Tiểu luận Khủng hoảng tài chính

pdf 29 trang yenvu 28/04/2024 890
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Khủng hoảng tài chính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Khủng hoảng tài chính

Tiểu luận Khủng hoảng tài chính
1 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH 
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC 
------------------------------ 
TIỂU LUẬN MƠN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 
CHỦ ĐỀ 2B: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 
 Lớp : Cao Học – Ngân hàng đêm 2 
 Khĩa : 18 
 Nhĩm : 4 
Danh sách học viên thực hiện: 
 1. Huỳnh Trung Dũng 
 2. Nguyễn Hồng Lan 
 3. Nguyễn Thế Lộc 
 4. Vũ Thị Nga 
 5. Nguyễn Văn Phúc 
 6. Nguyễn Văn Thanh 
 7. Võ Thụy Vy 
 8. Chung Tư Hịa 
 9. Lê Huy Phương 
Giảng Viên: Ths. Nguyễn Khắc Quốc Bảo 
TP. Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2010 
2 
Khủng hoảng tài chính – một thất bại lớn của chính trị 
Johnny Munkhammar och Nima Sanandaji 
Báo báo về chính sách của EEI 
Một loạt các bài viết về chính sách của Hiệp hội các doanh nghiệp Châu Âu 
(EEI) nhằm mục đích thơng báo các cuộc tranh luận của chính trị Châu Âu với tư cách 
là những tranh cãi đủ cứng rắn, nhằm thúc đẩy các ý tưởng của tự do kinh doanh và tự 
do cạnh tranh. Tờ báo cĩ nhiệm vụ khi các bài phân tích cho dù được viết bởi đội ngũ 
nhân viên trực tiếp của EEI hoặc các tác giả bên ngồi. Bất cứ kết luận hay ý kiến 
được trình bày trong các bài viết này khơng nhất thiết phải trích quan điểm của EEI 
hoặc của những người liên kết với EEI. 
Trưởng ban 
Johnny Munkhammar 
Hỗ trợ thiết kế 
Bản quyền của hiệp hội kinh doanh Châu Âu 
Bất cứ sự sao chép nào phải được sự cho phép từ nhà xuất bản 
Phát hành bởi: 
European Enterprise Institute 
c/o Kellen Europe 
Avenue Jules Bordetlaan 142 
1140 Brussels 
Tel: +32 (0) 2 761 16 75 
E-mail: 
Web site: www.european-enterprise.org 
EEI President and Co-President : Peter Jungen, Gunnar Hưkmark 
3 
Hiệp hội kinh doanh Châu Âu là một tổ chức phi lợi nhuận, cĩ trụ sở tại Bỉ. 
Hiệp hội nhằm mục đích thúc đẩy tinh thần kinh doanh trong cộng đồng chính sách 
Châu Âu và cung cấp một nền tảng cho các ý tưởng và triết lý của doanh nhân trên 
khắp Châu Âu. 
Các cơng trình nghiên cứu của EEI để tạo ra những điều kiện và tranh luận 
trong mọi khía cạnh của chính sách cĩ tác động đến điều kiện của tinh thần doanh 
nhân, khuyến khích đổi mới, năng lực cạnh tranh và sự thịnh vượng kinh tế. EEI 
khơng mang bất kỳ một ý kiến của tổ chức trong vấn đề cá nhân, nhưng tích cực 
khuyến khích cuộc đối thoại tranh luận giữa các bên liên quan. 
4 
Mục lục 
Thơng điệp từ nhà xuất bản 
Lời nĩi đầu 
Từ rủi ro thế chấp đến khủng hoảng tài chính tồn cầu 
Thuế - tài trợ tổ chức tín dụng và quy chế tạo khủng hoảng 
Các chuyên gia dự đốn như thế nào về chính trị tạo ra cuộc khủng hoảng 
Nhưng các chính trị gia đã bỏ qua những cảnh báo 
Những khủng hoảng của tư bản? 
Thị trường tài chính tự do là quyết định cho sự giàu cĩ 
Mỹ đang lê bước trên con đường cải cách 
Kết luận 
Tài liệu tham khảo 
5 
Thơng điệp từ nhà xuất bản 
Trong suốt 25 năm qua, nền kinh tế tồn cầu đã trải qua một sự tăng trưởng và 
phát triển chưa từng thấy. Nhiều quốc gia trên thế giới đã thốt khỏi cảnh đĩi nghèo. Ý 
nghĩa này gây một ấn tượng và chắc chắn đây là một điều gì đĩ để các nhà kinh tế 
mong đợi. Sự thịnh vượng khơng phải là vấn đề chính của kinh tế học mà vấn đề về 
giá trị lao động và các cơ hội xã hội. 
Hàng triệu người dễ dàng đạt được những giá trị mới và cơ hội thật sự nhiều 
đến mức mà ở năm 1968 hoặc thậm chí năm 1989 khơng ai tin rằng điều này cĩ thể 
xảy ra. Thế giới đã thay đổi và chúng ta khơng cịn nghe nĩi về thế giới thứ ba bởi vì 
khơng cịn sự phân chia địa cầu chúng ta thành thế giới thứ ba, thứ hai và thứ nhất. Sự 
hiện đại và thị trường tài chính tồn cầu đã thay đổi tất cả, mang lại những cơ hội đầu 
tư và thương mại cho tất cả các dân tộc và khu vực mà trước đây hầu như khơng cĩ cơ 
hội tham gia. 
Viễn cảnh này quan trọng khi chúng tơi thảo luận về khủng hoảng tài chính 
ngày nay và nguyên nhân của nĩ. Những kết luận của chúng tơi khơng phải nhận được 
bằng kết qủa của 25 năm thành cơng khác nhau. Bởi vì chúng tơi cần ít nhất bằng với 
những năm thành cơng như chúng tơi thấy để đáp ứng những thách thức như người ta 
sống trong đĩi nghèo, xã hội đang thay đổi, về chính trị, về thách thức đối với những 
thay đổi chính trị và sự hợp nhất của các quốc gia và khu vực. 
Những kết quả của sự phát triển tồn cầu cho chúng tơi những kinh nghiệm 
đáng kinh ngạc, những điều mà chúng tơi nhìn thấy hơm nay chắc chắn là vai trị quan 
trọng về sự vận hành tốt của thị trường tài chính tồn cầu. Và chúng tơi cần chắc chắn 
rằng chúng hoạt động tốt trong tương lai, sự thích nghi thật sự của kinh tế tồn cầu. 
Nếu hơm nay chúng ta điều chỉnh những thị trường này bằng cách gây cản trở sức 
sống và cải tiến liên quan đến thương mại, kinh doanh và đầu tư, chúng tơi sẽ mất cơ 
hội hoặc khơng đạt được ổn định. 
Khu vực tài chính phải được ổn định, đáng tin cậy và minh bạch, nhưng nĩ 
khơng thể cân bằng những thiếu sĩt của các bộ phận khác của nền kinh tế. Nếu chính 
sách tiền tệ khơng ổn định, tài chính cơng khơng ổn định hoặc nếu những can thiệp 
chính trị làm suy yếu thị trường, thị trường khơng thể bù đắp cho điều đĩ và khơng ai 
6 
cĩ thể tránh được những hậu quả của cuộc suy thối kinh tế, chúng ta chỉ cĩ thể hạn 
chế thấp nhất điều này xảy ra. 
Đĩ là lý do thảo luận về cuộc khủng hoảng hiện nay phải được mở ra và cung 
cấp một lộ trình cho sự phát triển tương lai của thị trường tài chính tồn cầu. Cĩ nhiều 
việc phải làm để đạt được những quy định tốt hơn, nhưng điều đĩ khơng cĩ nghĩa là 
những sắp đặt – cái đĩ thường là những đề nghị trong tranh luận ngày nay. Châu Âu 
giữ vai trị hàng đầu trong việc bảo đảm sự tự do của thị trường tài chính tồn cầu với 
những quy định tốt hơn. 
Việc cơng bố này của hiệp hội các doanh nghiệp Châu Âu cung cấp những 
thơng tin cĩ giá trị về sự can thiệp thật sự của chính phủ như thế nào, là nguyên nhân 
của hầu hết những cuộc khủng hoảng tài chính, và do đĩ dẫn đến những tranh luận về 
thị trường tài chính tự do trong tương lai. 
Gunnar Hưkmark 
Đồng chủ tịch EEI và là thành viên của Nghị viện Châu Âu 
Giới thiệu 
Cuộc khủng hoảng tài chính ở M ỹ đã làm chao đảo nền kinh tế tồn cầu. Một số 
những ngân hàng lớn nhất của thế giới đã bị phá sản và bị chính phủ kiểm sốt. Thị 
trường cổ phiếu sụp đổ khiến những nhà đầu tư nhỏ lo sợ bị mất vốn một khi các ngân 
hàng khơng an tồn. 
