Tiểu luận Những cơ sở lý luận chung về nội dung của quy luật lượng, chất. Ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức quy luật này, sự vận dụng quy luật này để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

pdf 12 trang yenvu 13/10/2024 510
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Những cơ sở lý luận chung về nội dung của quy luật lượng, chất. Ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức quy luật này, sự vận dụng quy luật này để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Những cơ sở lý luận chung về nội dung của quy luật lượng, chất. Ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức quy luật này, sự vận dụng quy luật này để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Tiểu luận Những cơ sở lý luận chung về nội dung của quy luật lượng, chất. Ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức quy luật này, sự vận dụng quy luật này để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
TIỂU LUẬN: 
Những cơ sở lý luận chung về nội dung của 
quy luật lượng- chất, ý nghĩa thực tiễn của 
việc nhận thức quy luật này, sự vận dụng 
quy luật này để phát triển kinh tế thị 
trường định hướng XHCN ở Việt nam 
Mở đầu 
Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con 
người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của các hiện 
tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”. Với tư cách là phạm trù của lý luận 
nhận thức, khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học, phản ánh sự liên hệ 
của các sự vật và tính chỉnh thể của chúng. 
Các quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con người đều mang 
tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc tự ý xoá bó được quy luật mà chỉ 
nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn. 
Quy luật “từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại” 
là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự 
vận động, phát triển. Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt 
động thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng. Nếu nhận thức không đúng 
quy luật này sẽ dẫn đến tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận sự 
tích luỹ về lượng, muốn có ngay sự thay đổi về chất, còn hữu khuynh là khi chất đã 
biến đổi vượt quá giới hạn độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất. 
Nước ta đang quá độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển của CNTB, việc nhận 
thức đúng đắn quy luật lượng- chất sẽ có ý nghĩa rất lớn trong quá trình hình thành và 
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. 
Trong phạm vi của tiểu luận này, tôi xin được trình bày : Những cơ sở lý luận 
chung về nội dung của quy luật lượng- chất, ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức 
quy luật này, sự vận dụng quy luật này để phát triển kinh tế thị trường định hướng 
XHCN ở Việt nam. 
"Phân tích nội dung qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi 
về chất và ngược lại.Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn 
của anh chị vào trong hoạt động thực tiễn" 
Kết cấu của tiểu luận gồm 3 phần: 
Phần mở đầu 
Phần I: Những vấn đề lý luận của quy luật, từ những thay đổi về lượng dẫn đến 
sự thay đổi về chất và ngược lại. 
Phần II: Vận dụng vào quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường định 
hướng XHCN ở Việt nam. 
Phần Kết luận. 
Phần I 
Những vấn đề lý luận của quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay 
đổi về chất và ngược lại 
Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là một 
trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ rõ tính 
chất và cách thức của sự phát triển. 
1- Các khái niệm 
1.1- Khái niệm về chất 
Chất là tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng được biểu hiện thông qua các 
thuộc tính và đặc điểm cấu trúc của sự vật. Tính quy định là cái vốn có của sự vật, 
hiện tượng để phân biệt sự vật này với sự vật khác. Tính quy định này được thể hiện 
thông qua các thuộc tính. Có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Thuộc tính cơ bản 
quy định chất của sự vật. Nếu thuộc tính cơ bản mất đi thì chất của sự vật thay đổi. 
Còn thuộc tính không cơ bản thì trong quá trình tồn tại của sự vật, có những thuộc 
tính không cơ bản mới nảy sinh vàcó những thuộc tính không cơ bản mất đi nhưng 
chất của sự vật không thay đổi. Thuộc tính chỉ bộc lộ thông qua quan hệ với sự vật 
khác. 
Trong sự vật, hiện tượng, chất không tách rời với lượng 
1.2-Lượng của sự vật 
Là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, chỉ rõ về mặt quy mô, tốc độ, 
trình độ phát triển của sự vật, hiện tượng. Nói đến lượng sự vật tức là sự vật đó lớn hay 
bé, tốc độ phát triển nhanh hay chậm, trình độ cao hay thấp..v..v..đo bằng các đại 
lượng cụ thể, bằng số tuyệt đối như trong lượng, thể tích hoặc so sánh với vật thể khác, 
thời kỳ này với thời kỳ khác. 
Ví dụ tốc độ của ánh sáng là 300.000km/giây, một cái bàn có chiều cao 80 phân, 
một nước có 50 triệu dân..v..v 
1.3- Khái niệm về Độ 
Độ là giới hạn mà trong đó lượng biến đổi chưa gây nên sự thay đổi căn bản về 
chất. Sự vật vẫn là nó, mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một độ thích hợp khi 
lượng biến đổi vượt quá giới hạn độ thì sự vật không còn là nó. 
Trong phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng tác động qua lại lẫn nhau 
làm cho sự vật vận động. Mọi sự thay đổi về lượng đều có ảnh hưởng đến trạng thái 
chất của sự vật, nhưng không phải những thay đổi về lượng nào cũng dẫn đến thay đổi 
về chất. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng đạt tới mức phá vỡ độ cũ thì 
chất của sự vật mới thay đổi, sự vật chuyển thành sự vật khác. 
