Tiểu luận Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam

pdf 20 trang yenvu 26/04/2024 1400
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam

Tiểu luận Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
 
TIỂU LUẬN 
MÔN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 
ĐỀ TÀI: 
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ 
TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM 
GVHD :PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DỜN 
LỚP : NGÂN HÀNG ĐÊM 2 - K16 
SVTH : NHÓM 13 
TpHCM, 01/ 2008 
I. Tổng quan về trái phiếu và thị trường trái phiếu. 
1. Trái phiếu: 
1.1. Khái niệm: 
Trái phiếu là loại chứng khốn xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người 
sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. (Luật Chứng khốn số 
70/2006/QH 11) 
1.2. Đặc điểm của trái phiếu: 
Trái phiếu là một loại giấy nợ do chính phủ hay doanh nghiệp phát hành để 
huy động vốn dài hạn cịn gọi là chứng khốn nợ, cĩ kỳ hạn nhất định, thường 3-5 
năm là trung hạn và 7-10 năm trở lên là dài hạn. Cuối kỳ đáo hạn phải trả lại vốn 
gốc cho trái chủ. 
Mệnh giá là giá trị danh nghĩa của trái phiếu được in ngay trên tờ phiếu, đại 
diện cho số tiền được trả tại thời điểm đáo hạn. 
Được hưởng lãi cố định và tỷ suất lãi trái phiếu khơng cao nhưng khơng phụ 
thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh, ít rủi ro. Trong trường hợp trái phiếu là cơng 
trái thì hầu như khơng cĩ yếu tố rủi ro. Tỷ suất lãi trái phiếu là lãi suất danh nghĩa 
của trái phiếu qui định mức lãi mà nhà đầu tư được hưởng hàng năm. Thơng thường 
cĩ 2 phương thức trả lãi: 6 tháng/lần và 1 năm/lần. 
Trong trường hợp là trái phiếu cơng ty, khi cơng ty bị giải thể thanh lý tài sản, 
người cầm trái phiếu được ưu tiên trả nợ trước cổ đơng. 
1.3. Phân loại trái phiếu: 
a. Phân loại theo chủ thể phát hành: 
- Trái phiếu chính phủ: do ngân sách chính quyền trung ương hay địa phương 
phát hành nhằm mục đích bù đắp các khoản chi đầu tư của ngân sách Nhà nước, 
quản lý lạm phát hay tài trợ cho các cơng trình, các dự án của Nhà nước. 
Trái phiếu cơng trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho 
những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những cơng trình cơ sở hạ tầng hay 
cơng trình phúc lợi cơng cộng. Trái phiếu này cĩ thể do chính phủ trung ương hoặc 
chính quyền địa phương phát hành. 
- Trái phiếu doanh nghiệp: do các doanh nghiệp phát hành (cĩ đủ điều kiện của 
UBCK) nhằm mục đích đầu tư dài hạn cho doanh nghiệp, mở rộng quy mơ phát 
triển sản xuất kinh doanh. 
b.Phân loại theo tính chất chuyển nhượng: 
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu cĩ ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên 
chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh cĩ thể chỉ thực hiện 
cho phần vốn gốc, cũng cĩ thể là ghi danh tồn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh tồn 
bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hồn tồn khơng 
cĩ dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của 
chủ sở hữu trên máy tính. 
- Trái phiếu vơ danh: là trái phiếu khơng mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ 
cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng 
chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng 
nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nĩ mang chứng chỉ tới ngân hàng để 
nhận lại khoản cho vay. 
c. Phân loại theo phương thức trả lãi. 
- Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu khơng trả lãi định kỳ. Căn cứ vào lãi 
suất thị trường lúc phát hành để định ra giá của trái phiếu, giá này rất thấp so với 
mệnh giá gọi là giá chiết khấu, nhưng khi đáo hạn trái chủ lại được hồn lại vốn gốc 
bằng với mệnh giá của trái phiếu. 
- Trái phiếu lợi tức: là trái phiếu trả lãi suất ổn định và định kỳ thường 6 tháng 
hay một năm một lần, nĩ ràng buộc doanh nghiệp nghĩa vụ phải trả lãi trong suốt 
thời gian lưu hành trái phiếu. 
Ngồi ra, trái phiếu cịn được phân loại theo phạm vi lưu thơng thành: Trái 
phiếu quốc nội, và trái phiếu quốc tế. Trái phiếu quốc tế là loại chứng chỉ vay nợ cĩ 
mệnh giá, cĩ thời hạn, cĩ lãi phát hành để vay vốn trên thị trường vốn quốc tế. Các 
đối tượng phát hành cơng cụ tài chính này thường là chính phủ, các ngân hàng 
thương mại, hoặc các doanh nghiệp cĩ nhu cầu sử dụng nguồn vốn quốc tế. 
2. Thị trường trái phiếu: 
Thị trường trái phiếu đĩng một vai trị rất quan trọng trong nền kinh tế, thực 
hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đĩ thực hiện 
chức năng của thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền 
kinh tế. 
Thị trường trái phiếu là thị trường thực hiện giao dịch, mua bán các loại trái 
phiếu do chính phủ hoặc cơng ty phát hành. Thị trường trái phiếu bao gồm thị 
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. 
2.1. Thị trường sơ cấp (primary market): 
Đây là nơi mua bán những trái phiếu mới phát hành. Vì thế, trong thực tế 
người ta còn gọi thị trường phát hành trái phiếu. Nguồn vốn chủ yếu của thị trường 
này là nguồn tiền tiết kiệm của công chúng cũng như một số tổ chức phi tài chính. 
Như vậy, thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng của thị trường trái phiếu 
đó là mang nguồn tiền nhàn rỗi đến cho người cần sử dụng, đưa tiền tiết kiệm vào 
công cuộc đầu tư. Với đặc tính thị trường sơ cấp là nơi phát hành lần đầu tiên trái 
phiếu ra công chúng cho nên nó được xem là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát 
hành và chỉ tạo ra phương tiện huy động vốn. Vì thế, vai trò của thị trường sơ cấp là 
tạo ra hàng hoá cho thị trường giao dịch và là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. 
Trong thị trường sơ cấp, nhà phát hành (người bán trái phiếu) là người huy động 
vốn và người đầu tư mua trái phiếu là nhà đầu tư. 
