Tiểu luận Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ khí Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ khí Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ khí Hà Nội
TIỂU LUẬN: Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ Khí Hà Nội Lời mở đầu Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế nước ta mới thực sự khởi sắc. Sự tồn tại đồng thời của các thành phần kinh tế tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nền kinh tế. Chính vì vậy, các đơn vị sản xuất kinh doanh muốn tồn tại và phát triển được thì cần phải có sự độc lập tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và đặc biệt là sản xuất kinh doanh phải mang lại hiệu quả tức là đem lại lợi nhuận. Kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao là mục đích của tất cả các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế thị trường. Đối với các đơn vị sản xuất, lợi nhuận chính là đòn bẩy kinh tế có hiệu quả nhất, kích thích mạng mẽ đến mọi mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy yêu cầu đặt ra cho các đơn vị này là phải đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh phải thu được lợi nhuận cao. Để giải quyết vấn đề quan trọng này, qua quá trình học tập tại trường đại học Kinh Tế Quốc Dân và thời gian thực tập tốt nghiệp tại Công ty Cơ Khí Hà Nội, được sự chỉ đạo giúp đỡ tận tình của Cô giáo TS Phan Thu Hà và các thầy cô giáo trong bộ môn, các cán bộ lãnh đạo của Công ty và đặc biệt là các cô chú, các anh chị trong phòng tài chính kế toán, em đã dần dần tiếp cận thực tiễn. Em nhận thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đạt hiệu quả chưa cao, vẫn còn một số tồn tại. Nếu giải quyết tốt một số tồn tại này thì chắc chắn hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty sẽ được nâng cao. Xuất phát từ lý do trên, em xin chọn đề tài: Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ Khí Hà Nội cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Nội dung của chuyên đề bao gồm 3 phần: Chương I: Lợi nhuận và sự cần thiết phải phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh hiện nay. Chương II: Thực trạng về lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ Khí Hà Nội ( 2001-2002) Chương III: Một số giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ Khí Hà Nội trong thời gian tới. . Chương I Lợi nhuận và các biện pháp tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh hiện nay I. Lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ với mục đích chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp và phải chịu trách nhiệm bề mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình theo kiểm lời ăn lỗ chịu. Cơ chế này buộc các doanh nghiệp phải làm ăn có lãi để tồn tại và phát triển. Do vậy, lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường là một mục tiêu hàng đầu, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và là điều kiện sống còn của mỗi doanh nghiệp. 1. Sự hình thành của lợi nhuận doanh nghiệp. Một doanh nghiệp nói chung tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bắt đầu quá trình dùng tiền mua sắm nguyên vật liệu, nhiên liệu và những vật tư cần thiết khác để sản xuất tạo ra sản phẩm và sau đó đem tiêu thụ trên thị trường. Qua đó có thể khái quát bằng sơ đồ sau: T - HSXH’-T’ = T + t ( lợi nhuận chính là t) Kết thúc mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thu được những khoản tiền nhất định gọi là doanh thu. Doanh thu đó sau khi đã trừ đi các khoản giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế gián thu, thuế TTĐB. Còn lại là doanh thu thuần. Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa doanh thu thuần và chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất - kinh doanh để đạt được doanh thu đó. 2. Nội dung của lợi nhuận: Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường rất phong phú đa dạng. Để hạn chế và phân bố rủi ro, doanh nghiệp tiến hành nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp thường mở rộng hoạt động của mình không chỉ bao gồm hoạt động sản xuất kinh doanh chính. Do vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp không đơn thuần bao gồm lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn bao gồm lợi nhuận từ các hoạt động khác. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường thường bao gồm: - Hoạt động sản xuất kinh doanh: là hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của các ngành sản xuất kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ. - Hoạt động tài chính: là hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn với mục đích kiếm lời như góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh doanh bất động sản, mua bán ngoại tệ, cho vay vốn - Hoạt động bất thường: là hoạt động diễn ra không thường xuyên, không dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít có khả năng thực hiện như giải quyết các vấn đề tranh chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế, thanh lý nhượng bán tài sản cố định, xử lý tài sản thừa, thiếu chưa rõ nguyên nhân Trên cơ sở ba hoạt động chính này, lợi nhuận của doanh nghiệp thường được cấu thành từ ba bộ phận sau: - Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. - Lợi nhuận từ hoạt động tài chính. - Lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Về nguyên tắc, khi phân tích lợi nhuận doanh nghiệp, cần phải phân tích tất cả các bộ phận cấu thành nên tổng lợi nhuận. Tuy nhiên hoạt động sản xuất kinh doanh đóng vai trò chủ đạo và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là bộ phận cơ bản trong tổng lợi nhuận, vì vậy mà khi tiến hành phân tích lợi nhuận doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào bộ phận lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế là tỷ trọng của mỗi bộ phân lợi nhuận trong tổng số lợi nhuận có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp do các lĩnh vực kinh doanh khác nhau cũng như môi trường kinh tế khác nhau. 2.1 Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp: 2.1.1 Xác định lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh: là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của các ngành sản xuất kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ trong doanh nghiệp. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh được xác định như sau: LN = QiPi – ( QiZi + Qi*Cpi + QiTi) Trong đó - LN: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. - Qi, Pi, Zi, CPi, Ti: lần lượt là khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ, giá bán đơn vị , giá vốn hàng bán, chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế GTGT của sản phẩm thứ i. Như vậy, bộ phận lợi nhuận này được xác định là chênh lệch giữa doanh thu bán hàng thuần với tổng chi phí tương ứng với số sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ. *Xác định doanh thu thuần Lợi nhuận doanh nghiệp = Lợi nhuận sản xuất kinh doanh + Lợi nhuận hoạt động tài + Lợi nhuận hoạt động Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh = Doanh thu thuần Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh _ Doanh thu = Doanh thu bán _ Các khoản giảm trừ = Doanh thu bán _ Giảm giá hàng Doanh thu hàng bán bị trả lại Thuế GTGT, TTĐB, XK phải nộp _ _ Trong đó : (1) Doanh thu thuần: Là chênh lệch giữa tổng doanh thu và các khoản giảm trừ doanh thu. (2) Doanh thu bán hàng : Là tổng giá trị được thực hiện do việc bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng. Thời điểm để xác định doanh thu bán hàng là từ khi được người mua chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc vào việc tiền đã được thanh toán hay chưa. (3) Các khoản giảm trừ doanh thu: + Giảm giá hàng bán là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách, giao hàng không đúng thời gian như trong hợp đồng và còn bao gồm khoản thưởng cho những khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định đã tiến hành mua một khối lượng hàng hoá lớn hoặc giảm trừ cho những khách hàng mua một khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt. + Doanh thu bán hàng bị trả lại: là doanh thu số hàng đã được coi là tiêu thụ ( đã chuyển quyền sở hữu, đã thu tiền hay được người mua chấp nhận thanh toán) nhưng bị người mua từ chối trả lại do người bán không tôn trọng hợp đồng kinh tế đã kí kết. + Các khoản thuế phải nộp, như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. *Xác định chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh: Chi phí tương ứng với lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho khách hàng trong một kì (tương ứng với kì tính doanh thu) được xác định bằng công thức: (1) Giá vốn hàng bán được xác định như sau: + Đối với doanh nghiệp sản xuất: Chi phí hoạt động sản xuất = Gía vốn hàng + Chi phí QLDN phân bổ cho lượng hàng tiêu thụ + Chi phí bán hàng phân bổ cho lượng hàng tiêu thụ trong Gía vốn = Gía thành + Chênh lệch thành phẩm + Đối với doanh nghiệp thương mại: (1)Giá vốn hàng bán bao gồm ba yếu tố chi phí: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. (2) Chi phí bán hàng : là những khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trong kỳ như chi phí nhân viên bán hàng, chi phí dụng cụ bán hàng, chi phí quản cáo... (3) Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí phát sinh có liên quan chung đến toàn bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất kỳ hoạt động nào như chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và chi phí chung khác. Như vậy, để xác định lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần phải căn cứ vào toàn bộ số liệu kế toán của kỳ sản xuất. Mặc dù những khái niệm và công thức trên rất đơn giản nhưng trong thực tiễn để đảm bảo cho việc tính toán chính xác thì lại rất phức tạp. 2.1.2 Xác định lợi nhuận từ hoạt động tài chính. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: là lợi nhuận thu được từ hoạt động tài chính như lợi nhuận do tham gia góp vốn liên doanh, do hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn, cho thuê tài sản, cho vay vốn, mua bán ngoại tệ. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác đinh là chêng lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính: Trong đó: Chênh lệch thành phẩm = Thành phẩm tồn kho đầu kỳ _ Thành phẩm tồn kho Gía vốn hàng bán = Gía vốn hàng mua + Chênh lệch hàng hoá tồn kho Chênh lệch hàng hoá tồn kho = Hàng hoá tồn kho đầu kỳ _ Hàng hoá tồn kho = Lợi nhuận hoạt động tài chính Thu nhập hoạt động tài chính _ Chi phí hoạt động tài chính (1) Thu nhập hoạt động tài chính: là những khoản thu do hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn với mục đích kiếm lời như góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh doanh bất động sản, mua bán ngoại tệ, cho vay vốn. (2) Chi phí hoạt động tài chính: Là những chi phí do hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn như những khoản chi cho góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán, chi trả lại vây, chiết khấu bán hàng, chênh lệch tỷ giá hối đoái trong quá trình thanh toán công nợ. 2.1.3 Xác định lợi nhuận từ hoạt động bất thường Lợi nhuận từ hoạt động bất thường : là lợi nhuận thu được từ các hoạt động xảy ra ngoài dự kiến của doanh nghiệp như lợi nhuận từ thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, từ các khoản nợ khó đòi đã xoá sổ nay thu được, từ việc giải quyết các vấn đề tranh chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế, xử lý tài sản thừa, thiếu chưa rõ nguyên nhân... Lợi nhuận từ hoạt động bất thường được xác định là chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt động bất thường và chi phí hoạt động bất thường. Trong đó: (1) Thu nhập từ hoạt động bất thường: là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc những khoản thu không xảy ra một cách thường xuyên như thu tiền phạt do vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ khó đòi, thu về thanh lý nhượng bán tài sản cố định.... (2) Chi phí hoạt động bất thường: là những khoản chi do các nghiệp vụ riêng biệt với các hoạt động thông thường của doanh nghiệp như chi phạt thuế, truy nộp thuế, phạt tiền do vi phạm hợp đồng, chi thanh lý nhượng bán tài sản cố định, chi cho xử lý tài sản thừa thiếu chưa rõ nguyên nhân... Tóm lại, việc xác định lợi nhuận doanh nghiệp phải xuất phát từ việc xác định các bộ phận cấu thành lợi nhuận. Cách xác định lợi nhuận như trên là đơn giản dễ tính, vì thế nó được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp. Lợi nhuận hoạt động bất thường = Thu nhập hoạt động bất thường _ Chi phí hoạt động bất thường Tuy vây, đối với các doanh nghiệp sản xuất nhiều mặt hàng thì khối lượng công việc sẽ rất lớn. Nó đòi hỏi việc tập hợp chi phí chung và phân bổ chúng cho các đối tượng thích hợp phải chính xác, trung thực thì lợi nhuận mới không bị sai lệch. 3. Vai trò của lợi nhuận. Để thấy được vai trò của lợi nhuận, trước hết cần phải biết lợi nhuận được sử dụng như thế nào. Phân phối lợi nhuận không phải là phân chia số tiền lãi một cách đơn thuần mà là việc giải quyết tổng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra đối với doanh nghiệp. Việc phân phối đúng đắn sẽ trở thành động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp tục công việc kinh doanh của mình. Lợi nhuận thực hiện cả năm được phân phối theo thứ tự như sau: 1. Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định- nghị định 59 CP. 2. Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách nhà nước. 3. Trả các khoản tiền bị phạt, các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ chưa được trừ khi xây dựng thuế thu nhập phải nộp. 4. Trả các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế. 5. Trích lập các quỹ đặc biệt theo tỷ lệ do nhà nước quy định( đối với doanh nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù mà pháp luật quy định). 6. Chia lãi cho các đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh. 7. Trích lập các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp gồm: - Quỹ đầu tư phát triển: dùng để đầu tư phát triển kinh doanh. - Quỹ dự phòng tài chính: dùng để bù đắp những thiệt hại về tài sản mà doanh nghiệp phải chịu trong quá trình sản xuất kinh doanh. - Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm: dùng để chi cho việc đào tạo các công nhân do thay đổi công nghệ, đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ, trợ cấp mất việc làm cho lao động thường xuyên trong doanh nghiệp nay bị mất việc làm. - Quỹ phúc lợi: dùng để đầu tư cho các công trình phúc lợi của doanh nghiệp, chi cho các hoạt động phúc lợi của doanh nghiệp, làm công tác từ thiện... - Quỹ khen thưởng: dùng để thưởng cuối năm hoặc thường kỳ cho công nhân viên trong doanh nghiệp, thưởng đột xuất cho các cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có sáng kiến mang lại hiệu quả trong kinh doanh Từ việc phân phối quĩ lợi nhuận doanh nghiệp, ta thấy lợi nhuận không những duy trì sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp nói riêng mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế nói chung. Lợi nhuận đáp ứng và kết hợp hài hợp các lợi ích, lợi ích của người lao động, lợi ích của doanh nghiệp và của toàn xã hội. 3.1. Lợi nhuận đối với doanh nghiệp. Trong nền kinh tế cơ chế thị trường, lợi nhuận giữ vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy rằng mục tiêu cuối cùng của mỗi doanh nghiệp không phải là tối đa hóa lợi nhuận mà là tối đa hóa lợi ích chủ sở hữu nhưng cũng không phải vì thế mà vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp có thể bị phủ nhận. Lợi nhuận vẫn được coi là một đòn bẩy kinh tế quan trọng, là động lực chi phối hoạt động của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp từ các lĩnh vực sản xuất ít người tiêu dùng đến các lĩnh vực sản xuất có nhiều người tiêu dùng hơn. Lợi nhuận thúc đẩy các nhà sản xuất kinh doanh tìm mọi biện pháp để nâng cao năng suất lao động, sử dụng những công nghệ ngày càng tiên tiến hiện đại hơn, sử dụng nguyên vật liệu một cách tiết kiệm hợp lýnhằm tối thiểu hóa chi phí và tăng doanh thu để nâng cao lợi nhuận. Lợi nhuận là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thật vậy, lợi nhuận chính là thước đo để doanh nghiệp tự đánh giá kết quả của những nỗ lực của doanh nghiệp từ khâu tìm hiểu thị trường, tiến hành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đến phân phối sản phẩm. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp bởi bản thân nó là một chỉ tiêu kế toán hết sức tổng hợp. Có thể nói lợi nhuận vừa thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình lại vừa đánh giá chính hiệu quả đó. Lợi nhuận có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, vì vậy việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Thật vậy, lợi nhuận sau khi nộp thuế cho nhà nước và chi trả các khoản phạt và các chi phí khác sẽ được dùng để hình thành và phát triển các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp. Các quỹ này thể hiện khả năng tài chính của doanh nghiệp mà để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng. Có tự chủ về tài chính, doanh nghiệp mới có thể thực hiện tái sản xuất mở rộng. Hơn nữa lợi nhuận còn là một chỉ tiêu quan trọng mà bất kỳ một nhà đầu tư nào trước khi quyết định đầu tư vào doanh nghiệp, một đối tác trước khi quyết định làm ăn với doanh nghiệp hay một nhà ngân hàng trước khi quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp đều phải quan tâm xem xét. Do đó rõ ràng là lợi nhuận là yếu tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt. 3.2 Lợi nhuận đối với người lao động. Lợi nhuận là nguồn cơ bản để doanh nghiệp có điều kiện quan tâm đối với người lao động trong doanh nghiệp ngoài việc trả tiền lương. Lợi nhuận là nguồn để trích lập quỹ khen thưởng, trợ cấp, quỹ phúc lợi giải quyết nhu cầu của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Những quỹ này chỉ có thể có hoặc được bổ sung khi doanh nghiệp làm ăn có lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao thì đời sống của người lao động ít nhiều cũng được nâng lên và từ đó khuyến khích họ hăng say hơn trong công việc, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của họ. Như vậy, lợi nhuận là một nhân tố khuyến khích người lao động. 3.3 Lợi nhuận đối với ngân sách nhà nước. Lợi nhuận của doanh nghiệp là cơ sở để doanh nghiệp tính và đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp vào NSNN. Đây là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong các nguồn thu của NSNN, góp phần để NSNN thực hiện vai trò của mình về mặt chính trị, xã hội và đặc biệt là về mặt kinh tế, đó là nhằm khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển và tái sản xuất mở rộng nền kinh tế. Như vậy là lợi nhuận của doanh nghiệp đã góp phần tạo nên một nguồn tích lũy cơ bản rất cần thiết giúp nhà nước thực hiện các chức năng, nhiêm vụ của mình đối với xã hội trong đó có chức năng đầu tư, phát triển nền kinh tế. Tóm lại, lợi nhuận có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp, người lao động cũng như toàn xã