Ngày nay, nhiều nhà quan sát xem khủng hoảng như là một bằng chứng suy yếu 
của thị trường tự do. Họ nghĩ rằng giải pháp nằm ở chỗ sự dụng nhiều hơn những quy 
định và can thiệp của chính phủ trong thị trường tài chính. Đồng thời, cĩ nhiều dấu 
hiệu cho rằng cuộc khủng hoảng được tạo ra bởi các quy định và sự can thiệp của 
chính phủ. Đây khơng phải là sự thất bại của thị truờng mà là sự thất bại của chính trị. 
Cuộc khủng hoảng cĩ nguồn gốc từ thị trường thế chấp của Hoa Kỳ, đặc biệt 
trong việc cho vay “dưới chuẩn” tập trung vào những hộ gia đình cĩ điều kiện tín dụng 
7 
yếu. Chính phủ Hoa Kỳ bước đầu làm cho những hộ gia đình cĩ thu nhập thấp dễ dàng 
sở hữu nhà thơng qua tổ chức cơng như Fannie M ae and Freddie M ac. 
Vẽ lên sự trợ cấp mạnh mẽ, Fannie M ae and Freddie Mac đã cấp bảo lãnh thế 
chấp cho những cá nhân khơng đủ điều kiện cho vay bình thường. Đồng thời, những 
quy định này cũng được đưa ra trong một số trường hợp các ngân hàng bắt buộc mở 
rộng tín dụng cho những người vay mà tài sản khơng đảm bảo. 
Khơng khác với cuộc khủng hoảng tài chính ở Thụy Điển những năm 1990 và 
suy giảm kéo dài ở Mỹ, cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại cĩ cái gốc từ chính sách 
tiền tệ của chính phủ. Cục dự trữ Mỹ cắt giảm tỷ lệ dự trữ ở mức rất thấp sau năm 
2001 để làm chậm suy giảm kinh tế, đã tạo ra bong bĩng bất động sản. 
Cuối cùng, các ngân hàng tin chắc rằng chính phủ sẵn sàng giải cứu họ, nếu 
khủng hoảng xảy ra. Trong bối cảnh đĩ, các tổ chức tín dụng Mỹ mở rộng những 
khoản cho vay rủi ro cao cho những người cĩ điều kiện tín dụng thấp. Khi thị trường 
nhà đất suy giảm, phần lớn các hộ gia đình khơng cịn cĩ khả năng trả hết những 
khoản vay của họ, và khủng hoảng đã xảy ra sau đĩ. 
Nhiều chuyên gia và nhà bình luận đã cảnh báo về cuộc khủng hoảng hiện nay. 
Nhưng trong suốt giai đoạn kinh tế tăng trưởng, khơng ai lắng nghe những cảnh báo 
này, trong đĩ cĩ cả Đ ảng Cộng hịa và Đảng Dân chủ. 
Thị trường tự do được đặc trưng là tạo sự phá huỷ: sản phẩm cũ, cơng ty và 
việc làm được thây thế bằng cái mới và tốt hơn. Nếu khơng cĩ sự can thiệp của chính 
phủ vào thị trường tài chính Mỹ cĩ lẽ sự suy giảm đã cĩ hạn chế và những người tham 
gia thị trường sẽ chịu đựng sự mất mát.Thơng qua sự can thiệp của chính phủ, sự suy 
giảm đã trở thành cuộc khủng hoảng - nếu chính phủ khơng tiếp tục can thiệp – cĩ thể 
sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng cho tồn bộ nền kinh tế. Do đĩ chính phủ can thiệp sâu 
hơn. 
Khủng hoảng phải được ngăn chặn và điều này cĩ thể đưa đến sự can thiệp cĩ 
thể lặp đi lập lại trong một thời gian dài. Điều này khơng chỉ xảy ra ở Mỹ mà cịn diễn 
ra ở các tổ chức tài chính tại các quốc gia khác đã lỡ mua lại khoản tín dụng xấu. Ngày 
nay các quốc gia Châu Âu đang hành động riêng lẻ, nhưng việc phối hợp hành động 
trong nội bộ các nước EU đang được bàn luận. Ngồi việc kiểm sốt khủng hoảng, cĩ 
8 
rất nhiều lý do để tập trung cải thiện một viễn cảnh dài hạn, nơi mà vai trị của chính 
phủ trong thị trường tài chính là đề ra những luật lệ, chứ khơng chỉ là người tham gia 
thị trường. 
Hoa Kỳ trước đây đã giành được lợi thế thơng qua chính sách tự do kinh tế và 
gia tăng mối quan hệ đến những nước cơng nghiệp khác. Trong những năm gần đây, 
nước này đã mất đà trong cải cách thị trường, chi tiêu cơng đã gia tăng và những điều 
chỉnh mới về cơng nghiệp đã được đưa vào. Điều này cĩ nghĩa là Hoa Kỳ đã mất đi 
chút ít về tự do kinh tế - và do đĩ là mất cạnh tranh – trong khi những nước khác gia 
tăng cạnh tranh. Điều này đang áp dụng với phần lớn các nước Châu Âu và dĩ nhiên cĩ 
Trung Quốc, Ấn Độ và Braxin được đề cập là 3 nền kinh tế phát triển nhanh nhất. 
Nhiều dự đốn rằng khủng hoảng đã đánh dấu kết thúc kỷ nguyên thịnh vượng 
và thống trị tồn cầu của Hoa K ỳ. Hoa Kỳ dĩ nhiên cĩ thể vượt qua cuộc khủng hoảng, 
nhưng câu hỏi đặt ra là bằng cách nào và khi nào - và đâu là điều kiện kinh tế lâu dài 
được tạo lập bởi các chính trị gia Hoa Kỳ, đặc biệt là trong thị trường tài chính. Để 
thành cơng, các chính trị gia Mỹ phải nhận ra được nguyên nhân chính của cuộc khủng 
hoảng và đánh giá những cải cách tiếp theo. Cuộc khủng hoảng này khơng phải là kết 
quả của nền kinh tế Hoa Kỳ đang quá tự do, mà nĩ đến từ những phần khác nhau nơi 
mà nĩ chưa được tự do cho đến tận bây giờ. (The crisis is not a result of the US 
economy being too free, but comes from the various parts where it has not been free 
until now.) 
Sẽ luơn cĩ những suy giảm trong nền kinh tế và rủi ro của các bong bĩng do thị 
trường tạo ra. Nhưng xốy sâu vào lý thuyết rất phổ biến của Karl Marx hoặc Jean-
Baptiste Colbert, cũng khơng cĩ giải pháp cho bất kỳ điều này. Thị trường tự do là 
điều kiện tạo nên sự thịnh vượng, và tự do thị trường tài chính là cần thiết trên tồn 
cầu của những thập niên trước đây. Thật vậy, kể từ khi cuộc khủng hoảng này xảy ra, 
vai trị tạo lập của chính phủ là rất lớn, nĩ cung cấp một tình thế mạnh mẽ để tự do hố 
thị trường tài chính. 
Kiến thức này cũng quan trọng cho Châu Âu cân nhắc, ít nhiều bởi vì cuộc 
khủng khoảng cũng tác động đến chúng ta giống như vậy. Chúng ta cĩ thể học rất 
nhiều điều từ những việc đã làm tốt và những việc chưa làm tốt trong chính sách kinh 
9 
tế M ỹ. Mục tiêu của nghiên cứu này để mơ tả nguồn gốc và những giải pháp lâu dài 
cho cuộc khủng hoảng hiện nay. 
Johnny Munkhammar 
Giám đốc nghiên cứu, Hiệp hội doanh nghiệp Châu Âu 
Nima Sanandaji 
Managing Director, Captus, chuyên gia cố vấn 
Từ rủi ro thế chấp đến khủng hoảng tài chính tồn cầu 
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Mỹ tăng trưởng rất nhanh và đầu tư 
nước ngồi chảy mạnh vào trong nước. Trong khi đĩ, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) 
đã duy trì mức lãi suất liên bang rất thấp trong một thời gian dài. Năm 2003, lãi suất 
trái phiếu kho bạc kỳ hạn 3 tháng chỉ khoảng 1%. Hơn nữa, từ năm 2003-2005 FED đã 
duy trì lãi suất dưới mức lạm phát kỳ vọng dẫn đến việc trợ cấp mạnh mẽ cho các 
khoản vay. Điều này đã tạo ra bong bĩng nhà đất. 
Từ giữa thập niên 1990, thị trường cho vay dưới chuẩn bắt đầu phát triển. Theo 
đĩ, thị trường này cung cấp các khoản vay cho những người đi vay khơng đáp ứng đủ 
điều kiện để vay thơng thường. 
