu. 
 - Tín dụng thương mại. 
 b) Nội dung của vốn đầu tư trong doanh nghiệp : 
 Vốn đầu tư có thể được chia thành các khoản mục : 
 - Những chi phí tạo ra tài sản cố định: Gồm chi phí ban đầu và đất đai; chi phí xây 
dựng, sử chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng; chi phí mua sắm lắp đặt máy móc thiết bị dụng cụ, 
mua sắm phương tiên vận chuyển và các chi phí khác. 
 - Những chi phí tạo ra tài sản lưu động gồm: Chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như 
chi phí mua nguyên vật liệu, trả lưng người lao động, chi phí về điện nước, nhiên liệu ... và chi 
phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có sản phẩm dở dang tồn kho, hàng hoá bán chịu, vốn 
bằng tiền. 
 - Chi phí chuẩn bị đầu tư. 
 - Chi phí dự phòng. 
2) Mối quan hệ giữa đầu tư và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp: 
 Xuất phát từ khái niệm, ta biết đầu tư là sự hi sinh nguồn lực hiện tại để tiến hành hoạt 
động nào đó nhằm thu về kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong tương lai. Xét về mặt tài chính, 
kết quả có lợi ở đây chính là lợi nhuận. Còn khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả 
năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định. Như vậy, hoạt 
độngđầu tư hay nâng cao khả năng cạnh tranh thì đều phải đáp ứng yêu cầu lợi nhuận. 
 Song để đứng vững và tiếp tục thu lợi nhuận, doanh nghiệp phải làm gì? Tất nhiên họ 
phải sử dụng các nguồn lực vật chất, tài chính hay nói cách khác là phải bỏ tiền ra để nâng cấp 
máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, đào tạo, bổ sung kiến thức cho cán bộ quản lí và công 
nhân, hay để mua thông tin về thị trường và các đối thủ cạnh tranh... nghĩa là doanh nghiệp 
tiến hành " Đầu tư ". Như vậy, đầu tư và gắn liền với nó là hiệu quả đầu tư là điều kiện tiên 
quyết của việc tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 
 Cũng có quan điểm cho rằng, khi vốn chi ra nhiều sẽ tăng giá thành sản phẩm và do đó 
sản phẩm sẽ kém cạnh tranh hơn. Quan điểm này đặc biệt chi phối các chủ doanh nghiệp 
trong việc ra quyết định đầu tư hiện đại hoá công nghệ, dây chuyền sản xuất bởi bộ phận này 
chiếm khối lượng vốn rất lớn. Song ngày nay, khi ngưòi tiêu dùng không bận tâm nhiều lắm 
đến giá cả thì biện pháp cạnh tranh về giá lại trở nên nghèo nàn, họ muốn hưởng lợi ích cao 
hơn mà do đó sẵn sằng mua hàng ở mức giá cao. Vì thế, đổi mới thiết bị là để nâng cao chất 
lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã bao bì nhằm thoả mãn khách hàng, đồng thời giảm được 
mức tiêu hao nguyên vật liệu, tỉ lệ phế phẩm, giảm các chi phí kiểm tra, tiết kiệm đáng kể chi 
phí sản xuất cho doanh nghiệp. Mặt khác, tăng năng suất lao động - biện pháp cơ bản để hạ 
giá thành - chỉ có thể có được nhờ hiện đại hoá máy móc thiết bị kết hợp với cách tổ chức sản 
xuất khoa học và đội ngũ công nhân lành nghề. 
 Mặc dù vậy, các hoạt động đầu tư nêu trên phải mất một thời gian dài mới phát tuy tác 
dụng của nó.Trong ngắn hạn, khi bị chèn ép bởi quá nhiều đối thủ cạnh tranh với mức độ gay 
gắt, các doanh nghiệp không thể ngay lập tức rót vốn để mua máy móc hay đào tạo lao động. 
Khi đó, họ sử dụng các công cụ nhạy cảm hơn với thị trường như: hạ giá bán, khuyến mãi, 
tặng quà cho đại lí và các nhà phân phối, chấp nhận thanh toán chậm, tài trợ hay quảng cáo 
rầm rộ để người tiêu dùng biết đến và ưa thích sản phẩm của mình... Trong trường hợp giá bán 
không đổi thì tăng chi phí cho các chiến dịch xúc tiến bán hàng này đã làm doanh nghiệp thiệt 
đi một phần lợi nhuận.Tuy nhiên, nếu xét từ góc độ hiệu quả của việc tiêu tốn các chi phí này, 
ngoài việc đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá, chúng còn có tác dụng giao tiếp khuyếch trương - tạo 
hình ảnh đẹp về doanh nghiệp trong xã hội cộng với niềm tin từ khách hàng vào chất lượng 
sản phẩm, lực hút từ giá bán hợp lí... sẽ làm nổi danh thương hiệu, gia tăng uy tín của doanh 
nghiệp, đẩy doanh nghiệp tới vị trí cao hơn trên thương trường. Rõ ràng, lúc đó, doanh nghiệp 
có thể nhờ vào uy tín và vị thế của mình mà thu lợi nhuận nhiều hơn mức trung bình của 
ngành. Nói khác đi, việc chi dùng vốn hợp lí vào các hoạt động trên là hình thức đầu tư một 
cách "gián tiếp", đầu tư vào tài sản "vô hình" mang tầm chiến lược mà để cạnh tranh - bất kì 
doanh nghiệp nào cũng muốn có. 