hội. Chính vì vậy, việc phấn đấu nâng cao lợi nhuận là hết sức cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp. 4. Các chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận. 4.1 Các chỉ tiêu tuyệt đối. Lợi nhuận trước thuế: Là khoản tiền chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay với lãi vay phải trả trong kì. (Hay nói cách khác lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp được hiểu là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra để đạt được doanh thu đó). Lãi vay là chi phí sử dụng vốn vay mà doanh nghiệp phải trả cho số vốn huy động nhằm mục đích phục vụ nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận sau thuế: là khoản tiền chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế với thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Thuế thu nhập doanh nghiệp được tính bằng lợi nhuận trước thuế nhân với thuế xuất do nhà nước qui định. Thuế suất bao gồm thuế cơ bản và thuế bổ sung. Thuế cơ bản được áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp còn thuế bổ sung chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp có lợi nhuận siêu ngạch. Nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối thì chưa đánh giá được một cách chính xác trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng chi phí trong doanh nghiệp. Vì vậy để đánh giá đúng đắn và chính xác kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xem xét từ nhiều góc độ khác nhau và bên cạnh chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối thì còn phải xem xét chỉ tiêu tương đối là tỷ suất lợi nhuận (hoặc doanh lợi). 4.2 Các chỉ tiêu lợi nhuận tương đối. * Tỷ suất lợi nhuận vốn. Doanh lợi vốn là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận đạt được với số vốn sử dụng bình quân trong kì (gồm vốn cố định và vốn lưu động). Đây là chỉ tiêu đo lường mức độ sinh lời của đồng vốn. Trong đó: Tv: tỷ suất lợi nhuận vốn. P: lợi nhuận sau thuế hoặc lợi nhuận trước thuế và lãi vay. V: tổng nguồn vốn trong kỳ. Tỷ suất lợi nhuận vốn là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư, không phân biệt nguồn hình thành. Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn đầu tư sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó cho phép đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau về qui mô sản xuất. Ta có thể thay đổi mẫu số của công thức bằng vốn cố định, vốn lưu động của doanh nghiệp để tính các tỷ suất lợi nhuận tương ứng. Tuỳ theo yêu cầu của việc xem xét mà người quản lý doanh nghiệp có thể tính toán nhiều tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất, tỷ suất lợi nhuận vốn cố định, tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động.tương ứng với các chỉ tiêu này, số vốn sử dụng bình quân sẽ là vốn sản xuất bình quân trong kỳ, vốn lưu động bình quân trong kỳ. * Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế với tổng nguồn vốn chủ sở hữu. Công thức xác định: Trong đó Tv: tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. P : lợi nhuận sau thuế. Vtc: tổng nguồn vốn chủ sở hữu trong kỳ. Tv = p vtc x 10 0 Tv = p v x 10 0 Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu, được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào một doanh nghiệp. Nó cho biết cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu bỏ vào đầu tư sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu cũng là một trong số các mục tiêu hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. * Tỷ suất lợi nhuận giá thành. Tỷ suất lợi nhuận giá thành là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận thu được so với giá thành của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. Công thức xác định: Trong đó: Tg: tỷ suất lợi nhuận giá thành. P : lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế. Zt: giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. Tỷ suất lợi nhuận giá thành phản ánh hiệu quả kinh tế tính theo lợi nhuận của chi phí sản xuất. Nó cho biết cứ 100 đồng chi phí bỏ vào sản xuất sẽ mang lại bao nhiêu lợi nhuận. Thông qua chỉ tiêu nay, doanh nghiệp biết được ưu nhược điểm trong việc tăng giảm giá thành từ đó đề ra các biện pháp giá thành hợp lý. * Tỷ suất lợi nhuận doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế so với doanh thu bán hàng thuần của doanh nghiệp. Công thức xác định: Trong đó: Tdt: tỷ suất lợi nhuận doanh thu. P : lợi nhuận sau thuế. DT: doanh thu thuần. Tg = p zt x 10 0 Td t = p dt x 10 0 Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu thuần có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ suất chung của toàn ngành thì chứng tỏ doanh nghiệp bán hàng với giá thấp hoặc giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn so với các ngành khác. Ngoài bốn chỉ tiêu trên, người ta còn sử dụng các chỉ tiêu khác như tỷ suất lợi nhuận giá trị tổng sản lượng, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư.để đánh giá chất lượng từng mặt hoạt động cụ thể hoạc đánh giá chất lượng xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Mỗi chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận có những ưu nhược điểm khác nhau vì vậy cần sử dụng kết hợp các chỉ tiêu nói trên nhằm giúp cho nhà quản lý doanh nghiệp có thể đánh giá một cách chính xác, toàn diện nhằm nâng cao lợi nhuận cũng như tỷ suất lợi nhuận. II. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận. Như trên đã phân tích, lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm là bộ phận chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó, khi nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp, ta đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm. Sau đây là một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. 