Sự phát triển của các khoản vay thế chấp dưới chuẩn đĩ đã được khuyến khích 
mạnh mẽ ở gĩc độ chính trị thơng qua các khoản trợ cấp. Thậm chí cĩ những quy định 
trong vài trường hợp bắt buộc ngân hàng phải mở rộng thế chấp. Các khoản thế chấp 
dưới chuẩn đã đĩng một vai trị quan trọng giúp cho số lượng những hộ gia đình Mỹ 
sở hữu nhà tăng từ 65% đến 69% trong giai đoạn 1995 - 2006. 
Cuối năm 2007, tổng cộng đã cĩ hơn bảy triệu hộ gia đình Mỹ sở hữu các 
khoản vay dưới chuẩn. Giá trị của các khoản vay thế chấp dưới chuẩn tại thời điểm đĩ 
vào khoảng 1.300 tỷ đơ la, gấp bốn lần so với năm 2003. Chỉ riêng trong năm 2005, 
những hợp đồng thế chấp dưới chuẩn được ký cĩ giá trị khoảng 600 tỷ đơ la. 
Những khoản vay dưới chuẩn rủi ro cao cùng với sự tăng trưởng quá nĩng của 
thị trường. Chính phủ đã tạo ra khủng hoảng, nhưng chính hoạt động cho vay quá mức 
đã gĩp phần dẫn đến sự lây lan mạnh mẽ của khủng hoảng. Cịn các chính trị gia Mỹ 
10 
lại làm tăng rủi ro cho một thị trường vốn đã tiềm ẩn nhiều rủi ro, hậu quả là khủng 
hoảng nhanh chĩng xuất hiện. Khi tăng trưởng kinh tế chững lại, thị trường nhà đất bắt 
đầu đĩng băng, những hộ gia đình cĩ thu nhập thấp bắt đầu gặp khĩ khăn trong việc 
hồn trả và tái tục các khoản vay thế chấp của họ. 
Trong quý III năm 2007, các khoản vay thế chấp dưới chuẩn chiếm tổng cộng 
13% thị trường cho vay thế chấp tại Mỹ, đồng thời đã cĩ 55% trường hợp nhà bị tịch 
thu trong thời gian này. Một vài tổ chức tín dụng Mỹ chuyên cho vay dưới chuẩn đã 
lâm vào khủng hoảng nặng nề. Chẳng hạn như cổ phần của New Century Financial 
Corporations và Novastar Financial giảm mạnh đến 90%. 
Cuộc khủng hoảng sau đĩ nhanh chĩng lan ra khắp thị trường tài chính vốn đã 
tăng trưởng quá nĩng và tác động đến các tổ chức tín dụng bên ngồi Hoa Kỳ. Trong 
tháng 3/2008, Bloomberg thống kê hơn 34.000 việc làm đã bị cắt giảm tại các ngân 
hàng niêm yết ở phố Wall. 
Trong tháng 4/2008, IMF liên tục cảnh báo rằng cuộc khủng hoảng tài chính cĩ 
thể dẫn tới một cuộc suy thối tồn cầu. Tổ chức này thậm chí cịn cho rằng đây cĩ thể 
là "cú sốc tài chính lớn nhất kể từ cuộc Đại khủng hoảng 1930". 
Cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn ở M ỹ đã trở thành một vấn đề 
tồn cầu. Trên khắp thế giới, những khách hàng lớn, nhỏ gửi tiết kiệm tại ngân hàng và 
các nhà đầu tư bắt đầu sợ sẽ mất đi tài sản. Một số các ngân hàng nổi tiếng hàng đầu 
thế giới bị phá sản, hoặc được mua lại bởi các ngân hàng khác, hoặc bị Chính phủ các 
nước chi tiền mua lại nhằm nắm quyền kiểm sốt, hoặc được cứu bởi các tổ chức tín 
dụng cơng. Những tên tuổi này bao gồm các tổ chức nổi tiếng như Bear Sterns, 
Merrill Lynch đến Washington Mutual với bề dày 119 năm tuổi đến Northern Rock, 
Bradford & Bing và HBOS tại Vương quốc Anh. 
Trên quy mơ quốc tế, người ta bắt đầu hoang mang về khả năng phá sản dây 
chuyền của các ngân hàng, đĩ cũng là lý do vì sao các ngân hàng đang kín đáo cho vay 
để hỗ trợ lẫn nhau. Vì các ngân hàng đang phụ thuộc lẫn nhau cả về các khoản vay và 
cho vay, nên ngay cả những tổ chức tín dụng cịn sống sĩt cũng đang trong tình thế 
cực kỳ khĩ khăn. 
Chính phủ Mỹ đã chi ra gĩi giải cứu trị giá 700 tỷ đơ la để bình ổn thị trường và 
bơm tiền vào các ngân hàng, cho họ một biên lãi suất cho các khoản vay tái tục. Phần 
11 
vốn đĩ một phần dùng để mua lại các khoản nợ xấu, chẳng hạn như khoản vay cĩ thế 
chấp ở các ngân hàng. 
Tại châu Âu, với các biện pháp khác nhau - nhưng với mục đích tương tự - đã 
được áp dụng. Chính phủ đã cam kết bảo lãnh cho các khoản tiền gửi ở các ngân hàng 
ở một số nước. Tại Vương quốc Anh, Chính phủ đã hốn đổi nguồn vốn của các ngân 
hàng thành vốn chủ sở hữu, tạo thuận lợi cho việc trả lại của tiền đĩng thuế của người 
dân trong tương lai - như là trường hợp tại Thụy Điển vào năm 1992. 
Cĩ lẽ đặc điểm của cuộc khủng hoảng này là nĩ đã được biết trước nhưng 
khơng thể tránh khỏi. Trong thực tế, một số các chuyên gia nhìn thấy sự phát triển này 
sớm vào năm 1999, nhưng cảnh báo của họ khơng được chính phủ chú ý. 
Tiền Thuế - Tài trợ cho các Tổ chức tín dụng và những Quy định 
tạo ra Khủng hoảng 
Để hiểu được sự đảo lộn kinh tế hiện nay ở Mỹ, cần phải nghiên cứu hai tổ 
chức tín dụng đĩng vai trị quyết định là: Fannie Mae và Freddie Mac. The Federal 
National M ortgage Association (Cơng ty Cho vay thế chấp Quốc gia thuộc Liên bang), 
gọi tắt là Fannie Mae, được thành lập bởi Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ sau Đại 
khủng hoảng. Qua thời gian, nĩ phát triển thành một tổ chức tín dụng tư nhân, đồng 
thời ở trạng thái là một thực thể của chính phủ. 
Việc kinh doanh của Fannie Mae bao gồm bảo hiểm các khoản cho vay của các 
tổ chức tín dụng khác. The Federal Home Loan Mortgage Corporation (Tập địan cho 
vay mua nhà trả gĩp liên bang) ( viết tắt là: Freddie M ac) nĩ đã được thành lập vào 
1970 với cấu trúc và mục đích tương tự như Fannie Mae. 
Hai tổ chức trên được chính quyền Liên bang tiếp quản vào ngày 7 tháng 9 năm 
2008, khi bị ảnh hưởng nặng của cuộc khủng hoảng do các tổ chức này gĩp một phần 
lớn. Cần nĩi rằng các tổ chức này trong những tháng trước đã phụ trách 70% các 
khoản thế chấp tại Mỹ, thị trường trong đĩ nĩ đĩng vai trị quyết định, nơi mà dấu hiệu 
đầu tiên của cuộc khủng hoảng xảy ra. 
Trước khi được tiếp quản bởi chính quyền Liên bang vào ngày 7 tháng 9 năm 
2008, Fannie Mae và Freddie M ac là một thực thể, hai tổ chức này được thiết kế rất 
riêng, vừa là một cánh tay của chính phủ với những mục tiêu chính trị từ đĩ họ đã 
12 
nhận được những khoản trợ cấp lớn, M ặt khác, các doanh nghiệp cũng kinh doanh 
riêng và tìm cách tối đa hố giá trị cổ đơng. 
Mục tiêu chính trị đã làm giảm chi phí dành cho các khoản thế chấp dưới chuẩn 
bằng cách sử dụng trợ cấp xã hội những ảnh hưởng sau này đĩ là vơ hiệu hĩa trực tiếp 
các bản phân tích rủi ro thị trường bằng cách hạ thấp 1 cách giả tạo các khoản chi phí 
thế chấp những người hưởng lợi từ việc gia tăng các khoản vay thế chấp dưới chuẩn đả 
châm ngịi cho 1 cuộc khủng hoảng vỡ nợ. 