Việc phát hành lần đầu tiên trái phiếu ra công chúng là giai đoạn gay go nhất, 
vì nếu không đạt được kết quả thì trái phiếu phát hành sẽ không tiêu thụ được và 
làm mất uy tín của đơn vị phát hành. Không phải nhà phát hành nào cũng có đủ điều 
kiện để thực hiện tốt việc phát hành nên trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức 
trung gian giữa nhà phát hành và người đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành trái 
phiếu. 
Tuỳ thuộc vào cung cầu, giá trái phiếu ở thị trường sơ cấp có thể cao hơn hoặc 
thấp hơn giá trị danh nghĩa của trái phiếu. 
Nhà phát hành sẽ thu được vốn mới chỉ khi những trái phiếu của nó được bán 
lần đầu tiên trên thị trường sơ cấp. Sau đó, việc mua bán các trái phiếu này trên thị 
trường trái phiếu thứ cấp sẽ không làm ảnh hưởng đến số vốn của người phát hành. 
2.2. Thị trường thứ cấp (secondary market): 
Đây còn được gọi là thị trường cấp hai, là nơi mua bán các trái phiếu đã được 
phát hành trên thị trường sơ cấp. Đây cũng là một bộ phận quan trọng của thị trường 
tài chính và có mối quan hệ chặt chẽ với thị trường sơ cấp và khác với thị trường sơ 
cấp là nó hoạt động một cách liên tục. Trái phiếu giao dịch trên thị trường này có 
thể được mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau với tác động của 
quan hệ cung cầu và nhiều nhân tố khác. Nhờ có thị trường thứ cấp, những người có 
vốn nhàn rỗi tạm thời có thể yên tâm đầu tư vào trái phiếu, vì khi cần tiền họ có thể 
bán lại các trái phiếu của mình cho các nhà đầu tư khác trên thị trường. 
Thị trường thứ cấp thực hiện các chức năng sau: 
- Tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằm thu tiền mặt, tức 
là tạo cho các công cụ tài chính tăng cao tính thanh khoản. 
- Kiếm lời từ việc nắm giữ trái phiếu. 
- Xác định giá trái phiếu hợp lý trên cơ sở đấu giá tự do. 
- Giá hợp lý trên thị trường cấp hai ảnh hưởng đến giá phát hành trái phiếu 
trên thị trường sơ cấp. 
2.3. Mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: 
Tóm lại, giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ 
với nhau. M ối quan hệ giữa 2 thị trường này là mối quan hệ nội tại, trong đó thị 
trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đề để cho thị trường thứ cấp hoạt động; thị 
trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có trái phiếu 
cho thị trường thứ cấp hoạt động; và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì 
thị trường sơ cấp khó có thể hoạt động một cách trôi chảy được. Vì khi đó các loại 
trái phiếu rất khó khăn khi phát hành, không ai dám đầu tư vào trái phiếu vì trái 
phiếu không thể chuyển đổi thành tiền tệ khi cần, vốn của họ bị ứ động. 
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý 
thuyết. Trong thực tế, hoạt động của thị trường trái phiếu chúng ta không thể chỉ rõ 
ra được đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp, bởi vì trong hoạt động 
của thị trường trái phiếu vừa diễn ra việc phát hành trái phiếu vừa diễn ra việc mua 
đi bán lại trái phiếu. 
II. Thực trạng phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam: 
1. Quá trình hình thành và phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam: 
Trước năm 1994, tuy chưa cĩ văn bản quy phạm pháp luât nào đề cập về trái 
phiếu và các hình thức giao dịc trái phiếu, song đã cĩ một số loại chứng khốn chính 
phủ được bán ra thị trương như tí phiếu kho bạc phát hành qua kho bạc giai đoạn 
1992 – 1994 huy động được khoảng 13.000 tỷ đồng, trái phiếu cơng trình đường 
dây 500kV là 334 tỷ đồng.... 
Nghị định 72-CP ngày 26/07/1994 ra đời đã chính thức hố hoạt động phát 
hành trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên, các quy định trong nghị định này cịn nhiều 
hạn chế như: hình thức trái phiếu mới chỉ giới hạn ở tín phiếu kho bạc, trái phiếu 
kho bạc và trái phiếu cơng trình; các quy định cịn chung chung, chưa cụ thể, rõ 
ràng. Do đĩ, hoạt động phát hành và giao dịch trái phiếu vẫn cịn hạn chế. 
Về trái phiếu doanh nghiệp, Chính phủ ban hành nghị định 120/CP ngày 
17/9/1994 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp nhà nước, thị trường 
trái phiếu bắt đầu manh nha hình thành. Tuy nhiên, phải đến năm 1996, thị trường 
trái phiếu doanh nghiệp mới cĩ những bước đột phá mới, khởi đầu bằng việc cơng ty 
Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) huy động được 5 triệu USD. Năm 1998, cơng ty Cổ 
phần Cơng nghệ thơng tin EIS huy động được 10 tỷ. 
Cho đến năm 2000 khi thị trường chứng khốn đi vào hoạt động đã đánh dấu 
giai đoạn khởi động của thị trường trái phiếu cũng như các loại chứng khốn khác 
trên thị trường tài chính. Nghị định 72-CP được thay thế bằng Nghị định 
01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 đã cho thấy sự cải thiện về mặt pháp lý cho hoạt 
động của thị trường trái phiếu nĩi riêng. 
Năm 2003, Tổng cơng ty Dầu khí huy động được 300 tỷ; Tổng cơng ty Xi 
măng được 200 tỷ đồng; EVN được 300 tỷ. Việc huy động vốn trên thị trường trái 
phiếu trong giai đoạn này hầu như chưa phát triển. Các tổ chức phát hành chủ yếu là 
các tổ chức tín dụng và rất ít các doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp. 
Tháng 10/2005, Việt Nam đã thành công trong lần đầu tiên phát hành trái 
phiếu Chính phủ ra thị trường vốn quốc tế với tổng giá trị huy động 750 triệu USD. 