1. Số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. Trong điều kiện các nhân tố khác không biến động hoặc biến động không đáng kể thì số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ tăng lên sẽ trực tiếp làm cho lợi nhuận tiêu thụ tăng lên và ngược lại. Nhân tố này có tác động thuận chiều tới lợi nhuận và được coi là nhân tố chủ quan của doanh nghiệp trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và công tác quản lý tiêu thụ nói riêng. Việc tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ phản ánh kết quả của doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ lại phụ thuộc vào các yếu tố như: quy mô sản xuất, khả năng sản xuất, tình hình tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Do đó, doanh nghiệp không thể tăng khối lượng sản xuất và tiêu thụ một cách tuỳ tiện, mà phải dựa vào khả năng sản xuất và nhu cầu của thị trường để đưa ra một khối lượng sản phẩm thích hợp; nếu không thì hoặc là doanh nghiệp sẽ bị ứ đọng sản phẩm sản xuất ra hoặc là khối lượng sản phẩm sản xuất không đủ đáp ứng cho nhu cầu thị trường làm cho khách hàng khi cần đến tiêu thụ sản phẩm thì lại phải tìm đến sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Kết quả là làm cho khối lượng sản phẩm tiêu thụ ít đi và điều quan trọng hơn là mất đi một số lượng khách hàng, từ đó có thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng và quyết định khối lượng sản phẩm sản xuất thích hợp. 2. Chất lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì chất lượng sản xuất là một yếu tố quan trọng bậc nhất góp phần thúc đẩy hay kìm hãm công tác tiêu thụ sản phẩm. Do đó làm ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ và tất yếu ảnh hưởng tới lợi nhuận tiêu thụ của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm tiêu thụ là một công cụ sắc bén giúp doanh nghiệp dễ dàng thắng lợi trước các đối thủ cạnh tranh khác. Chất lượng sản phẩm cao không chỉ làm tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ mà có thể giúp doanh nghiệp nâng giá bán. Ngược lại, chất lượng sản phẩm kém thì việc tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, nếu chất lượng sản phẩm quá thấp thì ngay cả khi bán giá rẻ vẫn không được người tiêu dùng chấp nhận, thậm chí cho không cũng không có người lấy. Việc duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tạo được lòng tin cho các khách hàng đối với doanh nghiệp, là uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, từ đó tạo điều kiện giúp cho doanh nghiệp tăng lợi nhuận. 3. Kết cấu mặt hàng tiêu thụ. Để an toàn trong sản xuất và kinh doanh thì mỗi một doanh nghiệp thường sản xuất rất nhiều loại mặt hàng khác nhau, chi phí sản xuất ra một loại sản phẩm cũng khác nhau. Có khi có những loại sản phẩm bỏ ra rất nhiều chi phí để sản xuất nhưng giá bán của chúng lại thấp hơn những sản phẩm khác có chi phí tiêu hao ít hơn, do đó mỗi loại sản phẩm sẽ mang lại tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Giả sử trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi thì sự thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu tăng tỷ trọng tiêu thụ mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận cao, giảm tỷ trọng tiêu thụ các mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận thấp thì tổng số lợi nhuận sẽ tăng lên và ngược lại. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, kết cấu mặt hàng tiêu thụ thường do biến động của nhu cầu thị trường. Nếu doanh nghiệp chọn được cơ cấu mặt hàng hợp lý, phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp, phù hợp với biến động của thị trường thì đây cũng là một nhân tố quan trọng góp phần tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. 4. Giá bán đơn vị sản phẩm Giả sử trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi giá bán sản phẩm tăng sẽ làm cho doanh thu tiêu thụ sản phẩm tăng, lợi nhuận tăng và ngược lại, giá bán sản phẩm giảm sẽ làm cho doanh thu tiêu thụ sản phẩm giảm, lợi nhuận giảm. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt thì giá bán các sản phẩm hàng hoá được hình thành một cách khách quan do quan hệ cung cầu trên thị trường. Do đó, doanh nghiệp không thể tự tăng giá bán cao hơn giá thị trường (trừ một số mặt hàng mang tính chất chiến lược hay các sản phẩm phục vụ nhu cầu an ninh quốc phòng thì do nhà nước qui định mức giá bán độc quyền). 5. Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ. Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng tỷ lệ nghịch với lợi nhuận sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi thì giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm sẽ trực tiếp làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác, trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh về giá cả nếu giá thành sản phẩm thấp, doanh nghiệp có lợi thế là hạ giá bán để tăng khả năng cạnh tranh, từ đó có thể đẩy mạnh khối lượng sản phẩm tiêu thụ và tất yếu làm tăng lợi nhuận. 6. Thuế xuất khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt Đây là nhân tố ảnh hưởng tỷ lệ nghịch đến lợi nhuận tiêu thụ của doanh nghiệp, nhưng nó là nhân tố ảnh hưởng của nhân tố khách quan, vì việc tăng giảm thuế là do nhà nước quy định và doanh nghiệp chỉ có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh, nộp đúng, nộp đủ và kịp thời cho ngân sách nhà nước. Trong sản xuất kinh doanh doanh nghiệp không thể trốn thuế để làm tăng lợi nhuận được. Trên đây là một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra còn một số nhân tố khác cũng có tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp như: công tác tổ chức bán hàng của doanh nghiệp; hình thức thanh toán đối với khách hàng. Qua việc phân tích và nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp để từ đó giúp cho doanh nghiệp đưa ra những biện pháp nhằm khai thác triệt để các nhân tố ảnh hưởng tích cực và khắc phục tối đa những nhân tố ảnh hưởng tiêu cực, để tạo điều kiện phấn đấu tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. III. Những biện pháp tăng lợi nhuận của doanh nghiệp Hiện nay, việc tăng lợi nhuận trong các doanh nghiệp giữ vị trí quan trọng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng, tăng thêm khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trong đó, lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính là lợi nhuận thu được do bán các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp. Lợi nhuận tiêu thụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy, nghiên cứu và tìm ra các phương hướng biện pháp tăng lợi nhuận tiêu thụ trong doanh nghiệp là nội dung quan trọng. Lợi nhuận tiêu thụ được xác định theo công thức sau: Pt = T – Zt – Th Trong đó: Pt: lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ. T: doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trong kỳ. Zt: giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. Th: Thuế gián thu phải nộp trong kỳ. Như vậy, lợi nhuận