Một lý do tại sao Fannie Mae và Freddie Mac đã kiểm sốt phần lớn thị trường 
thế chấp là do họ cũng được sử dụng các khoản trợ cấp để mở rộng hoạt động. Năm 
1996, Văn phịng Ngân sách Quốc hội đã nghiên cứu cho thấy Fannie M ae và Freddie 
Mac đã nhận được khoảng 6.5 tỷ đơ la trợ cấp vào năm 1995. Cả hai đều giữ hơn 40% 
nguồn vốn này, thay vì sử dụng chúng để trợ cấp thế chấp. 
Khơng ngạc nhiên vì các cơng ty rất thích như vậy do lợi nhuận biên lớn vì chi 
phí vốn nhỏ. Trong năm, một cuộc khảo sát từ Cục Kho bạc Mỹ cũng khẳng định điều 
này. Fannie M ae. Và Freddie M ac khơng chỉ được hưởng lợi từ các khoản trợ cấp của 
chính phủ. Các tổ chức trong lĩnh vực tài chính nhận thức rõ ràng chính phủ liên bang 
chống lưng cho các tổ chức này và họ sẽ rất khơng hài lịng khi hai tổ chức này sụp đổ 
- giả thuyết đã được chứng minh vào ngày 07 tháng 9 năm 2008. 
Lợi nhuận thì tư nhân hĩa và xã hội tổn thất. Những lợi thế do các chính trị gia 
tạo ra cho Fannie M ae và Freddie M ac đã làm cho chúng phát triển nhanh chĩng và 
mở rộng ra các tổ chức tín dụng trên thị trường tự do. Tháng 7 năm 2008 tờ New York 
Times thơng tin rằng hai 2 tổ chức trên đã cấp hoặc cam kết tài trợ khoảng một nửa thị 
trường thế chấp, đại diện cho 12.000 tỷ đơ la M ỹ. 
Fannie Mae và Freddie Mac đã được nĩi đến đã làm gia tăng rủi ro trên thị 
trường thế chấp theo ba cách: 
 - Tiền thuế thơng qua kênh Fannie Mae và Freddie Mac để khuyến khích những 
khoản vay cĩ rủi ro cao. 
 - Mặc nhiên người ta ngầm hiểu rằng chính phủ sẽ đứng sau lưng để cứu Fannie 
Mae và Freddie Mac trong trường hợp cĩ khủng hoảng, chính vì vậy nĩ đã tiếp tục 
kích thích rủi ro của thị trường qua hành vi. 
13 
 - Các tổ chức tín dụng đã đơng đúc bởi Fannie M ae và Freddie Mac, do vai trị 
chi phối tạo ra những sai lầm chết người của họ 
Ngồi Fannie Mae và Freddie Mac, cĩ những ngân hàng cho vay nhà liên bang ở Hoa 
Kỳ. Chúng được tạo ra sau khi khủng hoảng, và cũng như Fannie Mae và Freddie 
Mac, họ là các tổ chức tín dụng được tài trợ bởi thuế. Các ngân hàng nhà liên bang cho 
các ngân hàng khác vay đổi lại, các ngân hàng cung cấp các khoản thế chấp cho các cá 
nhân. Họ sử dụng trợ cấp thuế để giảm chi phí thế chấp và như vậy cũng đã gĩp phần 
làm cho mở rộng tín dụng quá mức trên thị trường thế chấp Mỹ. 
Thị trường tài chính Mỹ cĩ quy định chặt chẽ, các quy định này đã gĩp phần 
trong việc tạo ra cuộc khủng hoảng hiện nay. Các quy định của Liên bang và nhà nước 
chỉ cho phép một vài tổ chức tồn tại để đánh giá các rủi ro liên quan đến các khoản vay 
trên thị trường. Thị trường độc quyền này được trang bị kém để đo lường rủi ro so với 
một thị trường tự do hơn cĩ nhiều thành viên tham gia. 
Đạo luật của Cộng đồng tái đầu tư được giới thiệu vào năm 1977 cũng đã châm 
ngịi những rủi ro xấu trong thị trường tín dụng. Chính quyền chịu trách nhiệm đánh 
giá số lượng các văn phịng chi nhánh của các ngân hàng trong các khu vực cĩ thu 
nhập thấp và cĩ bao nhiêu khoản vay được cấp ở đĩ. Nếu các khoản vay được cấp bị 
coi là quá ít, ngân hàng cĩ nguy cơ bị xử phạt. Đê tránh bị phạt các ngân hàng sẽ mở 
rộng các khoản tín dụng cho những người khơng ít cĩ khả năng chi trả cho các khoản 
vay. Năm 1995. chính quyền Clinton sửa đổi luật tái đầu tư Cộng đồng để gia tăng áp 
lực lên các ngân hàng cho vay cĩ rủi ro cao. 
Người ta cho rằng thị trường cĩ những rủi ro vì mặt trái của nĩ. Nhưng trong 
một thị trường với nhiều đối thủ cạnh tranh và khơng cĩ sự can thiệp của chính phủ, 
động cơ lợi nhuận sẽ khơng bao giờ cĩ dẫn đến việc cho vay ở những người khơng thể 
trả lại các khoản vay của họ. Hành vi chấp nhận rủi ro như vậy chỉ cĩ thể được thực 
hiện bởi chính quyền, với tiền của người khác - tiền thuế của dân. 
Các chuyên gia đã dự đốn chính sách tạo ra khủng hoảng như 
thế nào 
Phần lớn những chỉ trích trong những năm qua đã dự báo đối với những cuộc 
khủng hoảng tài chính do chính phủ bao cấp cho các cơng ty Fannie M ae và Freddie 
14 
Mac cĩ thể tạo ra. M ột ví dụ là cĩ một bài báo đã đăng trên tờ N ew York Times năm 
1999. Bài báo đã diễn tả những kế hoạch ban đầu nhằm sử dụng Fannie Mae và 
Freddie Mac để tạo ra sự dễ dàng cho vay thế chấp. “Bằng cách mở rộng các hình thức 
cho vay mà nĩ sẽ mua lại, Fannie Mae khuyến khích các ngân hàng cấp các khoản vay 
nhiều hơn đến với người dân với tiêu chuẩn tín dụng thấp”. Điều này, dẫn đến kỳ vọng 
đưa đến tăng đầu cơ mua nhà đối với những hộ dưới chuẩn và thu nhập thấp”, đáp lại 
việc thắt chặt từ chính quyến Clinton. 
Nhưng cũng cĩ sự ủng hộ cho các chính sách này từ bên trong khu vực tài 
chính tư nhân. Ngân hàng tư nhân thấy rằng khả năng của việc mở rộng thị phần của 
họ đối với những điều kiện tín dụng thấp. Khoản cho vay mà thơng thường cĩ thể quá 
rủi ro trở nên cĩ lợi nhuận một khi họ được tài trợ bởi tiền thuế và được cam kết tài trợ 
bởi các tổ chức được chính phủ bao cấp. Tuy nhiên, 9 năm qua nĩ đã nhận ra rằng 
chính sách xã hội như thế nguy hiểm như thế nào. Một bài báo tương tự lưu ý Fannie 
Mae trong vai trị mới đã tạo ra nhiều rủi ro hơn trong lĩnh vực tài chính như thế nào, 
mà cĩ thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng trong suy thối kinh tế 
Vào những năm của thập kỷ 80, thật là nguy hiểm khi chính phủ ra tay giải cứu 
các khu vực tài chính. Peter.J.Wallison của học viện tổ chức Mỹ và dự báo tài chính, 
cảnh báo người đọc:”nếu các định chế tài chính bị phá sản [do các khoản vay dưới 
chuẩn], chính phủ sẽ tham gia và giải cứu chúng”. Wallison tiếp tục phát triển quan 
điểm của mình về khủng hoảng mà ơng ta dự báo. Năm 2001, ơng ta biên tập 1 quyển 
sách về rất nhiều vấn đề tạo ra bởi Fannie Mae và Freddie Mac trong hệ thống tài 
chính M ỹ. Ba năm sau, ơng ta xuất bản một quyển sách cĩ tên là Tư nhân hố Fannie 
Mae và Fredie Mac và Ngân hàng cho vay mua nhà liên bang- Tại sao và như thế nào, 
đồng tác giả với Thomas A.Stanton và Bert Ely. 
Các tác giả đã rất rõ ràng trong những cảnh báo đối với đọc giả lưu ý đặc biệt 
Fannie Mae và Freddie Mac, nhưng ngân hàng cho vay mua nhà liên bang đã lơ đi một 
khủng hoảng trong tương lai: “Chính phủ đã hỗ trợ các cơng ty trong phân phối thị 
trường nhà ở rất ít để chất lượng của hệ thống tài chính M ỹ, nhưng tạo ra rủi ro cho 
những người nộp thuế và nền kinh tế khi cả một hệ thống khơng thể giải quyết bởi quy 
định” 
15 
Được chú ý bởi nhà kinh tế Thomas Sowel, N.Gregory M ankiw (Chủ tịch hội 
đồng tư vấn kinh tế của Tổng thống Mỹ) cảnh báo trong năm 2004 khu vực tài chính 
mong chính phủ giải cứu các định chế tài chính trong trường hợp cĩ khủng hoảng. 