Đợt trái phiếu này sẽ được mua bán lại trên tất cả các trung tâm chứng khoán (thị 
trường thứ cấp) lớn như Hongkong, Singapore, London, New York, Boston... liên 
tục đến năm 2016. Trong đợt phát hành trái phiếu đầu tiên để huy động vốn cho 
ngành đóng tàu. M ức lãi suất của trái phiếu chính phủ Việt Nam hiện đang là 
5,78%, thấp hơn mức 5,95% của loại trái phiếu có kỳ hạn và xếp hạng tín dụng 
tương đương của Chính phủ Brazil. Điều này chứng tỏ trái phiếu của Việt Nam có 
mức độ hấp dẫn hơn. So với trái phiếu Chính phủ kỳ hạn tương đương Mỹ, hiện nay 
lãi suất của trái phiếu Việt Nam cũng chỉ cao hơn có 1,25%. 
Một loại trái phiếu khác gần đây đã trở thành hiện tượng trên thị trường chứng 
khoán Việt Nam là trái phiếu chuyển đổi. Tính hấp dẫn của nó là ở chỗ nó cho phép 
nhà đầu tư chyển đổi sang cổ phiếu thường vào một thời điểm nhất định trong tương 
lai. Do kì vọng này mà nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận một mức lãi suất rất thấp, 
giúp các công ty phát hành nhanh chóng huy động được một số vốn lớn với chi phí 
tài chính dễ chịu. Trái phiếu chuyển đổi của Ngân hàng Ngoại thương 
(Vietcombank), có mặt trên thị trường tháng 12/2005, được đánh giá là một mặt 
hàng rất lợi cho ngân hàng này khi lãi suất trúng thầu chỉ ở mức 6%/năm, thấp hơn 
nhiều so với lãi suất trên thị trường vào khoảng 8-10%. Đi đầu trong số này là ngân 
hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB), ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên 
ở Việt Nam được phát hành trái phiếu chuyển đổi thực thụ. 
Năm 2006 đánh dấu một bước ngoặc mới cho thị trường trái phiếu doanh 
nghiệp Việt Nam khi Nghị định 52/2006/NĐ-CP chính thức được ban hành. Theo 
đĩ, chủ thể phát hành trái phiếu khơng chỉ là các doanh nghiệp Nhà nước như trước 
đây mà cịn cĩ các cơng ty TNHH, cơng ty cổ phần và doanh nghiệp cĩ vốn đầu tư 
nước ngồi với một nguyên tắc chung là các doanh nghiệp phải tự vay, tự trả, tự chịu 
trách nhiệm và cơng khai minh bạch thơng tin. 
Trong năm 2006, Cơng ty Cơng nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) huy 
động được 800 tỷ đồng, Tập đồn EVN: 5.000 tỷ đồng. Đến tháng 7/2007, Vinashin 
phát hành thêm được 3.000 tỷ đồng, Vilexim được 5 tỷ, Tổng cơng ty thép được 
400 tỷ đồng, Vinaconex huy động được 1.000 tỷ đồng. 
Quyết định số 2276/2006/QĐ-BTC đã tạo ra một thị trường đấu thầu trái phiếu 
hoạt động thường xuyên, hiệu quả hơn, tạo được niềm tin cho các thành viên tham 
gia thị trường. Hoạt động đấu thầu trái phiếu chính phủ bước đầu góp phần đáp ứng 
nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế và cho các dự án đầu tư trọng điểm, từng 
bước nâng cao tỷ trọng trái phiếu/GDP. Đã có hơn 400 mã trái phiếu với giá trị 
niêm yết là 85.321 tỷ đồng, tính bình quân giao dịch trái phiếu 6 tháng đầu năm 
2007 là 351,29 tỷ đồng/ngày. Thị trường trái phiếu Việt Nam được cấu thành từ một 
số yếu tố cơ bản, đó là các tổ chức phát hành trái phiếu để thu hút nguồn vốn vay 
trung và dài hạn, các nhà đầu tư, các trung gian, cơ sở hạ tầng trong đó có khung 
pháp lý tạo môi trường cho hoạt động phát hành và giao dịch trái phiếu. 
Trung tuần tháng 3/2007, 300 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ lần đầu tiên được 
phát hành đấu thầu theo lô lớn (lô 100, 200, 300... tỷ đồng) đã được các nhà đầu tư 
nước ngoài mua hết với mức lãi suất thấp nhất trong vòng ba năm trở lại đây 
6,8%/năm. Từ sau lần này, những đợt phát hành tiếp theo lãi suất trái phiếu sẽ cố 
định, nhưng mệnh giá sẽ thay đổi. Giá trái phiếu sẽ không là 100.000 đồng nữa, mà 
có thể xuống 99.000-98.000 đồng hay lên 101.000-102.000 đồng. Sức hấp dẫn của 
trái phiếu càng cao, thì giá trúng thầu sẽ càng thấp hơn mệnh giá và ngược lại. 
 Tính đến 15/10/2007, tổng giá trị vốn hoá trên thị trường trái phiếu đạt gần 
114.000 tỷ đồng chiếm 11,7% GDP 2006. 
2. Cơ cấu của các loại hình trái phiếu ở Việt Nam: 
Thị trường trái phiếu ở nước ta hiện nay bao gồm các bộ phận cấu thành là thị 
trường trái phiếu chính phủ; trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu cơng 
ty, trong đĩ cĩ các cơng ty nhà nước và cơng ty thuộc khu vực tư nhân. 
 _ Trái phiếu chính phủ: 80% 
 _ Trái phiếu chính quyền địa phương: 10%. 
 _ Trái phiếu doanh nghiệp: 10% (trong số đĩ chủ yếu là các tổng cơng ty lớn 
như Vinaconex, EVN, Vinashin, Sơng Đà). 
Cơ cấu này thể hiện sự bất hợp lý và chứng tỏ thị trường trái phiếu Việt Nam 
chưa phát triển. Hàng hĩa hàng hố chủ yếu là trái phiếu chính phủ, vẫn chiếm tới 
80% tổng lượng trái phiếu phát hành, trong khi đĩ trái phiếu cơng ty mới là yếu tố 
quyết định sự sơi động và sức hấp dẫn của thị trường này. Thị trường trái phiếu 
doanh nghiệp ở Việt Nam cịn hạn chế do độ tin cậy của phần lớn các doanh nghiệp 
đối với nhà đầu tư chưa cao, các trái phiếu chưa được định hạn cũng như những hạn 
chế khách quan về quy mơ hoạt động, hệ thống kế tốn - kiểm tốn, định mức tín 
nhiệm. Đối với thị trường nhỏ, các nhà đầu tư thường băn khoăn về tính thanh 
khoản. Nếu như trái phiếu chính phủ cĩ mức rủi ro thanh tốn thấp, tạo được sự tin 
cậy thì các nhà đầu tư lại tỏ ra khá dè dặt với trái phiếu doanh nghiệp. Thị trường 
chưa phong phú do số nhà phát hành nhỏ, số lượng trái phiếu phát hành cịn thấp nên 
nhà đầu tư cĩ rất ít lựa chọn. 