1.4-Điểm nút 
Là điểm mà tại đó lượng biến đổi đã gây nên sự thay đổi căn bản, tập hợp những 
điểm nút gọi là đường nút. 
1-5-Bước nhảy 
Sự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái mới ra đời phải thông qua bước 
nhảy. 
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi căn bản từ chất sự 
vật này sang chất của sự vật khác. 
+ Bước nhảy đốt biến là bước nhảy xảy ra trong thời gian ngắn làm thay đổi bản 
chất của sự vật. Bước nhảy này diễn ra bằng một sự bùng nổ mãnh liệt. VD cách mạng 
tháng Mười Nga là một bước nhảy đột biến. 
+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện bằng việc loại bỏ dần những 
yếu tố, những bộ phận chất cũ xảy ra trong một thời gian dài mới loại bỏ hoàn toàn 
chất cũ thành chất mới. 
2- Nội dung quy luật từ những thay đổi dần về lượng dấn đến sự thay đổi về 
chất và ngược lại. 
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội cũng như sự phát 
triển nhận thức tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng được tích luỹ lại 
khi vượt quá giới hạn độ tới điểm nút thì thì gây nên sự thay đổi căn bản về chất. Sự 
vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế. 
Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt đối lập vốn có của sự vật hiện tượng. 
Lượng thì thường xuyên biến đổi, còn chất tương đối ổn định. Do đó sự phát triển của 
lượng tới một lúc nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ. Khi chất cũ kìm hãm thì qua đó 
nảy sinh yêu cầu tất yếu phải phá vỡ chất cũ, mở ra một độ mới để mở đường cho 
lượng phát triển. Sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi 
vê chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. 
Quy luật này còn có chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về lượng dẫn đến 
thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời do sự biến đổi về lượng gây nên thì chất đó 
lại quy định sự biến đổi về lượng, ảnh hởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy mô, 
mức độ, nhịp điệu phát triển mới. 
Nội dung duy luật này được phát biểu như sau 
Mọi sự vật hiện tượng dều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về lượng, 
lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì diễn 
ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự vật. Kết quả là sự vật cũ, chất cũ mất đi và 
sự vật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở lại lượng mới, lượng mới lại tiếp 
tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì lại 
diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy sự tác động qua lại giữa hai mặt 
chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát triển không ngừng của mọi sự vật, hiện 
tượng. 
Điều cần chú ý là: 
-Quy luật này chỉ được thể hiện trong mối quan hệ giữa chất và lượng hoàn toàn 
xác định, mối quan hệ này hình thành một cách khách quan chứ không thể gán ghép 
một cách tuỳ tiện. đồng thời sự chuyển hoá lượng và chất bao giờ cũng phụ thuộc vào 
những điều kiện nhất định. 
-Quy luật lượng-chất được vận dụng trong xã hội thể hiện ở mối quan hệ giữa tiến 
hoá và cách mạng. Trong sự phát triển của xã hội, sự thay đổi dần về lượng gọi là tiến 
hoá, còn sự thay đổi về chất theo hướng tiến hoá lên gọi là cách mạng, tiến hoá chuẩn 
bị cho cách mạng. Trong giai đoạn tiến hoá, chế độ xã hội chưa có sự thay đổi căn bản 
về chất, còn cách mạng là kết quả của quá trình tiến hoá, chấm dứt một quá trình này, 
mở ra một quá trình tiến hoá mới cao hơn, chế độ xã hội cũ bị xoá bỏ, chế độ xã hội 
mới ra đời thay thế. Cách mạng xã hội là phương thức thay thế xã hội này bằng xã hội 
khác, bạo lực là hình thức cơ bản của cách mạng. 
3- ý nghĩa phương pháp luận 
-Trong hoạt động nhận thức thực tiễn, cần phải coi trọng quá trình tích luỹ về 
lượng, nếu không coi trọng quá trình này thì sự không có sự biến đổi về chất. 
-Quy luật này có chiều ngược lại, chất mới ra đời thì làm biến đổi tốc độ, quy mô 
lượng mới. Cho nên khi chất mới ra đời phải biết xác định tốc độ, quy mô phát triển về 
lượng cho thích hợp, không được bảo thủ, dừng lại 
-Cần phải chống quan điểm tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận tích 
luỹ về lượng muốn có ngay sự thay đổi về chất, còn hữu khuynh là thì ngược lạikhi 
lượng biến đổi đã tới vượt quá độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về 
chất. 
Phần II 
Vận dụng vào thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCn ở Việt 
nam 
1-Tính tất yếu khách quan của kinh tế thị trường định hướng CNXH ở nước 
ta 
Kinh tế thị trường định hướng XHCNthực chất là phát triển nền kinh tế hàng 
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước 
theo định hướng XHCN nhưng được diến đạt gọn hơn, nói rõ được mô hình hinh tế 
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. 
Nói nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế của chúng 
ta không phải là kinh tế hiện vật, tự cấp, tự túc, quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu, 
bao cấp. Nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách nói của 
tư bản, tức là không phải nền kinh tế thị trường TBCN, và cũng chưa hoàn toàn là kinh 
tế thị trường XHCN, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có lại 
vừa chưa có đầy đủ các yếu tố CNXH. 