Mankiw nhận ra rằng điều này tạo ra “thúc đẩy cho các cơng ty chấp nhận rủi ro tương 
ứng với gia tăng trong doanh thu”. Cùng lúc đĩ, giá của những rủi ro trên giảm xuống, 
khi chính phủ sử dụng tiền của những người nộp thuế điều tiết sang. 
Trong số những nhà chỉ trích cĩ Alan Greenspan, sau đĩ là Chủ tịch của Cục dự 
trữ liên bang Mỹ. Trả lời chất vấn trước Hội đồng thượng nghị viện về ngân hàng, Nhà 
đất và các vấn đề liên quan vào tháng 4/2005, ơng ta đưa ra những dự báo rõ ràng về 
việc các chính sách xã hội thơng qua các tổ chức cho vay cĩ thể dẫn tới 1 tương lai 
khủng hoảng. Greenspan lưu ý rằng:”các nhà đầu tư cĩ thể đi đến nhận định rằng 
chính phủ sẽ khơng để các cơng ty cổ phần lớn sụp đổ”. Đã dẫn đến định giá hơn giá 
trị của tài sản đảm bảo và đáng chú ý là tỷ lệ thế chấp tài sản thấp hơn trên thị trừơng 
tự do. 
Greenspan cũng lưu ý rằng chính phủ chống lưng cho Fannie Mae và Fredie 
Mac là lý do quan trọng giải thích tại sao họ đã giữ vai trị quan trọng của thị trường 
thế chấp. Đĩ là chính phủ liên bang đã cho phép họ mở rộng thị phần của thị trường 
thế chấp hộ gia đình từ 5,6% từ năm 1990 đến 23% trong năm 2003. Trong phần trình 
bày của mình, Greespan giải thích cơ chế cĩ thể dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính. 
Trong một thị trường mà những người chủ nợ và các nhà đầu tư tin rằng người vay nợ 
ở vị trí cĩ điểm tựa. Tuy nhiên, hành động của Fannie Mae và Fredie M ac đã làm vơ 
hiệu cơ chế thị trường. 
“Quy chế GSEs về khía cạnh thị trường đã làm cho các cơng ty được bao cấp 
trở nên yếu khơng thể tồn tại được. Bởi vì trên thị trường các cơng ty tương tự như 
GSEs giao dịch định giá rủi ro hầu hết dựa trên nhận định của GSE, đặc biệt trong mối 
quan hệ với chính phủ hơn là cái làm được của các định chế, các nhà làm luật khơng 
thể trơng cậy vào quy luật của thị trường đối với các rủi ro hệ thống”. 
Khi Fannie Mae và Fredie Mac cịn ở quy mơ nhỏ, rủi ro chúng cĩ thể gây ra 
cho hệ thống tài chính là giới hạn. Từ khi trở thành các định chế tài chính, nhờ tiền của 
những người nộp thuế, ngày càng lớn, nĩ địi hỏi “sự tăng trưởng theo bề rộng” theo 
cách mà chính phủ bao cấp cho vay, các định chế được chính phủ điều tiết, và bị kiểm 
16 
sốt vai trị trên thị trường. Greenspand cảnh báo tình huống đĩ tồn tại cĩ thể “đe dọa 
sự ổn định của Thị trường tài chính” và cũng cắt nghĩa Fannie Mae và Freddie Mac 
tạo ra sự tiện lợi cho thị trường thế chấp thơng qua hoạt động cho vay của họ là quá 
mức so với thơng thường 
Cuối cùng ơng ta lưu ý rằng việc chủ tịch của Freddie Mac trong năm 1989 tuyên bố 
trước quốc hội Mỹ rằng cĩ sự bảo hiểm rủi ro các hoạt động của cơng ty trước khi nĩ 
phát triển rộng ra. Sự thay đổi này sau năm 1989 khi các cơng ty bị kiểm sốt bởi sự sở 
hữu của cổ đơng tư nhân, những người sử dụng mối quan hệ gần gũi với chính phủ để 
mở rộng hoạt động của họ. 
Cĩ lẽ sự phê phán mạnh mẽ nhất, đối với các chính sách gây ra khủng hoảng và 
chính sách tài chính (mà Greenspan chịu trách nhiệm lớn) khuyến khích dẫn đến gian 
lận cho vay từ các nhà quan sát một thị trường thân thiện. Tổng thống tiền nhiệm ứng 
cử Ron Paul và nhĩm cố vấn thị trường tự do như Viện Cato và Viện Mises đã chỉ 
trích mạnh mẽ hành động của Đảng dân chủ cũng như Đảng Cộng hịa thời gian gần 
đây. 
Trong năm 2005, LewRockwell.com (là một trong những webzines nổi tiếng 
với những hồ sơ cơng bố độc lập và liên kết chặt chẽ với viện M ises) đã cơng bố bài 
diễn văn của Ron Paul trước Quốc hội Hoa kỳ, nơi ơng cảnh bảo cuộc khủng hoảng 
sắp tới. 
“Tơi hy vọng rằng các đồng nghiệp của tơi cùng tơi bảo vệ những người nộp thuế từ 
việc phải giải cứu Fannie Mae và Fredie Mac khi bong bĩng cho vay mua nhà sụp 
đổ” 
Các phê bình gay gắt cũng nhắm vào chính quyền Tổng thống Bush và cả hai đảng 
Dân chủ và Cộng hịa, các thành viên của Quốc hội về việc đã quá hào phĩng trong chi 
tiêu tiền đĩng thuế của người dân. 
Vậy thì, trước khi cuộc khủng hoảng lan rộng, Chủ tịch Cục dự trữ liên bang 
Mỹ, cố vấn kinh tế của Tổng thống và một chuyên gia trên thị trường thế chấp phải 
đánh giá 1 cách cẩn thận tại sao chính sách chính phủ cĩ thể dẫn đến 1 cuộc khủng 
hoảng tài chính và xác định sự kết hợp như thế nào đã mở đường cho lợi nhuận tư 
nhân và tổn thất xã hội.Trên thực tế, một sự thay đổi chính trị sẽ tác động hồn tồn 
17 
lên những vấn đề được tạo ra bởi một chính sách tiền tệ trợ cấp cho vay kết hợp với sự 
can thiệp của chính phủ. 
Các chính trị gia sẽ tiến hành các cải cách cần thiết nhưng tất cả đã hồn hảo. 
Nhưng các nhà chính trị đã bỏ qua những cảnh báo 
Trong Nhà trắng, đã sớm cĩ những sự thấu hiểu rằng cách hành xử của Fannie 
Mae và Freddie M ac sẽ đưa đến khủng hoảng lớn. M ột bài báo trên tờ N ew York Post 
chỉ ra rằng tiền cơ sở năm 2002 mà chính phủ tài trợ cho vay các tổ chức đã lớn đến 
mức những vấn đề tài chính của chúng cĩ thể sinh ra những khĩ khăn to lớn cho tồn 
bộ khu vực tài chính. 
Trong năm 2003 chính quyền Bush đã cố gắng thuyết phục Quốc hội tạo quyền 
giám sát và điều tiết Fannie M ae và Freddie Mac. Kế hoạch đưa ra nhằm kiểm sốt 
chặt chẽ hơn các tổ chức tín dụng. Nhưng thuế tài chính của các tổ chức này cĩ thể giữ 
lại, như một sự bảo đảm ngầm rằng chính phủ cĩ thể can thiệp vào nếu các tổ chức 
gặp vấn đề. 
Tuy nhiên, Barney Frank, sau đĩ là Democrat, chủ tịch của Hội đồng Tài chính 
Quốc gia đã phản đối những sáng kiến này. Frank tin rằng tình hình tài chính của 
Fannie Mae và Freddie Mac cơ bản là đảm bảo và bày tỏ rằng ơng ta khơng thể thấy 
một dấu hiệu mất kiểm sốt nghiêm trọng nào. “Hai thực thể - Fannie M ae và Freddie 
Mac – khơng đối diện với bất kỳ khủng hoảng tài chính nào”. Frank giải thích. Hơn 
nữa ơng ta biện dẫn: 
“Càng nhiều người thổi phồng những vấn đề này, càng nhiều sức ép lên các cơng ty 
này, tài trợ mua nhà ở mức độ nhỏ hơn chúng ta thấy” 
Frank đã nhận được sự ủng hộ từ Rep.Melvin L.Watt (D), người đã tuyên bố: 
“Tơi khơng thấy gì hơn là một ván bài đang tiến hành ở đây, di chuyển từ trung gian 
này sang trung gian khác và đang trong quá trình suy yếu quyền lực mặc cả của 
những gia đình nghèo và khả năng nhận được tài trợ mua nhà.” 