3. Đánh giá về thị trường trái phiếu Việt Nam: 
Nhìn chung quy mô của thị trường còn nhỏ, cơ sở hạ tầng thanh toán trong hệ 
thống tài chính Việt Nam vừa yếu vừa thiếu đang là những mặt hạn chế đối với sự 
phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam. Cụ thể bao gồm một số điểm sau: 
Trước hết, quy mô của trái phiếu khoảng cuối năm 2007 tổng giá trị khoảng 
trên 70 nghìn tỷ đồng Việt Nam, chỉ bằng 7,7% GDP, một tỉ lệ khá thấp so với thị 
trường trái phiếu của các nước trong khu vực (bình quân khoảng 50-70%, trừ Nhật 
Bản trên 100%). 
Huy động vốn thông qua loại hình trái phiếu hiện chưa phải là kênh phổ biến 
mà chủ yếu là thông qua hệ thống ngân hàng với tổng tài sản chiếm đến 80% cơ cấu 
tài sản tài chính. Điều này tạo sự bất cân xứng trong kỳ hạn huy động vốn và cho 
vay của hệ thống ngân hàng, thiếu một kênh huy động vốn dài hạn để phục vụ cho 
các mục tiêu phát triển lâu dài. Cả hai yếu tố này đều góp phần làm tăng chi phí vốn 
cho nền kinh tế. 
Mặt khác, lượng trái phiếu phát hành bằng đồng nội tệ hiện chủ yếu được giao 
dịch hoặc nắm giữ bởi các ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính tương đương cũng 
làm cản trở sự phát triển của thị trường trái phiếu. Điều này tạo sự đơn điệu trong 
danh mục đầu tư, dẫn đến giá trái phiếu có mức biến động đáng kể khi các nhà đầu 
tư này thực hiện bán ra hoặc mua vào. 
Trái phiếu chính phủ Việt Nam hiện nay vẫn được phát hành manh mún, lẻ tẻ, 
nhiều loại, nhiều kỳ hạn khác nhau. Khối lượng phát hành mỗi đợt tương đối nhỏ 
chỉ khoảng 20 - 30 triệu USD/đợt khó thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư có tổ 
chức và vì vậy cũng làm giảm sức hấp dẫn của trái phiếu chính phủ. 
Thể chế pháp luật còn thiếu các qui định cần thiết nên hạn chế sử dụng các 
công cụ bảo hiểm rủi ro như hoán đổi lãi suất, mua bán kỳ hạn hay tái mua lại nhằm 
giúp nhà đầu tư có thể bảo vệ rủi ro cho mình. 
Hàng hố giao dịch trên thị trường trái phiếu chủ yếu là trái phiếu Chính phủ 
nên chưa tạo được sức hấp dẫn cho nhà đầu tư. Trái phiếu doanh nghiệp, mặc dù cĩ 
nhiều ưu điểm nhưng hiện tại chưa phải là một kênh huy động vốn được nhiều 
doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp cho đến cuối 
tháng 11/2007, vẻn vẹn chỉ cĩ 12 doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp. 
Sau 1 năm thực hiện Nghị định 52, trên thị trường trái phiếu quanh đi quẩn lại cũng 
chỉ cĩ vài gương mặt cũ tham gia, như: Vinashin, Tổng cơng ty Thép Việt Nam, 
Tổng Cơng ty Sơng Đà, Tập đồn Điện lực (ngồi Vinaconex huy động 1.000 tỉ đồng, 
Vilemim huy động 5 tỉ đồng...). 
Nhiều đợt đấu giá trái phiếu Chính phủ gần đây mặc dù khối lượng đăng ký 
đấu thầu tương đối cao, bình quân gấp 3 lần khối lượng gọi thầu, nhưng tỉ lệ thành 
cơng lại cĩ xu hướng giảm dần. Cụ thể, quý I/2007 tỉ lệ thành cơng đạt 99%; quý 
II/2007 giảm xuống 82,46% và đến cuối quý III/2007 giảm cịn 58,39%. Nguyên 
nhân chủ yếu do việc đưa ra mức lãi suất trần thấp, chỉ 7,05 - 7,8%/năm (cĩ đợt chỉ 
là 6,5%/năm) đối với trái phiếu kỳ hạn 5 năm; 7,95% - 8,6%/năm đối với trái phiếu 
kỳ hạn 10 năm; 8 - 8,8%/năm đối với trái phiếu kỳ hạn 15 năm, trong khi kỳ vọng 
về lãi suất của nhà đầu tư ngày một cao, xuất phát từ việc tăng dự trữ bắt buộc từ 
5% lên 10%. 
Phần lớn giao dịch chỉ tập trung ở thị trường sơ cấp, ở thị trường thứ cấp khối 
lượng giao dịch trái phiếu rất "nhỏ giọt". M ột phần vì tâm lý nhà đầu tư thích nắm 
giữ trái phiếu chờ đến ngày đáo hạn để hưởng lãi. Một phần vì chi phí giao dịch trái 
phiếu ở Việt Nam quá cao. Theo quy định, việc giao dịch trái phiếu chính phủ phải 
thơng qua các cơng ty chứng khốn- là tổ chức trung gian thu phí cả người mua lẫn 
người bán. Để một giao dịch trái phiếu chính phủ 100 tỉ đồng được hồn tất thì nhà 
đầu tư phải mất đến cả 100 triệu đồng tiền phí, mà thơng thường những giao dịch 
mua bán trái phiếu chính phủ là những giao dịch lớn, ít nhất cĩ giá trị từ 100-300 tỉ 
đồng. Chính điều này làm cho thị trường trái phiếu chính phủ của Việt Nam khơng 
thu hút được nhiều nhà đầu tư giao dịch, nhất là các ngân hàng nước ngồi. 