Sơ đồ: Mối quan hệ giữa đầu tư và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 
 Như vậy, đầu tư đã tạo ra thế và lực mới cho doanh nghiệp - hay đó chính là khả năng 
cạnh tranh cao hơn. Khả năng cạnh tranh được nâng cao sẽ giúp doanh nghiệp thu lợi lớn hơn, 
Đầu 
tư 
Khả 
năng 
cạnh 
Lợi 
nhuận 
tạo điều kiện để doanh nghiệp gia tăng vốn tự có, thực hiện tái đầu tư và các hoạt động khác 
nhằm đạt được các mục tiêu: Lợi nhuận, vị thế và an toàn. 
3) Nội dung của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp: 
 3.1. Đầu tư vào máy móc thiết bị (MMTB), dây chuyền công nghệ (DCCN), cơ 
sở hạ tầng (CSHT) : 
 Đầu tư vào tài sản cố định (TSCĐ) đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động đầu 
tư của doanh nghiệp bởi hai lí do cơ bản sau: 
 Thứ nhất, chi phí cho các hạng mục chiếm tỉ lệ cao trong tổng vốn đầu tư. 
 Thứ hai, đó là bộ phận cơ bản tạo ra sản phẩm - hoạt đong chính của mỗi doanh 
nghiệp. 
 Như vậy, hoạt động đầu tư vào TSCĐ đóng vai trò quan trọng nhất nếu không muốn 
nói là đóng vai trò quyết định đối với phần lợi nhuận thu được của doanh nghiệp ( mặc dù 
chúng ta chưa đề cập đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm ). Các hãng thường tăng cường thêm 
TSCĐ khi họ thấy trước những cơ hội có lợi để mở rộng sản xuất, hoặc vì có thể giảm bớt chi 
phí bằng cách chuyển sang những phương pháp sản xuất dùng nhiều vốn hơn. 
 TSCĐ bao gồm cơ sở hạ tầng xây dựng và máy móc thiết bị. Đầu tư xây dựng cơ sở 
hạ tầng (CSHT) là một trong những hoạt động được thực hiện đầu tiên của mỗi công cuộc đầu 
tư ( trừ trường hợp đầu tư chiều sâu). Hoạt động đó bao gồm các hạng mục xây dựng nhằm 
tạo điều kiện và đảm bảo cho dây chuyền thiết bị sản xuất, công nhân hoạt động thuận lợi an 
toàn. Đó là các phân xưởng sản xuất chính, phụ; hệ thống điện nước, giao thông, thông tin liên 
lạc, các văn phòng, khu công cộng khác ... Để thực hiện tốt các hạng mục này thì phải tính đến 
các điều kiện thuận lợi, khó khăn của vị trí địa lý, địa hình, địa chất... đồng thời căn cứ vào yêu 
cầu về đặc tính kĩ thuật của máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, cách tổ chức điều hành và 
các yêu cầu khác. 
 Đầu tư MMTB gắn bó chặt chẽ với chiến lược sản phẩm của các doanh nghiệp. Đây là 
bộ phận chiếm tỉ trọng vốn lớn nhất trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp sản xuất. Mặt 
khác, trong điều kiện phát triển của khoa học công nghệ nên có nhiều tầng công nghệ, nhiều 
cơ hội để lựa chọn MMTB phù hợp về nhiều mặt. Do đó, việc đầu tư cho MMTB, DCCN 
phải được thực hiện dựa trên các tiêu chuẩn sau: 
 - Cho phép sản xuất ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao. 
 - Cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của doanh nghiệp, của 
vùng như lao động, nguyên liệu. 
 - Giá cả và trình độ công nghệ phải phù hợp với năng lực của doanh nghiệp và xu thế 
phát triển công nghệ của đất nước và thế giới. 
 Khi đầu tư, doanh nghiệp cần phải có đội ngũ cán bộ am hiểu nhất định về công nghệ, 
biết định giá chính xác về thiết bị công nghệ. Giá của công nghệ gồm nhiều thành phần: chi 
phí sản xuất, chi phí mua bằng sáng chế, bí quyết kĩ thuật, thương hiệu, chi phí huấn luyện 
chuyên môn ... Phần khó định giá nhất là chi phí sáng chế, bí quyết kĩ thuật hay còn gọi là " 
phần mềm ". Hơn nữa, doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ lớn nếu mua được thiết bị rẻ nhưng hoạt 
động không hiệu quả. Để có được thiết bị như mong muốn thông thường các doanh nghiệp 
áp dụng phương thức đấu thầu. 