Chín năm qua, cĩ những dấu hiệu cảnh báo rõ ràng khủng hoảng đang đến, 
nhưng các phương pháp đo lường được đưa ra bởi chính quyền Bush để hạn chế sự tàn 
phá của chính sách được đưa qua kênh Fannie Mae và Freddie Mac đã bị giới hạn 
trong việc tạo ra một quyền lực điều tiết mới. 
18 
Sau đĩ giải pháp khơng cơ bản vấn đề bơm tài trợ vào thị trường thế chấp đang 
gia tăng sự liều lĩnh 1 cách nguy hiểm, thêm vào việc chính phủ là người bảo lãnh cho 
Fannie Mae và Freddie Mac càng thúc đẩy cho vay cĩ rủi ro tăng. Ngay cả một nỗ lực 
nhỏ để điều tiết cũng đã bị ngưng lại bởi Quốc hội khi nĩ gặp phải sự phản đổi của xã 
hội vì những hộ gia đình cĩ thu nhập thấp mua nhà dễ dàng hơn. 
Một lý do quan trọng nữa giải thích tại sao Fannie Mae và Freddie Mac cĩ thể 
tiếp tục làm bất kể rủi ro là sự can thiệp của chính phủ làm gia tăng những rủi ro trên 
thị trường thế chấp, những rủi ro này khơng hồn tồn là do các chính trị gia tại thời 
điểm nền kinh tế Mỹ đang phát triển 1 cách nhanh chĩng. 
Tuy nhiên Greenspan, chủ tịch của Fed, được Đảng Dân chủ và Đảng Cộng 
Hịa đánh giá là một nhà kinh tế xuất sắc, ngay cả khi những nhận xét của ơng bị thờ ơ. 
Khi nền kinh tế đang vận hành tốt, các nhà chính trị quan tâm nhiều hơn việc đạt được 
những mục tiêu chính sách xã hội trong ngắn hạn hơn là ngăn ngừa một cuộc khủng 
hoảng tiềm tàng. 
Cũng cĩ thể do sự thiếu hiểu biết tầm quan trọng của việc khơng vận dụng định 
lượng các biến rủi ro thị trường, đặc biệt khi cĩ bàn tay tác động của chính phủ làm gia 
tăng mạnh mẽ rủi ro. 
Cuối cùng, một giải thích quan trọng, đĩ là Fannie Mea và Freddie Mac là 
những tổ chức đã chi tiêu đáng kể ảnh hưởng đến các quyết định của chính trường Mỹ 
- ví dụ những tổ chức này đã dẫn đầu trong quyên gĩp cho chiến dịch tranh cử của 
Obama – điều đĩ cĩ thể giúp giải thích rằng họ cĩ khả năng tăng trưởng bằng những 
chính sách đặc biệt và trợ cấp thuế. 
Vì vậy việc chính quyền Bush cố gắng kiểm sốt Fannie Mac và Freddie Mac 
trong năm 2003 bằng những bằng chứng khơng được làm sáng tỏ là bằng chứng của 
rủi ro cĩ thể nhìn thấy trước. Đề xuất cải cách khơng cĩ sức mạnh hiệu quả và bản 
thân Bush cũng thơng qua kênh chính sách xã hội để thực hiện sự can thiệp của chính 
phủ vào thị trường thế chấp. Trong bài diễn văn cĩ giá trị vào mùa hè năm 2002, Bush 
tuyên bố: 
“Chúng ta cần hơn 5.5 triệu nhà được sở hữu đến năm 2010- triệu là tối thiểu số nhà 
sở hữu đến 2010. (...)Nĩ sắp đạt mức trung bình nhưng chúng ta phải cố gắng để đạt 
19 
được mục tiêu, tất cả chúng ta. Và bằng tất cả chúng ta, tơi muốn nĩi khơng chỉ là 
chính phủ liên bang mà khu vực tư cũng vậy” 26 
Khủng hoảng lan rộng, với sự tiếp tay của thị trường tài chính thế giới, từ khu 
vực thế chấp nhà của M ỹ đến nhiều tổ chức tài chính khác. Bao gồm các chính phủ 
trên thế giới cũng tiếp tay tạo ra khủng hoảng. Nền kinh tế khổng lồ Trung Quốc với 
thặng dư mậu dịch đã mang đến cho chính phủ quỹ dự trữ dồi dào. Sau đĩ, họ đầu tư 
vào các cơng cụ tài chính Mỹ, đẩy mức cho vay lên cao và thổi phồng bong bĩng. 
Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đề xuất vào ngày 21 tháng 10 rằng Châu Âu 
nên tạo ra nguồn dự trữ dồi dào. Theo đĩ, chính phủ các nước Châu Âu nên mua các 
cơng ty để tránh sự sở hữu của nước ngồi. Tác hại của sở hữu nước ngồi vẫn cịn 
khơng rõ ràng. Nhưng điểm chính là mối bận tâm của chính phủ - như là quỹ dự trữ 
dồi dào – gĩp phần tạo ra khủng hoảng, điều đĩ cĩ nghĩa là địi hỏi cao hơn cũng 
khơng phải là giải pháp. Trước khi thiết lập ra con đường bảo hộ các ngành cơng 
nghiệp trong nước, nên nhớ chính xác là những loại chính sách này tạo ra 1 cuộc suy 
thối trong những năm 30 như thế nào. Và trước khi đưa ra chính sách quốc gia đĩ nên 
bắt đầu cạnh tranh từ các cơng ty xã hội hĩa, một điều nên nhớ là các ơng chủ tư nhân 
chịu thử thách tốt hơn trong điều hành cơng ty hơn là chính phủ. 
Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. 
Nhiều người cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay là kết quả của tự do 
kinh tế . Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã nĩi ví von rằng cuộc khủng hoảng này 
xuất phát việc các nền kinh tế thế giới khơng được điều tiết hiệu quả, và thời kỳ này sẽ 
chấm dứt ngay. 
Nhiều nhà quan sát đã khẳng định rằng sau cuộc khủng hoảng này chúng ta nên 
đưa ra nhiều quy định hơn, tăng sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, tăng thuế 
và từ bỏ ý tưởng thị trường tự do. 
Theo biên tập Aftonbladet của tờ nhật báo lớn nhất ở Scandinavia, cuộc khủng 
hoảng tài chính hồn tồn cĩ thể đổ lỗi cho sự tự do kinh tế, và chỉ ra rằng thị trường 
tự do cơ bản là khơng bền vững. Bài báo trích dẫn tác phẩm "Khủng hoảng tài chính 
của chủ nghĩa Marx" đã chứng minh quan điểm của hệ tư tưởng đối lập trong việc giải 
thích cuộc khủng hoảng. 
20 
Thực tế là cuộc khủng hoảng ở M ỹ là kết quả của sự can thiệp quá sâu của 
chính phủ vào các mục tiêu chính sách xã hội mà phần lớn các chính sách này khơng 
được thảo luận bởi những người coi nĩ như là một bằng chứng của sự sụp đổ chủ 
nghĩa tư bản. Hơn nữa, cơn khủng hoảng này được coi là hậu quả của lịng tham: mọi 
thứ ở Mỹ từ chính sách chăm sĩc y tế, giáo dục cho đến mức thuế bị cáo buộc là quá 
tự do. 
Chuyên gia Peter J. Wallison - người mà trong năm 1999 đã nhìn thấy trước 
được sự can thiệp của chính phủ vào thị trường thế chấp bất động sản cĩ thể gây ra 
một cuộc khủng hoảng trong tương lai, đồn thời viết hai cuốn sách về rủi ro mà đại 
diện là những hoạt động của Fannie Mae và Freddie Mac - trao đổi ý kiến với một 
đồng nghiệp rằng hồn tồn là phi lý khi đổ lỗi cuộc khủng hoảng là do thiếu các quy 
định. 
Trong ba thập kỷ qua đã cĩ sự bãi bỏ các quy định quan trọng của nền kinh tế 
Mỹ, nhưng khơng phải trong lĩnh vực tài chính: 
"Hầu như mọi điều luật về tài chính, chẳng hạn như Cơ quan bảo hiểm tiền gửi liên 
bang, Đạo luật Cải cách 1991 - được thơng qua sau vụ sụp đổ tiền tiết kiệm và cho vay 
ở cuối thập niên 1980 - đã thắt chặt đáng kể các quy định của ngân hàng ". 