Hệ thống thanh tốn chưa cĩ sự liên thơng giữa các thị trường trong khu vực, 
dẫn đến nhà đầu tư gặp khĩ khăn khi giao dịch xuyên biên giới và điều này cũng làm 
cho nhà đầu tư khơng mặn mà mấy với loại hình chứng khốn này. 
Hiện nay Trung tâm Giao dịch chứng khốn (TTGDCK) thành phố Hồ Chí 
Minh đang sử dụng một hệ thống giao dịch chung cho cả trái phiếu và cổ phiếu. 
Tuy nhiên, điều này sẽ cản trở việc phát triển thị trường thứ cấp khi ngày càng cĩ 
nhiều tổ chức khác nhau tham gia thị trường, vì các giao dịch cổ phiếu và trái phiếu 
cĩ nhiều đặc điểm rất khác nhau. 
Tại cuộc Hội thảo “Phát triển thị trường trái phiếu ở Việt Nam” cách đây ít 
lâu, các chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu Nomura (Nhật Bản) đã đưa ra một báo 
cáo tổng kết, trong đĩ tĩm lược 5 nhược điểm lớn của thị trường trái phiếu Việt Nam 
hiện nay là: các tiêu chí phát hành khơng được quy định rõ ràng; thiếu thơng tin; 
chưa cĩ tổ chức định mức tín nhiệm (CRA); các quy định điều chỉnh việc chào bán 
riêng lẻ khơng đầy đủ và hệ thống giao dịch trái phiếu khơng đồng bộ. Cụ thể là: 
mặc dù các đợt phát hành trái phiếu được phê duyệt căn cứ theo năng lực của tổ 
chức phát hành, nhưng lại khơng cĩ một quy định rõ ràng về tiêu chí để xác định 
năng lực trong các văn bản pháp luật. Điều này đã khiến các nhà phát hành và cơ 
quan phê duyệt tốn rất nhiều thời gian trong việc đàm phán và vì thế, khơng khuyến 
khích các nhà phát hành tiềm năng huy động vốn qua kênh phát hành trái phiếu. 
Ngồi ra, trái phiếu chính quyền địa phương là trái phiếu nghĩa vụ chung, nhưng quy 
định pháp luật mới chỉ chú trọng vào mục đích sử dụng vốn, chứ chưa tập trung vào 
khả năng trả nợ vay. Việc cơng bố thơng tin khơng đầy đủ, khơng cĩ bản cáo bạch... 
là nguyên nhân khiến các nhà đầu tư tiềm năng khơng mặn mà đầu tư vào trái 
phiếu, đặc biệt là các tổ chức như các cơng ty bảo hiểm. Những ý kiến trên phần 
nào giải thích được thực trạng là cho dù thị trường trái phiếu ở Việt Nam rất nhiều 
tiềm năng, nhưng đã chưa phát huy được trong giai đoạn vừa qua. 
Tuy vậy, những đợt phát hành vừa qua cho thấy nhu cầu của nhà đầu tư đang 
rất quan tâm đến thị trường trái phiếu chính phủ phát hành bằng đồng nội tệ, khối 
lượng đặt mua thường từ 2000 - 3000 tỷ VND, gấp 4 - 5 lần mức phát hành. Bên 
cạnh đĩ, trái phiếu USD của Việt Nam cũng đang rất hấp dẫn các nhà đầu tư nước 
ngồi. 
Cĩ thể nĩi thị trường trái phiếu Việt Nam đang ở giai đoạn khởi động, tuy quy 
mơ cịn nhỏ nhưng với mơi trường kinh tế xã hội ổn định, tỷ giá USD/VND trong 
những năm qua ít biến động (năm 2006 là 1%), thị trường trái phiếu Việt Nam được 
đánh giá sẽ tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngồi. Thêm vào đĩ, 
xu hướng các doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra cơng chúng thay vì chủ yếu huy 
động vốn vay từ ngân hàng sẽ mang đến một diện mạo mới cho thị trường trái 
phiếu, một sự chuyển mình và phát triển mạnh, bền vững. 
So với thị trường cổ phiếu cĩ nhiều phát triển vượt bậc thì thị trường trái phiếu 
đang phát triển khá chậm. Khơng chỉ ở Việt Nam, mà ở các thị trường mới nổi thị 
trường trái phiếu luơn đi sau thị trường cổ phiếu một bước. Theo quy luật, khi tất cả 
những điều kiện chủ quan và khách quan hội tụ đủ thị trường trái phiếu tương lai sẽ 
trở thành thị trường cĩ sức hấp dẫn rất lớn đối với nhà đầu tư. 
III. Nghiên cứu một số trường hợp trái phiếu Việt Nam điển hình: 
1. Trái phiếu quốc tế VinaShin: 
Năm 2005, Chính phủ quyết định thực hiện việc phát hành trái phiếu Việt 
Nam lần đầu trên thị trường quốc tế do Ngân hàng Credit Suisse First Boston bảo 
lãnh. Ngay ngày tiếp xúc với các nhà đầu tư đầu tiên tại Hồng Kơng (9/10), số 
lượng nhà đầu tư đặt mua đã đạt khoảng 1 tỷ USD, gấp 2 lần số lượng trái phiếu 
Chính phủ Việt Nam định phát hành. Đến ngày 26/10, sau khi Chính phủ quyết định 
tăng khối lượng phát hành thêm 250 triệu USD, khối lượng đặt mua từ các nhà đầu 
tư đã tăng lên gấp hơn 3 lần: từ mức 1 tỷ USD lên khoảng 3 tỷ USD. Ngày định giá 
trái phiếu, 29/10, số lượng trái phiếu các nhà đầu tư đặt mua đã lên đến con số 4,5 
tỷ USD. Kết quả đạt được là 750 triệu USD trái phiếu Việt Nam đã được bán hết 
với lãi suất danh nghĩa là 6,875%, đáo hạn vào năm 2016; trong đĩ các nhà đầu tư 
châu Á nắm giữ 38%, châu Âu 32%, châu Mỹ là 30%. Trong số các nhà đầu tư này 
thì các quỹ tài chính chiếm 52%, ngân hàng chiếm 25%, các cơng ty bảo hiểm là 
17% và các tổ chức tài chính khác là 7%. Ngay sau đợt phát hành trái phiếu quốc tế 
đầu tiên, Bộ Tài chính đã ký kết hợp đồng chuyển giao 750 triệu USD từ việc phát 
hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam cho Tổng cơng ty Cơng nghiệp tàu 
thủy Việt Nam (VinaShin). 