 Hoạt động đầu tư vào MMTB của doanh nghiệp có thể diễn ra dưới hai hình 
thức: Đầu tư chiều rộng (trình độ kĩ thuật và công nghệ như cũ) và đầu tư chiều sâu 
(hiện đại hoá công nghệ).Trong đó đầu tư tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh 
nghiệp nhấn mạnh hình thức thứ hai. Để đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp có thể 
thực hiện bằng các con đường sau: 
 - Cải tiến, hiện đại hoá công nghệ truyền thông hiện có. 
 - Tự nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ mới. 
 - Nhập công nghệ tiên tiến từ nước ngoài thông qua mua sắm trang thiết bị và 
chuyển giao công nghệ. 
 3.2. Đầu tư vào hàng tồn trữ: 
 Hàng tồn trữ của doanh nghiệp là toàn bộ nguyên vật liệu, bán thành phẩm, 
chi tiết, phụ tùng, thành phẩm được tồn trữ trong doanh nghiệp. 
 Trước đây, người ta ít coi trọng đến đầu tư hàng tồn trữ và coi đây như là một 
hiện tượng bất thường, không đưa lại kết quả như mong muốn của doanh nghiệp. 
Trong nền kinh tế thị trường, yêu cầu hoạt động của doanh nghiệp cho thấy rằng việc 
đầu tư hàng tồn trữ là cần thiết, bởi hai lí do cơ bản sau: 
 Thứ nhất, hãng có thể dự đoán hay khẳng định giá cả sẽ tăng. Ví dụ giá dầu 
mỏ tăng mạnh, nhiều hãng muốn mua với khối lượng lớn vì mua bây giờ sẽ rẻ hơn 
sau này. Tương tự, các hãng có thể om hàng thành phẩm không chịu bán với hi vọng 
sẽ bán được giá cao hơn trong tương lai gần. 
 Thứ hai, các hãng có ý định giữ lại hàng dự trữ là do nhiều quá trình sản xuất 
cần có thời gian để hoàn tất. Một số hàng dự trữ có vai trò là khâu trung gian của các 
đầu vào trước khi chúng trỏ thành sản phẩm. Nhưng còn một động cơ khác nữa là để 
đề phòng nhu cầu về sản phẩm của hãng bất ngờ tăng lên. Do không thể thay đổi 
công suất nhà máy một cách nhanh chóng, hãng có thể phải chi trả một khoản lớn 
cho việc làm ngoài giờ nếu hãng muốn đáp ứng được đơn đặt hàng tăng vọt; do vậy 
có thể sẽ ít tốn kém hơn nếu giữ một lượng hàng dự trữ để đáp ứng nhu cầu tăng đột 
ngột đó. Tương tự, khi có suy thoái tạm thời, việc tiếp tục sản xuất và tích trữ một số 
hàng không bán được có thể rẻ hơn là phải những khoản trợ cấp tốn kém trả cho số 
lao động dôi thừa với mục đích giảm bớt lực lượng lao động và cắt giảm sản xuất. 
 Ngoài hai lí do trên thì đầu tư hàng dự trữ còn có tác dụng điều hoà sản xuất, 
đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, hợp lí, hiệu quả. 
 Căn cứ vào mục đích dự trữ, dự trữ được chia thành các loại cơ bản sau: 
 - Dự trữ chu kì: là bộ phận dự trữ thay đổi theo qui mô của đơn đặt hàng. 
 - Dự trữ bảo hiểm: là khoản dự trữ cho tình trạng bất định về cung cầu và thời 
gian chờ hàng. 
 - Dự trữ thời vụ: là khoản dự trữ đáp ứng vào những thời kì thời vụ. 
 Xét về mặt chi phí, bằng việc giữ lại các hàng hoá lẽ ra có thể bán được, hay 
mua vào những hàng hoá mà việc mua đó đáng ra có thể hoãn lại, hãng giữ lại khoản 
tiền đáng ra có thể sử dụng theo cách khác để thu lãi. Do đó, chi phí của việc giữ 
hàng tồn kho chính là khoản lãi cho số tiền có thể thu được bằng cách bán những 
hàng hoá này đi hay số tiền bỏ ra để mua chúng. 
 Khi lãi suất thực tế tăng, việc giữ hàng tồn kho trở nên tốn kém, cho nên các 
doanh nghiệp hành động hợp lí tìm cách giảm bớt hàng tồn kho của mình. Bởi vậy, 
việc tăng lãi suất tạo ra áp lực đối với đầu tư vào hàng tồn kho. Chẳng hạn vào những 
năm 1980, nhiều doanh nghiệp áp dụng kế hoạch sản xuất "đúng lúc" (Just in time), 
để cắt giảm khối lượng hàng tồn kho bằng cách sản xuất hàng hoá ngay trước khi 
bán. Lãi suất cao phổ biến trong phần lớn thập kỉ đó là một cách để lí giải sự thay 
đổi trong chiến lược kinh doanh. 
 Đây là một khoản chi phí tương đối lớn trong vốn đầu tư của doanh nghiệp. Vì 
vậy, trong quá trình sử dụng phải tính toán kĩ lưỡng, tránh tồn kho quá nhiều hoặc 
quá ít, đảm bảo hiệu quả của đồng vốn và đ

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_dau_tu_nang_cao_kha_nang_canh_tranh_cua_cong_ty_ba.pdf