Nhà bình luận tự do Johan Norberg hỏi trên tờ Swedish daily Expressen: 
"Chúng ta khơng nên bắt đầu một cuộc nghiên cứu hàng chục ngàn trang các quy định 
đã tồn tại và những thứ mà 12.190 người đã dành tất cả thời gian chỉ để điều chỉnh thị 
trường tài chính ở mức độ liên bang và những gì họ đã làm gì khi xảy ra khủng 
hoảng? Và rồi chúng ta sẽ thấy rằng họ đã làm thổi phồng quả bong bĩng, ít nhất thì 
cũng hăm hở như những người khác. Cái khác biệt duy nhất là họ đã cĩ một “cái bơm” 
lớn hơn". 
Ngay cả trong thời gian trước cuộc khủng hoảng tài chính, các quy định và sự 
can thiệp của Chính phủ được coi như là bằng chứng cho sự thất bại của chủ nghĩa tư 
bản. Milton Friedman - người đoạt giải thưởng Nobel - đã giải thích trong một cuốn 
sách đồng tác giả với Anna J. Schwartz: bằng cách tạo ra giảm phát thơng qua chính 
sách tiền tệ, kinh tế đi xuống đã trở thành một cuộc suy thối kinh tế tồn cầu. 
21 
Cuộc khủng hoảng tài chính Thụy Điển trong những năm 1990 cho thấy một số 
điểm tương đồng với cái mà Hoa Kỳ vấp phải ngày nay. Lãi suất thấp, cĩ nghĩa là các 
khoản vay đã được trợ cấp bởi chính phủ. Nhiều người Thụy Điển đã sẵn lịng ký kết 
cả những khoản vay rủi ro cao để mua nhà ở, so với hàng hố khác. Khi cuộc khủng 
hoảng lãi suất thực xảy ra, giá bất động sản giảm mạnh và quả bĩng nhà đất vỡ 
tung. Vì vậy, tín dụng ngân hàng nhanh chĩng sụt giảm, và cuộc khủng hoảng xảy ra 
sau đĩ. Việc kết hợp một chế độ tỷ giá cố định và chính sách kinh tế lạm phát dài hạn, 
đã dẫn đến suy thối kinh tế trầm trọng. 
Mặc dù cuộc khủng hoảng ở M ỹ phần lớn là do sự can thiệp của chính phủ và 
các quy định, nhưng cĩ nhiều cơng cụ hiện được xem như là phương thuốc cứu 
chữa. M ột chính sách kiến thiết hơn phải bị loại bỏ, hoặc chí ít là hạn chế, cách thức 
mà Chính phủ liên bang Mỹ đã lạm dụng các tổ chức tín dụng cho chính sách xã hội 
thơng qua các thị trường thế chấp, qua đĩ kích động cuộc khủng hoảng. Với cùng một 
đặc điểm, các quy định buộc các ngân hàng cấp khoản vay rủi ro cao trong một số 
trường hợp nên được sửa đổi hoặc thực sự loại bỏ. Bài học cho thấy sẽ rất nguy hiểm 
khi thúc đẩy một chính sách mà qua đĩ tiền thuế và các quy định được sử dụng để 
khuyến khích các ngân hàng cấp các khoản vay mà nếu cĩ thể họ sẽ khơng cấp. 
Thị trường Tài chính tự do là nhân tố quyết định tạo ra sự giàu 
cĩ. 
Khơng giống như những gì giới truyền thơng và một số nhà bình luận đã nĩi, 
thị trường tài chính thế giới đượt điều tiết theo những cách khác nhau. Các cơ quan 
Chính phủ cung cấp thị trường đầu vào và đầu ra cho các tổ chức tài chính, giám sát 
hành động của họ, tác động thị trường tín dụng và quản lý dịng tiền tệ. Trên cấp độ 
quốc tế, một loạt các tổ chức điều tiết thị trường tài chính như: IMF, Ngân hàng thế 
giới và Ngân hàng thanh tốn quốc tế. 
Một số quy định và các hình thức can thiệp của chính phủ vào thị trường tài 
chính nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro xảy ra, nhưng ngược lại (chẳng hạn như cuộc 
khủng hoảng thế chấp Mỹ) cĩ xu hướng gia tăng rủi ro. 
22 
Trong thời gian khủng hoảng thì rất dễ dàng để địi hỏi nhiều điều luật hơn. Tuy 
nhiên, rất ít người am hiểu cuộc khủng hoảng thế chấp Mỹ sẽ đồng ý với sự sáng suốt 
trong việc ép buộc các ngân hàng bằng sắc lệnh để cho các hộ gia đình thu nhập thấp 
với mức đánh giá tín dụng thấp vay tiền, hoặc bằng trợ cấp các khoản vay rủi ro cao 
thơng qua lãi suất hoặc các tổ chức tín dụng được chính phủ hậu thuẫn. Ngược lại, 
ngày nay các quy định hạn chế rủi ro của thị trường tài chính dường như một giải pháp 
hấp dẫn đối với nhiều người. 
Tuy nhiên, vì một số lý do, chúng ta cần phải thận trọng hơn về việc kiểm sốt 
quá đà thị trường tài chính. Về bản chất thì thị trường tự do là nền tảng tạo ra sự thịnh 
vượng trên tồn thế giới. Các thị trường tài chính tự do tương đối đã đĩng một vai trị 
quyết định trong việc tạo ra khả năng phát triển kinh tế trên tồn thế giới. Các nghiên 
cứu đã xác minh mối liên kết giữa mức độ cạnh tranh và tình trạng mở cửa trong khu 
vực tài chính với sự tăng trưởng kinh tế của một nước cụ thể, mà cũng được củng cố 
bởi hiệu quả tồn cầu hĩa trong khu vực tài chính. 
Trong những năm gần đây, khi thị trường tự do đã lan sang các nước xã hội chủ 
nghĩa trước đây của Đơng Âu, cũng như Trung Quốc, Việt Nam và Ấn Độ, thì thị 
trường tài chính đã cĩ một vai trị quyết định kéo hàng trăm triệu người dân thốt khỏi 
đĩi nghèo. Khi thị trường bị điều chỉnh, họ cĩ xu hướng làm việc kém hơn, bài học mà 
cuộc khủng hoảng Hoa Kỳ cho thấy rõ ràng. Làm cho thị trường khơng cĩ rủi ro nghĩa 
là lấy đi năng lực tạo ra của cải của họ. 
Nếu khơng cĩ sự bãi bỏ quy định của thị trường tài chính được trong những 
năm 1980, chúng ta sẽ khơng được hưởng lợi từ đặc trưng rõ ràng của tồn cầu hĩa: 
mức tăng trưởng kinh tế cao và đi kèm với xố đĩi giảm nghèo trên thế giới. Thị 
trường tài chính càng tự do thì khả năng đầu tư vào các nước nghèo càng nhiều. 
 Khu vực tư nhân cĩ xu hướng tìm ra cách thức và phương tiện để phá vỡ các 
quy định, làm cho mục đích ban đầu của chúng bị vơ hiệu. Đồng thời, dịng vốn lưu 
chuyển giữa các quốc gia nhưng cĩ xu hướng tránh xa các quốc gia cĩ quy định 
nghiêm ngặt. Xu hướng này minh họa rõ ràng rằng các nhà đầu tư thường coi việc gia 
tăng quy định của thị trường tài chính sẽ làm tổn hại việc đầu tư dài hạn; mặt khác, 
vốn đầu tư sẽ tìm cách len vào những thị trường tài chính ít quy định hơn. 
23 
 Đối với các chính trị gia, chi phí giới thiệu các điều luật bổ sung là khá 
thấp. Trong ngắn hạn, những nhà làm luật cĩ thể giành được sự ủng hộ của cử tri bằng 
"hành động" thơng qua gia tăng sự điều tiết của chính phủ vào thị trường tài chính. Tác 
động thực tế của quy định chỉ thấy được trong tương lai xa, và kinh nghiệm cho chúng 
ta biết tài chính - như các thị trường khác – được phát triển tốt nhất khi nĩ vẫn được tự 
do. 
Chính vì vậy, khơng phải lúc nào lợi ích cơng cũng là tâm điểm của quá trình ra 
quyết định mang tính chính trị. Nhiều ví dụ chứng minh cho điều này đã được đề cập 
đến trong phạm vi lý thuyết của Lựa chọn cơng tại trường kinh tế. Tại các thị trường 
phức tạp, các chính trị gia và những quan chức nhà nước khơng thể thường xuyên xác 
định được yếu tố lợi ích cơng cũng như việc yếu tố này được ủng hộ như thế nào. Cục 
dự trữ liên bang M ỹ đã duy trì lãi suất ở mức rất thấp, do đĩ đã hỗ trợ được các khoản 
cho vay cũng như gĩp phần hạ nhiệt nền kinh tế. Điều này giải thích rằng một chính 
sách mà các nhà cơng chức tưởng là hợp lý nhưng đã tạo ra một cơn khủng hoảng 
nghiêm trọng. 