Tổng cơng ty Cơng nghiệp tàu thủy Việt Nam (VinaShin) là một trong 17 tổng 
cơng ty nhà nước lớn nhất Việt Nam với 36 đơn vị thành viên hạch tốn độc lập, phụ 
thuộc và 4 đơn vị liên doanh với nước ngồi trải dài từ Bắc tới Nam, sử dụng gần 
13.000 nhân cơng. Cơng suất hiện nay của VinaShin khoảng 300.000 tấn tàu/năm. 
Trong năm 2005 doanh thu VinaShin đạt trên 7.800 tỷ đồng, tăng 41% so với năm 
2004. VinaShin đã ký kết nhiều hợp đồng đĩng tàu với nước ngồi và đã cĩ cơ quan 
đại diện tại Mỹ, Australia, Hà Lan, Đức... để thuận lợi trong việc mở rộng thị 
trường. 
Đây là lần phát hành trái phiếu quốc tế thành cơng của chính phủ Việt Nam, 
tuy nhiên cùng với sự vui mừng vì vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đang 
ngày càng nâng cao thì nỗi lo “vay dễ, trả khĩ” lại được đặt ra. 
Ngành cơng nghiệp đĩng tàu của Việt Nam hiện nay cịn rất yếu kém, vẫn phải 
nhập khẩu từ nguyên nhiên liệu cho đến thiết kế. Thêm vào đĩ ngành cơng nghiệp 
đĩng tàu khơng phải là ngành thâm dụng vốn chứ khơng phải là thâm dụng lao 
động, nên Việt Nam ta khơng thể tận dụng yếu tố nhân cơng rẻ để cạnh tranh. 
VinaShin với 0,75% thị phần đĩng tàu của thế giới hiện nay, phải cạnh trạnh thế nào 
với những cường quốc đĩng tàu trên thế giới như: các nước nằm trong cái nơi ngành 
đĩng tàu thế giới – EU đang dẫn đầu về thị phần đĩng tàu thế giới, Hàn Quốc (7% ), 
Trung Quốc (11,7%),... 
Với những vấn đề trên thì một câu hỏi được đặt ra là “Liệu VinaShin sẽ sử 
dụng 750 triệu USD huy động được cĩ hiệu quả hay khơng?”. 
2. Trái phiếu đơ thị thành phố Hồ Chí Minh: 
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đầu tiên ở Việt Nam đã phát hành trái 
phiếu đơ thị. 
Năm 1995 thành phố đã phát hành trái phiếu đơ thị nhằm tài trợ cho dự án xây 
dựng đường thu phí Nguyễn Tất Thành. Trái phiếu được phát hành với lãi suất ấn 
định là 15%, thấp hơn lãi suất thị trường lúc hiện hành 21%. Tuy nhiên, theo bảng 
dưới đây ta thấy người mua chủ yếu là các ngân hàng thương mại (hơn 90%) trái 
phiếu đơ thị phát hành, cịn các cá nhân tham gia khơng đến 1 phần trăm. 
Người mua Số tiền 
(tỷ đồng) 
Tỷ lệ 
(%) 
Các ngân hàng thương mại 23,219 90,2 
 Ngân hàng thương mại quốc doanh 15,968 62,1 
 Ngân hàng thương mại cổ phần 7,251 28,2 
Các tổ chức kinh tế 2,494 9,7 
Cá nhân 0,021 0,1 
Bảng: Người mua trái phiếu đơ thị thành phố Hồ Chí Minh (1995) 
Lý do thứ nhất để các ngân hàng thương mại mua trái phiếu đơ thị tỷ lệ cao 
như trên đĩ là: trái phiếu đơ thị khơng bị đánh thuế, và các ngân hàng thương mại cĩ 
thể dùng trái phiếu làm dự trữ bắt buộc và thế chấp để vay vốn ở ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam. 
Lý do thứ hai để các ngân hàng thương mại sẵn lịng mua trái phiếu là ở chỗ 
rủi ro được xem là rất thấp. Bởi quyết định của Bộ Tài chính qui định rõ ràng là trái 
phiếu sẽ được đảm bảo thanh khoản bằng ngân sách địa phương thành phố Hồ Chí 
Minh. 
Trường hợp phát hành trái phiếu đơ thị thành phố Hồ Chí M inh được xem là 
thành cơng, bởi dự án xây dựng con đường thu phí Nguyễn Tất Thành là một 
trường hợp đặt biệt do khả năng sinh lợi hiển nhiên của nĩ và độ rủi ro thấp, trong 
khi thực tế rất ít dự án cĩ khả năng hồn trả dễ dàng vốn huy động cho nhà đầu tư 
như vậy. 
IV. Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay: 
Việc huy động vốn bằng phát hành trái phiếu được xem là phương thức mang 
lại nhiều lợi ích như: huy động vốn từ các thành phần kinh tế, hạn chế sự phụ thuộc 
vào nguồn vốn cấp phát, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, xã hội hĩa 
việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. M ặt khác, việc phát hành trái phiếu cũng cung 
cấp cho thị trường và các nhà đầu tư một cơng cụ tài chính, giúp đa dạng hĩa danh 
mục đầu tư và giảm thiểu rủi ro. 
Mở rộng thị trường trái phiếu trong và ngồi nước là giải pháp tất yếu nhằm 
huy động cĩ hiệu quả, cung ứng kịp thời nguồn vốn cần thiết cho việc đầu tư phát 
triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, giảm bớt gánh nặng về cung ứng vốn cho nền 
kinh tế của hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay và nhanh chĩng nâng cao vị trí 
của Việt Nam trên thị trường tài chính quốc tế. 
Do đĩ, để thị trường trái phiếu Việt Nam phát triển, chúng tơi xin đưa ra một 
số giải pháp như sau: 
1. Các giải pháp cho thị trường trái phiếu: 
Mở rộng quy mô và đa dạng hoá các loại trái phiếu, các phương thức phát 
hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh 
nghiệp trên thị trường vốn; phát triển các loại trái phiếu chuyển đổi của doanh 
nghiệp, trái phiếu công trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng trọng điểm của quốc 
gia. 