tiêu thụ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi: doanh thu tiêu thụ trong kỳ (doanh thu bán hàng), hàng hoá dịch vụ, giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ và các khoản thuế gián thu phải nộp. Tuy nhiên ta thấy rằng thuế là chỉ tiêu thể hiện nghĩa vụ bắt buộc của nhà nước, do đó các doanh nghiệp phải phấn đấu hoàn thành nghĩa vụ. Vì vậy, nó được coi là như không ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Xuất phát từ việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận mà các doanh nghiệp đưa ra phương hướng, biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận. Sau đây là một số biện pháp mà các doanh nghiệp thường áp dụng trong điều kiện hiện nay. 1. Hạ giá thành sản phẩm Hạ giá thành sản phẩm là biện pháp cơ bản để tăng lợi nhuận. Nếu như giá thành một yếu tố cố định thì lợi nhuận đơn vị sẽ tăng lên hay giảm xuống là do giá thành đơn vị sản phẩm quyết định. Bởi vậy, để tăng lợi nhuận các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu hạ giá thành sản phẩm tiêu thụ. Để làm tốt điều đó, doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp sau: - Phấn đấu tăng năng suất lao động. Tăng năng suất lao động là thực hiện tiết kiệm thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hay tăng số lượng sản phẩm sản xuất trong một đơn vị thời gian. Năng suất lao động phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố: trình độ trang thiết bị, máy móc thiết bị, trình độ tay nghề người lao động. Vì vậy, để tăng năng suất lao động, doanh nghiệp cần chú ý: áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đây là một nhân tố quan trọng cho phép doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Việc áp dụng công nghệ mới sẽ tăng năng suất lao động nhưng đồng thời nó sẽ đưa lại những khoản chi phí lớn làm ảnh hưởng đến chi phí khấu hao, đến giá thành, giá bán sản phẩm, doanh thu và lợi nhuận của Công ty. Tuy nhiên cần phải thấy rõ việc đầu tư vào công nghệ là một giải pháp có tính chiến lược nhằm nâng cao lợi nhuận các doanh nghiệp bởi nhiều lý do. Trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì áp dụng công nghệ mới là con át chủ bài trong cạnh tranh. Vấn đề cần lưu ý là việc sử dụng công nghệ mới không phải là một quá trình có thể tiến hành một cách ồ ạt mà phải có quá trình và có phương án cụ thể. Các doanh nghiệp luôn cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích có thể đem lại và chi phí bỏ ra. Tổ chức lao động một cách khoa học, hợp lý sẽ tạo ra sự kết hợp giữa các yếu tố lao động sản xuất một cách cân đối, phù hợp, loại trừ được tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy. - Sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu Thông thường chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm. Vì vậy, việc phấn đấu giảm chi phí nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn đối với việc hạ giá thành. Để làm tốt việc này doanh nghiệp cần tập trung: Kết hợp chặt chẽ kế hoạch sản xuất với cung ứng nguyên vật liệu. Doanh nghiệp cần căn cứ vào kế hoạch sản xuất để thu mua, dự trữ nguyên vật liệu hợp lý về số lượng, chủng loại, chất lưọng để đảm bảo cho quá trình sản xuất liên tục, không bị gián đoạn. Làm tốt công tác quản lý và sử dụng nguyên vật liệu, quản lý chặt chẽ từ khâu mua bán, vận chuyển, đến khi đưa vào sản xuất, cung ứng nguyên vật liệu phù hợp đối với nhu cầu sản xuất, xây dựng và kiểm tra định mức tiêu hao nguyên vật liệu đối với từng sản phẩm. áp dụng công nghệ mới, sử dụng nguyên vật liệu thay thế trên cơ sở bảo đảm chất lượng sản phẩm, sử dụng nguyên vật liệu trong nước thay thế nguyên vật liệu trực tiếp nhập từ nước ngoài. Bên cạnh đó, phải thường xuyên kiểm tra quá trình sản xuất, ngăn chặn các hiện tượng mất mát và sử dụng lãng phí nguyên vật liệu từ đó giảm chi phí sử dụng vật tư và hạ giá thành sản phẩm. - Tổ chức sản xuất và sử dụng vốn một cách khoa học và hợp lý Tổ chức sản xuất và sử dụng vốn là một biện pháp có tác động mạnh mẽ đến việc hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Trước hết tổ chức quản lý sản xuất đạt trình độ cao giúp doanh nghiệp có thể xác định được định mức tiêu hao tối ưu và phương án sản xuất tối ưu khi đó làm cho giá thành sản phẩm hạ, nhờ vào việc bố trí khâu sản xuất hợp lý có thể hạn chế sự lãng phí nguyên vật liệu, giảm tỷ lệ phế phẩm. Vai trò của tài chính ngày càng rõ nét trong hoạt động sản xuất kinh donh của mỗi doanh nghiệp và tác động của nó đến việc hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận ngày càng mạnh mẽ. Tổ chức sử dụng vốn hợp lý đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho việc mua sắm vật tư sẽ tránh được tình trạnh tổn thất cho quá trình sản xuất như ngừng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu. Việc đẩy mạnh vòng quay của vốn sản xuất sẽ giảm bớt nhu vầu vốn và từ đó tạo điều kiện giảm chi phí về vay ngân hàng, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 2. Tăng số lượng và nâng cao chất lượng tiêu thụ sản phẩm Việc tăng thêm sản lượng, hàng hóa, dịch vụ và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ sẽ làm tăng lợi nhuận cho các đơn vị sản xuất kinh doanh. Nếu như các điều kiện khác không thay đổi, khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp, khả năng tăng thêm sản lượng của các doanh nghiệp hiện nay rất lớn, khả năng tận dụng lao động, nâng cao năng suất máy móc thiết bị còn tiềm tàng. Đi đôi với việc tăng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, các doanh nghiệp còn chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm được nâng cao sẽ đảm bảo uy tín cho doanh nghiệp được giữ vững và tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng được giá bán. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm có thể sẽ làm tăng chi phí nhưng về lâu dài nó sẽ làm tăng uy tín sản phẩm cho doanh nghiệp và có thể dần nâng được giá thành tiêu thụ.Tuy nhiên, khối lượng sản phẩm tiêu thụ phụ thuộc vào nhiều nhân tố như quy mô sản xuất, trình độ trang thiết bị kỹ thuật, khả năng nắm bắt thị trường của doanh nghiệp. Do đó, để thực hiện tốt việc tăng khối lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cần tập trung vào những vấn đề sau: - Chú trọng đầu tư theo chiều sâu hiện đại hoá máy móc thiết bị, nhanh chóng và mạnh dạn đưa công nghệ mới vào sản xuất. - Tổ chức tốt công tác quản lý và sử dụng lao động, thường xuyên bồi dưỡng và nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân sản xuất để nâng cao năng suất lao động. - Mở rộng mặt hàng, đa dạng hoá sản phẩm. - Đẩy mạnh quá trình tiêu thụ sản phẩm, thực hiện điều tra nghiên cứu thị trường, tổ chức quá trình tiêu thụ một cách khoa học, hợp lý sẽ tạo ra sự nhịp nhàng ăn khớp giữa khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Xác định được giá cả hợp lý đối với từng sản phẩm, đa dạnh hoá các hình thức thanh toán, tăng cường công tác quản lý, giới thiệu sản phẩm, các dịch vụ sau bán hàng. - Tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ là một biện pháp hữu hiệu nhất để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp đều mong muốn bán hàng với số lượng cao nhất cho dù giá bán có thấp hơn. Hiện nay, các doanh nghiệp có xu hướng bán hàng với giá thấp hơn cho dù lợi nhuận thu được trên một đơn vị sản phẩm giảm nhưng nhờ có khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng nên từ đó tổng lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được vẫn nhiều hơn. Chính vì vậy, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, các doanh nghiệp đều tìm mọi biện pháp để thu hút khách hàng, đẩy mạnh công tác tiêu thụ nhằm bán được hàng lớn nhất, từ đó thu được lợi nhuận cao nhất. Chương II Thực trạng về lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận tại Công ty cơ khí hà nội I. Vài nét về quá trình thành lập, phát triển sản xuất kinh doanh 1. Giới thiệu chung về Công ty Công ty cơ khí Hà Nội tiền thân là nhà máy công cụ số 1, được khởi công xây dựng ngày 15/2/1955 và khánh thành vào ngày 12/4/1958. Trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, đến nay Công ty cơ khí Hà nội là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng Công ty Máy và thiết bị công nghiệp, sử dụng con dấu riêng theo quy định của nhà nước. Tên thường gọi: Công ty Cơ Khí Hà Nội. Tên giao dịch quốc tế: Hanoi Mechanical Company. Tên viết tắt: HAMECO Giám đốc: TS. Trần Việt Hùng. Tài khoản số: 710A-00006 tại Ngân hàng Công thương Việt nam. Địa chỉ giao dịch: Số 24-Đường Nguyễn Trãi-Quận Thanh Xuân-Hà Nội. Điện thoại: 04-8584416-8584354-8583163 Fax: 04-8583268 Giấy phép kinh doanh số: 1152/QĐ-TCNSĐT cấp ngày 30/10/1995. Sản phẩm chính của Công ty hiện tại là các loại dụng cụ cắt gọt kim loại bao gồm: Bàn ren, Tảo, mũi khoan, dao phay, lưỡi cưa, ca lipvới sản lượng 22 tấn/ năm. Các loại máy công cụ, máy tiện T630A, T630D, T18A,T14L, máy bào ngang B365, máy khoan K525. Công ty cũng sản xuất các loại máy khác như : máy phay vạn năng, máy mài tròn ngoài, máy mài phẳng.. và các loại máy chuyên dùng theo đơn đặt hàng. Công ty bắt đầu chế tạo máy công cụ điều khiển số tự động hoá trên cơ sở các máy trong chương trình sản xuất máy và máy chuyên dùng theo đơn đặt hàng. Kinh doanh thương mại: Xuất nhập khẩu và kinh doanh thiết bị vật tư , thiết bị trong ngành chế tạo máy và thiết bị công nghiệp. Trong thời gian tới Công ty giữ vững danh hiệu con chim đầu đàn của công nghiệp cơ khí Việt Nam. Hoàn thiện giai đoạn 2 dự án đầu tư gần 80 tỷ đồng cùa Nhà nước vào lĩnh vực cơ khí và tự động hóa để nâng cao năng lực sản xuất của Công ty. Bên cạnh việc đầu tư thiết bị, Công ty chú trọng đầu tư nhân lực con người. Các mục tiêu cụ thể có thể có tới như; hướng mạnh vào xuất khẩu, tăng giá trị xuất khẩu đảm bảo tốc độ tăng trưởng là 20%, tăng cường kiểm tra, kiểm soát và quản lý môi trường. * Lịch sử hình thành và phát triển Công ty Vào ngày 26/11/1955, Đảng và chính phủ đã quyết định xây dựng một xí nghiệp cơ khí hiện đại làm nòng cốt cho ngành công cụ chế tạo máy sau này đó là nhà máy cơ khí Hà nội, do được sự giúp đỡ của nhân dân Liên Xô anh em. Ngày 11/4/1958, Nhà máy Cơ Khí Hà Nội chính thức hoàn thành và đi vào hoạt động với nhiệm vụ lúc bấy giờ là sản xuất máy công cụ có độ chính xác cấp 1 để trang bị cho nền cơ khí còn non trẻ của Việt Nam. Trải qua 43 năm nhưng nhà máy vẫn là một trung tâm cơ khí chế tạo máy và cơ khí lớn của Việt Nam. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, song cùng với sự nhiệt tình của ban lãnh đạo Công ty và đông đảo cán bộ công nhân viên của Công ty đã không mệt mỏi, nỗ lực hết mình với mọi tiềm năng nội lực để hoàn thành nhiệm cụ của Đảng và Nhà nước giao phó. Từ 1996-nay: Toàn Công ty thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000, xây dựng cơ sở cho Công ty sau năm 2000. Hàng năm Công ty đều kí kết hợp đồng lớn và ổn định. Lượng hợp đồng được thực hiện gối đầu cho năm sau luôn ở mức từ 20- 25 tỷ đồng chiếm khoảng 25-30% doanh thu năm. Đặc biệt đáng khích lệ là Công ty đã tham gia và thắng thầu nhiều hợp đồng kinh tế trong nước và quốc tế. Một số hợp đồng có giá trị lớn từ 2-3 triệu USD cung cấp máy mà thiết bị cho các liên doanh của Anh và Pháp tại Việt nam, thông qua đó đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí, kĩ thuật , công nhân, tạo đủ công ăn việc làm với mức thu nhập hợp lí cho người lao động, mang lại niềm tin và phấn khởi cho toàn bộ tập thể cán bộ công nhân viên. Có thể nói đây là thời kì khởi sắc của Công ty sau một thời gian khá dài làm ăn thua lỗ tưởng như khó trụ vững trong nền kinh tế thị trường. Là một doanh nghiệp nhà nước, Công ty Cơ khí Hà nội luôn phát huy vai trò là nòng cốt trong ngành công nghiệp chế tạo máy công cụ bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, vốn do nhà nước cấp, vốn vay, vốn tự có, vốn hoạt động thuê tài chính... Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp là 140 tỷ đồng trong đó vốn cố định chiếm 51 tỷ và vốn lưu động là 89 tỷ chiếm 63,6%. Tỷ lệ này cho thấy doanh nghiệp đã bố trí và phân phối một cách hợp lí vì vốn lưu động tốt nhất trong khoảng 60-70% tổng nguồn vốn. Có thể cho thấy rằng Công ty Cơ khí Hà Nội đã tự chủ trong sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc nhiều vào nhà nước cụ thể là Công ty đã đưa những chiến lược quyết định năng động giúp có được những cơ hội kinh doanh kịp thời. Song song với những vấn đề này là sự đổi mới các chính sách, cơ chế kinh tế và công cụ quản lí tài chính của Nhà nước ở tầm vĩ mô thì việc khai thác tạo lập các nguồn vốn cho Công ty càng trở nên linh hoạt tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của Công ty. Trải qua quá trình hoạt động với nhiều biến động của nền kinh tế thị trường, hàng loạt Công ty cơ khí bị đình trệ thì hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn duy trì ổn định, sản phẩm của Công ty vẫn có uy tín đối với thị trường trong và ngoài nước. Tốc độ tăng sản lượng và doanh thu hàng năm khá cao. Tuy vậy, năm 2002 lại là năm đánh dấu bước nhảy vọt của Công ty. Cụ thể là doanh thu từ 12.299 triệu vào năm 2001 đã tăng lên 15.000 triệu đồng năm 2001. Thành công này là kết quả của một loạt các biện pháp tài chính mà Công ty đã sử dụng. Bảng báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty giai đoạn ( 2000-1002) S T T Chỉ tiêu 20000 2001 2002 1 Tổng giá trị sản lượng 10.587.384.403 12.612.365.845 17.097.845.246 2 Tổng doanh thu 8.935.614.281 12.529.280.770 16.497.812.465 3 Nộp ngân sách 735.645.000 956.240.000 1.250.000.000 4 Lãi 83.724.953 100.987.654 165.200.435 5 Thu nhập bình quân 650.000 746.000 800.000 Hiện nay Công ty đang tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, đổi mới sản phẩm, đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật để sẵn sàng tiếp nhận các công trình hợp tác sản xuất do Tổng Công ty hỗ trợ giới thiệu. 2. Đặc điểm tổ chức quản lý. 2.1 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý. Với quá trình phát triển đó, thì hiện nay cơ cấu tổ chức của Công ty cơ khí Hà Nội được thể hiện qua sơ đồ sau: Qua sơ đồ ta thấy, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty cơ khí Hà Nội là theo dạng: Trực tuyến- chức năng> Đứng đầu là giám đốc, sau đó là 4 phó giám đốc, và cùng nhiều phòng ban phân xưởng. Giám đốc là người chịu trách nhiệm trực tiếp và cao nhất với cấp trên trong mọi lĩnh vực hoạt động của Công ty và các phó giám đốc chức năng, các phòng ban chức năng có nhiệm vụlàm tham mưu, giúp việc, nghiên cứu theo dõi, đề xuất tư vấn cho giám đốc có các quyết định nhanh chóng kịp thời và chính xác. Để từ đó sẽ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đạt hiệu quả cao. Giám đốc PGĐ QLCL PGĐ KTSX PGĐ KTĐN XNK PGĐ Nội chính Xưởng máy công cụ Xưởng bánh răng Xưởng cơ khí lớn Xưởng GCAL-NL Xưởng đúc Xưởng kết cấu Phòng KT Phòng BDSX Phòng KCS Phòng CĐ Phòng KTTKTC Phòng vật tư Phòng GDTM Phòng XDCB Phòng bảo vệ Phòng QTĐS Phòng Y tế Phòng VHXH VPGĐ Phòng TCNS TTCKĐT Thư viện Trường THCNCTM Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của một số đơn vị chính của Công ty: Ban giám đốc Công ty: Giám đốc: Là người có quyền hành cao nhất trong Công ty, phải chịu trách nhiệm chính trước nhà nước và pháp luật về mọi hoạt động sản xuất kinh doang của Công ty. Phó giám đốc thường trực: Giúp Giám đốc Công ty điều hành các công việc chung hàng ngày của Công ty, được uỷ quyền chủ tài khoản. Chịu trách nhiệm trước giám đốc Công ty và pháp luật về những việc đuợc uỷ quyền phụ trách. Phó giám đốc kinh doanh: Được giám đốc uỷ quyền phụ trách kế hoạch kinh doanh thương mại và quan hệ quốc tế. Chịu trách nhiệm trước Giám đốc về việc chỉ đạo các hoạt động thuộc các lĩnh vực: Kế hoạch, công tác đối ngoại và kinh doanh thương mại. Phó Giám đốc kiêm Giám đốc xưởng máy công cụ: Là người trực tiếp điều hành và kiểm tra công việc sản xuất của xưởng máy công cụ và các sản phẩm máy công cụ trong phạm vi Công ty, là người chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty về các mặt quảm lý tổ chức điều hành, sử dụng các tiềm năng lao động, thiết bị và các nguồn lực khác được giao, thực hiện các nhiệm vụ sản xuất cho Công ty, phân công và thực hiện kế hoạch sản xuất máy công cụ từng kỳ và cả năm. Phụ trách và chỉ đạo các xưởng sản xuất, các xí nghiệp sản xuất và KDVTCTM, xí nghiệp LĐĐT và bảo dưỡng thiết bị công nghiệp Phó Giám đốc nội chính: được giám đốc uỷ quyền quản lý điều hành các mặt hoạt động về nội chính xây dựng cơ bản. Phó Giám đốc sản xuất kiêm trợ lý Giám đốc : Giúp Giám đốc quản lý sản xuất, phụ trách trung tâm điều hành sản xuất. Chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty về công tác điều hành quản lý sản xuất trong toàn Công ty, tiến độ giao hàng của từng sản phẩm. Một số đơn vị chính: - Văn phòng giám đốc Công ty: Có chức năng làm thư ký các hội nghị do giám đốc triệu tập và tổ chức, điều hành các công việc của văn phòng. Nhiệm vụ chủ yếu là tập hợp thông tin các văn bản pháp lý hành chính trong và ngoài Công ty truyền đạt ý kiến của giám đốc xuống các đơn vị và cá nhân, tổ chức quản lý, lưu trữ, chuyển các loại thông tin và văn bản quản lý. - Phòng tổ chức nhân sự: giúp giám đốc ra các quyết định nội quy, quy chế về lao động tiền lương, tổ chức nhân sự và giải quyết những vấn đề chính sách xã hội trong và ngoài nước theo qui định của Giám đốc. - Ban nghiên cứu và phát triển có nhiệm vụ nghiên cứu chiến lược kinh tế của Đảng và nhà nước, nghiên cứu cơ chế thị trường, cung cầu tiêu dùng sản phẩm trong và ngoài nước, trên cơ sở đó ra chiến lược sản phẩm cho Công ty. - Trung tâm tự động hoá: Nghiên cứu công nghệ tự động hoá của các nước phát triển, tìm mọi giải pháp ứng dụng vào sản xuất chế tạo tại Công ty nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng các sản phẩm. - Phòng kế toán thống kê tài chính: theo dõi tình hình hoạt động hàng ngày của Công ty, quản lý vốn bằng tiền, theo dõi tình hình trích nộp, trích khấu hao tài sản cố định, tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm, tính toán kết quả hoạt động và sản xuất kinh doanhh của Công ty. - Phòng kỹ thuật: có nhiệm vụ thiết kế bản vẽ hướng dẫn sử dụng công nghệ định mức và tìm kiếm nguyên vật liệu. - Văn phòng giao dịch thương mại: thay mặt giám đốc Công ty tiếp khach hàng, dự thảo chi phí các hoạt động trình giám đốc phê duyệt. - Phòng quản trị đời sống: chịu trách nhiệm về cảnh quan, môi trường của Công ty thực hiện theo khẩu hiệu “xanh, sạch, đẹp”. Bảo đảm các bữa ăn ca an toàn vệ sinh. - Phòng bảo vệ: có nhiệm vụ giữ gìn trật tự an ninh trong toàn Công ty. - Phòng vật tư: có chức năng tìm kiếm thị trường mua sắm vật tư, kỹ thuật đúng với chỉ tiêu định mức đề ra, đảm bảo số lượng, chất lượng chủng loại, thời gian sao cho quá trình sản xuất được liên tục, đúng với kế hoạch. Lập kế hoạch thu mua, vận chuyển cung cấp cho sản xuất sửa chữa xây dựng theo kế hoạch của Công ty. - Phòng quản lý ch
File đính kèm:
- tieu_luan_giai_phap_tang_loi_nhuan_tai_cong_ty_co_khi_ha_noi.pdf