Trên thực tế, chính sách điều tiết khơng chỉ đơn thuần được thực hiện trên cơ sở 
hợp lý. Các chính trị gia và cơng chức chịu trách nhiệm đề ra các nguyên tắc đều bị 
ảnh hưởng bởi lợi ích riêng và tư tưởng sở thích của họ. Một mục đích phía sau các 
luật lệ và sự can thiệp cơng trong nền kinh tế là nhằm gia tăng quyền lực cho các chính 
trị gia cũng như các nhà chức trách; một lý do khác là để đáp ứng tham vọng của các 
tổ chức vận động hành lang quy mơ lớn. Đĩ là một yếu tố ấn định thị trường hoạt động 
như trên thực tế, đi ngược lại các điều luật mà chính phủ cho là hồn hảo trên lý 
thuyết. Cĩ một yếu tố khác để cân nhắc xem hệ thống quản lý mang tính chính trị thực 
sự cĩ xu hướng hoạt động như thế nào. 
Các thị trường đều khơng hồn hảo, và hiện tượng nĩng bỏng của thị trường đơi 
khi cĩ thể xảy ra, và cũng giống như trong vài trường hợp các nhà đầu tư cĩ thể quá 
thận trọng trong việc đầu tư vốn của mình. Tuy nhiên, điều này khơng cĩ nghĩa rằng 
các chính trị gia nên can thiệp để cải thiện thị trường vì quá trình quản lý mang tính 
chính trị thường sử dụng các thơng tin tệ hơn và dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng 
hơn là việc quản lý dựa trện cơ sở thị trường. Luơn luơn cĩ những biến động trên thị 
trường tự do, nhưng sự can thiệp chính trị sẽ tạo ra cuộc khủng hoảng lớn. 
24 
Các chính trị gia rõ ràng cĩ vai trị nhất định trong khu vực tài chính thơng qua 
việc duy trì hệ thống tiền tệ theo đúng chức năng của nĩ, tạo ra các hệ thống giao dịch 
điện tử qua đĩ các giao dịch được thực hiện, điều tiết sự tuân thủ theo hợp đồng, 
Khi cuộc khủng hoảng diễn ra, cĩ nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề này với màu sắc 
chính trị - bởi vì những thất bại trên thị trường tài chính cĩ thể làm cho tồn bộ nền 
kinh tế ngừng trệ. Nhưng cũng vào thời điểm đĩ, luơn tồn tại rủi ro: khu vực tài chính 
nhận ra thực tế rằng chính phủ sẽ cung cấp một gĩi cứu trợ cho cuộc khủng hoảng tiếp 
theo và do đĩ tiếp tục phĩng đại hành động rủi ro của nĩ. 
Việc phân tích gắn liền với hệ thống pháp chế tương ứng áp dụng cho thị 
trường tài chính rất phức tạp, nhưng sẽ là bất hợp lý nếu như bắt đầu với một tầm nhìn 
sai lầm của thế giới rằng – bỏ qua thực tế là nước Mỹ đã thực sự cĩ thị trường tài 
chính được điều tiết một cách chặt chẽ, và rằng hệ thống pháp chế cũng như sự can 
thiệp của chính phủ đã châm ngịi cho cuộc khủng hoảng hiện nay – và vì vậy họ kêu 
gọi thêm nữa những hệ thống pháp chế cũng như sự can thiệp của chính phủ để giải 
quyết vấn đề này. 
Xét một cách tổng thể, tại nước M ỹ cũng như các nước khác và trên tồn thế 
giới đều cĩ lý do để phát triển theo chiều hướng trở thành thị trường tự do hơn, nhằm 
gia tăng quá trình tạo ra của cải cũng như để tránh được những cuộc khủng hoảng xảy 
ra do cĩ sự can thiệp chính trị. 
Mỹ đang lê bước trên con đường cải cách 
Một lý do giải thích tại sao các cuộc khủng hoảng tài chính cĩ nguồn gốc từ 
nước M ỹ nhìn từ bề ngồi lại cĩ thể được hiểu như cuộc khủng hoảng của nền kinh tế 
tự do là đất nước này yêu chuộng sự tự do về kinh tế ở mức độ cao. Rất đúng khi Mỹ 
đã gán cho chỉ số về sự tự do của nền kinh tế một vị trí rất quan trọng xét theo các chỉ 
số tổng hợp khác nhau. Điều này nĩi lên rằng cĩ những phần của nền kinh tế Mỹ 
khơng cĩ sự tự do. Xét theo yếu tố thị trưởng tài chính, sự tự do của nền kinh tế của 
Mỹ cũng giống như sự tự do của nền kinh tế của nhiều nước châu Âu. 
Sự tự do của nền kinh tế liên tiếp gia tăng trên thế giới trong vịng 20 năm qua. 
Khơng phải ở bất cứ quốc gia nào cũng cĩ được yếu tố này và cĩ sự cải thiện của yếu 
tố này, và khơng phải lúc nào yếu tố này cũng ổn định. M ặc dù vậy, xu hướng này là 
rất rõ ràng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Mỹ đã trì trệ và thâm chí đã cĩ 
những thời điểm Mỹ mất đi sự tự do của thị trường do luật mới ảnh hưởng đến nền 
25 
cơng nghiệp như Sarbanes-Oxley, cũng như việc tăng chi tiêu cơng.Trái lại, châu Âu 
lại hưởng thị sự tự do ngày càng lớn của nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng vì vậy đã hiện 
diện ở nước M ỹ tại các thị trường tài chính cĩ sự điều tiết và trong những năm gần đây 
cuộc khủng hoảng này đã làm giảm đi tính tự do của nền kinh tế. Vì vây, sẽ khơng hợp 
lý lắm khi giả định rằng sự phá vỡ các nguyên tắc, luật lệ trên diện rộng là nguyên 
nhân gây ra khủng hoảng. 
Cuộc khủng hoảng của M ỹ đã được kiểm sốt như thế nào và các điều kiện giúp 
tăng trưởng trong tương lai cho đất nước đã phát triển như thế nào là các yếu tố mang 
tính quyết định cho châu Âu và cơng dân của họ. Mỹ khơng chỉ là đối tác thương mại 
quan trọng nhất của chúng ta mà cịn là nước xuất khẩu cĩ tầm cỡ các ý tưởng và 
những cải tiến mang tính cách mạng. Chiếm ưu thế trong những cuộc bàn luận về Mỹ 
hiện nay là những lời buộc tội dành cho sự hám lợi và những yêu sách ở đĩ sự phá vỡ 
các luật lệ đã gây ra cuộc khủng hoảng, ở đĩ phố Walll đã thực sự hủy hoại phố hệ 
thống tài chính của Mỹ. Điều này cĩ ảnh hưởng tới hệ thống chính trị trước những 
cuộc bầu cử sắp tới. Vì vậy, rất cĩ thể chính quyền mới của Washington DC sẽ tiếp 
tiếp giảm bớt sự tự do của nền kinh tế ở nước Mỹ. 
Sự sụt giảm hiện nay của các thị trường chứng khốn của M ỹ cần phải được 
xem xét trong mối tương quan với sự tăng trưởng mạnh mẽ của các thị trường tài 
chính diễn ra trong những năm gần đây. Tổng lượng tiền tiết kiệm và tài sản của các tổ 
chức phi chính phủ cũng như của các hộ gia đình trừ đi số nợ của nền kinh tế Mỹ trong 
quý 2 đã lên đến con số gần 56 nghìn tỷ đơ. Con số này tương ứng với khoảng 190 
nghìn đơ (tương đương 1.3 triệu curon Thụy Điển) trên một đầu người. Từ năm 2002 
đến 2007, tiền tiết kiệm và giá trị tài sản đã gia tăng gần 50%. Lượng gia tăng này cĩ 
thể so sánh với khoảng 700 tỷ đơ, giá trị bằng chính gĩi cứu trợ mà chính phủ Mỹ đã 
quyết định tung ra để giải cứu nền kinh tế thốt khỏi khủng hoảng. 700 tỷ đơ tất nhiên 
là một số tiền khơng nhỏ nhưng khá quan trọng phải nhớ rằng việc gia tăng của cải 
trong những năm gần đây và sự gia tăng trong hầu hết các lĩnh vực khác cần phải được 
duy trì sau cuộc khủng hoảng hiện tại. 
Nền kinh tế M ỹ liên tục tận hưởng những sự gia tăng về năng suất

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_khung_hoang_tai_chinh.pdf