Lãi suất phát hành trái phiếu hiện nay vẫn chưa thực sự theo lãi suất thị 
trường, mà cĩ sự chỉ đạo lãi suất trần từ Bộ Tài chính, vì vậy chưa tạo được sự hấp 
dẫn đối với nhà đầu tư trái phiếu. Điều này, phần nào đã ảnh hưởng lớn đến việc 
huy động vốn thơng qua phát hành trái phiếu. Do đĩ, để thị trường trái phiếu phát 
triển, Việt Nam cần cĩ những biện pháp và hệ thống đánh giá chuẩn hơn để xác định 
lãi suất phát hành hợp lý. 
Đồng thời, tăng khối lượng phát hành thay vì phát hành nhiều đợt với số 
lượng nhỏ nhằm giảm chi phí phát hành và thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư cĩ tổ 
chức tham gia. 
1.1. Giải pháp đối với trái phiếu chính phủ: 
Tiếp tục phát hành trái phiếu chính phủ Việt Nam trên thị trường quốc tế. 
Nhanh chĩng giải ngân nguồn vốn huy động được để phục vụ phát triển hạ tầng, 
kinh tế, xã hội. Tăng cường kiểm tra, kiểm sốt chặc chẽ việc sử dụng vốn, tránh thất 
thốt lãng phí nhằm nâng cao mức tín nhiệm của trái phiếu chính phủ trên thị trường 
quốc tế. 
Tiếp theo sự thành cơng của đợt phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường 
quốc tế với tổng trị giá 750 triệu USD, trong thời gian tới cần nâng cao uy tín, 
thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế để các nhà đầu tư quốc tế cĩ thể tin 
tưởng vào tương lai sủa của nền kinh tế Việt Nam, để họ cĩ thể tin tưởng là nền kinh 
tế Việt Nam đã thực sự đổi mới thơng qua việc: chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hố 
tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; từng bước hình thành thể 
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; chuyển một nền kinh tế khép kín, nhập 
khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu 
đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà Việt Nam cĩ lợi thế và cĩ hiệu 
quả... Qua đĩ, các nhà đầu tư sẽ tỏ ra lạc quan với sự tăng trưởng cao và ổn định của 
nền kinh tế Việt Nam so với các nền kinh tế khác trong khu vực và các tổ chức quốc 
tế sẽ nâng mức tín nhiệm của nền kinh tế Việt Nam lên một bậc cao hơn. 
Hiện nay, trái phiếu Chính phủ, ngồi việc bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà 
nước cịn phát hành qua các nhà bảo lãnh hoặc đấu thầu qua TTGDCK, trong đĩ chỉ 
cĩ các loại trái phiếu phát hành qua bảo lãnh và đấu thầu mới được niêm yết trên 
TTGDCK, cịn trái phiếu phát hành qua kênh bán lẻ của Kho bạc Nhà nước thì 
khơng được niêm yết do ngày đáo hạn trái phiếu khơng đồng nhất. Do đĩ, khi thị 
trường đã ổn định, nên phát triển hình thức đấu thầu để tăng tính cạnh tranh và giảm 
chi phí. 
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn huy động được bằng cách: Phân bổ nguồn vốn 
cho các cơng trình dự án một cách hợp lý, quản lý các dự án và cơng trình sử dụng 
nguồn vốn này chặt chẽ nhằm mang đến hiệu quả cao tránh thất thốt. 
Song song đĩ, cần thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nước thơng qua việc phát 
hành trái phiếu chính phủ để thu hút nhà đầu tư trong và ngồi nước với mức lãi suất 
hấp dẫn, tính thanh khoản cao để nhà đầu tư cĩ thể đa dạng hĩa danh mục đầu tư, dễ 
dàng chuyển đổi thành các loại chứng khốn khác khi cần thiết. 
Hiện nay, 2 địa phương đã phát hành trái phiếu đơ thị huy động vốn để đầu tư 
phát triển kinh tế xã hội tại địa phương là Hà Nội và thành phố Hồ Chí M inh. Tuy 
nhiên mức độ phát hành chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu thực sự của nền kinh 
tế. Trong thời gian tới, cần đẩy nhanh tiến độ phát hành loại trái phiếu này với số 
lượng hợp lý trên phạm vi cả nước để huy động nhanh chĩng, cĩ hiệu quả nguồn vốn 
nhàn rỗi, thu hút vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngồi nước. 
Đa dạng hĩa trái phiếu chính quyền địa phương. Trái phiếu đơ thị cĩ thể được 
nghiên cứu phát hành dưới các dạng: trái phiếu đa thời hạn, trái phiếu đa thời hạn, 
trái phiếu thanh tốn từng phần, trái phiếu option, trái phiếu cĩ lãi suất thay đổi, trái 
phiếu xây dựng nhà ở, trái phiếu bệnh viện, trái phiếu hệ thống cấp thốt nước, trái 
phiếu cơng nghiệp, ... 
1.2. Giải pháp đối với trái phiếu cơng ty: 
Đẩy nhanh tốc độ cổ phần hố các doanh nghiệp nhà nước, Ngân hàng Nhà 
nước như: Vietcombank, MHB, MobiFone, Vinaphoneđây là cách tốt nhất để 
thúc đẩy thị trường. 
Tăng tính thanh khoản của trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường vốn thơng 
qua sự hổ trợ từ các cơng ty chứng khốn để các nhà đẩu tư cĩ thể dễ dàng mua bán 
lại các loại trái phiếu mà họ đang nắm giữ. 
Nới lỏng các điều kiện phát hành, điều kiện đảm bảo để các cơng ty cĩ thể dễ 
dàng huy động vốn trên thị trường thơng qua hình thức huy động vốn này. 
Nâng cao nhận thức về trái phiếu doanh nghiệp đối với các nhà quản lý tài 
chính trong các doanh nghiệp cũng như nhận thức của các nhà đầu tư. Để phát triển 
thị trường trái phiếu doanh nghiệp, trước hết phải nâng cao tính thanh khoản của trái 
phiếu chính phủ. Chỉ khi nào phát triển được thị trường trái phiếu chính phủ khi đĩ 
mới cĩ thể khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư đối với trái phiếu doanh 
nghiệp. Điều này cịn cĩ tác động tích cực tới cổ phiếu của chính các cơng ty đĩ. 