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một tất yếu khách 
quan. Bởi vì. 
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN là kết quả của sự nhận thức và vận dụng 
quy luật vè sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng 
sản xuất. Cùng với CNH, HĐH đất nước, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là 
con đường kinh tế cơ bản đưa nước ta quá độ lên CNXH. 
- Nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, là thời kỳ đang thực hiện hoá dần 
dần CNXH, thời kỳ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế quá độ, vừa có CNXH vừa còn 
CNTB. Chủ trương xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN là phù hợp với bản 
chất của thời kỳ lịch sử đặc biệt này. 
- Chúng ta đã biết thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó kết 
cấu kinh tế - xã hội vừa bao hàm những yếu tố của xã hội cũ đang suy thoái dần, vừa 
bao hàm những yếu tố của xã hội mới ra đời đang lớn lên từng bước nhưng chưa dành 
toàn thắng. 
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà xã hội đang chuyển từ chế độ này sang chế độ 
khác, ở đó chưa có phương thức sản xuất nào giữ vị trí thống trị tuyệt đối, trong đó 
mỗi phương thức chỉ là một “mảnh” một “bộ phận” của kết cấu kinh tế xã hội, vừa 
độc lập tương đối, vừa hợp tác và đấu tranh với nhau. Mỗi “mảnh”, mỗi “bộ phận” ấy 
là một thành phần kinh tế. 
Thành phần kinh tế khác phương thức sản xuất ở chỗ khi nó chưa vươn lên 
đóng vai trò thống trị, nhưng cũng không ở vào vị trí chi phối, nó tồn tại như một bộ 
phận tương đối độc lập, đan xen với các bộ phận khác của kết cấu kinh tế-xã hội. Do 
vậy, nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng riêng có của thời kỳ quá độ lên CNXH. 
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là thực hiện nhất quán và 
lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, qua đó tiềm năng của 
các thành phần kinh tế được khai thác để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở 
vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo xây dựng thành 
công CNXH. 
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách 
quan, là sự nhận thức đúng đắn quy luật từ những thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay 
đổi về chất và ngược lại. Điều đó có nghĩa là khi chúng cha chưa tích luỹ được đầy đủ 
những điều kiện vật chất cho CNXH thì chúng ta chưa thể nóng vội xây dựng quan hệ 
sản xuất XHCN ngay như trước năm 1986 chúng ta đã làm, mà chúng ta phải tiến 
hành dần dần, hay nói cách khác, chúng ta phải có một thời kỳ quá độ. 
2-Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được sau 15 năm đổi mới. 
Sau năm 1975 khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã 
nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần dựa trên cơ sở công 
hữu XHCN về tư liệu sản xuất, mọi thành phần kinh tế khác bị coi là bộ phận đối lập 
với kinh tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải tạo, xoá bỏ, làm như vậy là chúng ta 
đã đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo 
ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém với một bên là quan hệ sản 
xuất được xã hội hoá giả tạo, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, 
hay nói cách khác khi lực lượng sản xuất của chúng ta còn quá thấp kém chưa tích luỹ 
đủ về lượng (tính chất và trình độ) đã vội vã thay đổi chất (quan hệ sản xuất XHCN) 
làm cho đất nước lâm vào tình trang khủng hoảng kinh tế – xã hội. 
Từ đại hội VI của đảng cộng sản Việt nam đến nay, khắc phục sai lầm trên chúng 
ta thực hiện xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xuất phát từ tính chất và 
trình độ của lực lượng sản xuất nước ta là đa dạng, không đồng đều và chưa cao. 
Thực tiễn sau 15 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương xây dựng kinh tế nhiều 
thành phần là phù họp với phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta. Nó đã thực sự giải 
phóng , phát triển và khơi dậy các tiềm năng của sản xuất. Khơi dậy năng lực sáng tạo 
chủ động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng 
hoảng kinh tế- xã hội. 
Phần kết luận 
Như vậy, lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào 
lượng được tích luỹ tới một độ nhất định mới làm thay đổi về chất, nên trong chỉ đạo 
hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thực khoa học phải chú ý tích luỹ dần dần 
những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những 
bước nhảy khi có điều kiện chín muồi. 
Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH chính là bước nhảy dần dần từ chất cũ sang 
chất mới. Trong quá trình tiến hoá cách mạng, một mặt phải chống khuynh hướng bảo 
thủ, trị trệ, nhằm tạo ra những bước nhảy để đẩy nhanh sự phát triển, mặt khác, lại phải 
chống tư tưởng nóng vội, muốn đưa nhanh sự phát triển, tiến hành những bước nhảy 
khi chưa có điều kiện chín muồi, bất chấp những quy luật khách quan. 
Tài liệu tham khảo 
1. Giáo trình triết học Mác - Lênin 
2. Nghị quyết đại hội Đảng lần 8 - 9 
3. Vận dụng nghị quyết 9. 
4. Tạp chí cộng sản. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_nhung_co_so_ly_luan_chung_ve_noi_dung_cua_quy_luat.pdf