Bên cạnh đĩ, Nhà nước cần cĩ những chính sách thích hợp để khuyến khích các 
doanh nghiệp huy động vốn trực tiếp trên thị trường, hạn chế sự phụ thuộc quá mức 
vào việc cấp vốn qua kênh tín dụng, tiếp tục hồn thiện khuơn khổ pháp lý. Ngồi ra, 
việc hình thành và phát triển các tổ chức cung cấp dịch vụ cho thị trường trái phiếu 
như tổ chức định mức tín nhiệm, định giá trái phiếu; đẩy mạnh hợp tác khu vực và 
quốc tế cũng phải được tính đến. 
2. Các giải pháp về quản lý của nhà nước đối với thị trường trái phiếu: 
Từng bước hoàn chỉnh cấu trúc của thị trường vốn đảm bảo khả năng quản lý, 
giám sát của Nhà nước: 
- Tách thị trường trái phiếu ra khỏi thị trường cổ phiếu để hình thành thị 
trường trái phiếu chuyên biệt. Từng bước nghiên cứu hình thành và phát triển thị 
trường giao dịch tương lai cho các công cụ phái sinh, thị trường chứng khoán hoá 
các khoản cho vay trung, dài hạn của ngân hàng; 
- Củng cố bộ máy, nâng cao năng lực quản lý, giám sát của Nhà nước đối với 
thị trường vốn; từng bước tách bạch chức năng quản lý với chức năng giám sát các 
hoạt động của thị trường; sớm nghiên cứu thành lập Cơ quan giám sát tài chính 
quốc gia, giúp Thủ tướng Chính phủ điều phối chính sách và cơng cụ cảnh báo, điều 
hành, giám sát hoạt động tài chính tiền tệ ở tầm vĩ mơ. 
 Ngồi ra, cơ chế vận hành của thị trường trái phiếu thứ cấp cũng chưa thực sự 
hợp lý. Hiện tại, giao dịch trái phiếu được tổ chức tại sàn của HASTC (Sở Giao 
dịch chứng khốn Tp.HCM vẫn giao dịch các trái phiếu niêm yết trước 1-7-2006 cho 
đến khi đáo hạn). Các thành viên giao dịch trái phiếu chỉ là các cơng ty chứng khốn 
nên hạn chế sự tham gia của các nhà kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp là các 
ngân hàng thương mại, tổ chức bảo hiểm. Các nhà kinh doanh trái phiếu này muốn 
mua, bán trái phiếu phải đặt lệnh thơng qua cơng ty chứng khốn thành viên. Điểm 
này khác với thơng lệ quốc tế là nhà giao dịch trái phiếu sơ cấp đồng thời là thành 
viên của thị trường trái phiếu thứ cấp, họ được mua bán trực tiếp thơng qua hệ 
thống đĩ nên tạo tính thanh khoản tốt hơn. Ủy ban chứng khốn nhà nước nên xây 
dựng đề án phát triển thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt nhằm xây dựng 
một thị trường trái phiếu chuyên biệt nhằm tăng cường tính thanh khoản cho trái 
phiếu chính phủ thứ cấp, trên cơ sở đĩ thúc đẩy thị trường trái phiếu sơ cấp và thị 
trường trái phiếu doanh nghiệp nĩi chung và các Thành viên giao dịch trên thị 
trường ngồi các cơng ty chứng khốn sẽ mở rộng ra các ngân hàng thương mại lớn 
trong nước và chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngồi tại Việt Nam. Các cơng 
ty chứng khốn được phép giao dịch trái phiếu Chính phủ cho chính mình và khách 
hàng. Các ngân hàng thương mại với tư cách thành viên đặc biệt chỉ được phép giao 
dịch trái phiếu Chính phủ cho chính mình. Hệ thống giao dịch trái phiếu Chính phủ 
sẽ là một phân hệ độc lập trong hệ thống giao dịch. Hệ thống giao dịch trái phiếu 
được thiết kế theo mơ hình khơng sàn, được kết nối trực tiếp từ hệ thống quản lý 
của HASTC đến các nhà kinh doanh trái phiếu thành viên. Cơ chế niêm yết giá trái 
phiếu sẽ theo thơng lệ quốc tế và thĩi quen của nhà đầu tư tại Việt Nam (niêm yết 
theo lợi suất trái phiếu và theo giá trái phiếu). 
Đối với vấn đề thơng tin về thị trường trái phiếu, đặc biệt là việc tính tốn và 
cơng bố các chỉ số trái phiếu, sẽ chọn những nhà cung cấp thơng tin trái phiếu lớn 
trên thế giới như Reuters hoặc Bloomberg để cung cấp thơng tin về thị trường trái 
phiếu Việt Nam. 
Trên cơ sở sự phát triển ổn định của thị trường này, Ủy ban chứng khốn nhà 
nước sẽ tiếp tục triển khai mở rộng sang thị trường trái phiếu chính quyền địa 
phương và trái phiếu cơng ty. 
3. Các giải pháp về mặt thể chế cho thị trường trái phiếu: 
Hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của 
Nhà nước: 
Hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ đáp ứng được yêu 
cầu quản lý, giám sát và hội nhập với thị trường vốn của khu vực và quốc tế; 
Bổ sung các chế tài xử lý nghiêm minh về dân sự, hình sự để phòng ngừa và 
xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động trên thị trường vốn, thị trường chứng 
khoán; 
Nghiên cứu hoàn chỉnh các chính sách về thuế, phí, lệ phí đối với hoạt động 
chứng khoán, khuyến khích đầu tư dài hạn, hạn chế đầu tư ngắn hạn; điều tiết lợi 
nhuận thu được do kinh doanh chứng khoán, đồng thời thông qua thuế, phí, lệ phí 
góp phần giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán và từng đối tượng, thành 
viên tham gia thị trường (bao gồm cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước); 
Áp dụng các tiêu chuẩn giám sát thị trường theo thông lệ quốc tế; đẩy 
mạnh việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các thành 
viên tham gia thị trường; kiểm tra, giám sát hàng hoá đưa ra thị trường, đảm 
bảo tính công khai, minh bạch; tăng cường năng lực giám sát, cưỡng chế thực 
thi của cơ quan giám sát thị trường. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_giai_phap_phat_trien_thi_truong_trai_phieu_viet_na.pdf