Tiểu luận Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng hiện nay

doc 34 trang yenvu 29/10/2023 2490
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng hiện nay

Tiểu luận Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng hiện nay
-MỤC LỤC-
-Tên phần-	 -Trang -
A.MỞ ĐẦU
B.NỘI DUNG
 Chương 1:Tư tưởng HCM về ĐCSVN,về Đảng kiểu mới,chỉnh 
 Đốn Đảng.
Sơ lược về sự ra đời của Đảng Cộng sảnViệt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản 
 Việt Nam
 1.2.1 Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu
 đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
 1.2.2 Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp
 chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
 phong trào yêu nước.
 1.2.3 Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng của giai cấp công 
 nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
 1.2.4 Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin 
 “làm cốt”.
 1.2.5 Tăng cường và củng cố mối quan hệ bền chặt giữa
 Đảng với dân.
 1.2.6 Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo
 những nguyên tắc đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
 1.2.6.1 Tập trung dân chủ- nguyên tắc tổ chức của Đảng.
 1.2.6.2 Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách – Nguyên tắc
 lãnh đạo của Đảng.
 1.2.6.3 Tự phê bình và phê bình.
 1.2.6.4 Kỷ luật nghiêm minh và tự giác.
 1.2.6.5 Đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam phải thường xuyên tự chỉnh
 đốn, tự đổi mới làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.
Chương 2:vận dụng tư tưởng HCM về ĐCSVN trong việc
 Đổi mới và chỉnh đốn đảng hiện nay.
 2.1 Bối cảnh thế giới và trong nước hiện nay.
 2.1.1 vì sao phải tìm hiểu tình hình trong và ngoài nước.
 2.1.2 Đặc điểm của tình hình thế giới.
 2.1.3 Tình hình trong nước.
 2.2 Những thời cơ và thách thức của đặt ra cho đảng 
 trong công cuộc đổi mới,xây dựng ĐCSVN vững mạnh.
 2.2.1 Đảng quyết định tiến hành công cuộc đổi mới đất nước 
 2.2.2 Khó khăn và thách thức đặt ra cho Đảng ta
 2.3 Những vận dụng tư tưởng HCM về ĐCSVN của Đảng
 ta trong công cuộc đổi mới và chỉnh đốn.
 2.3.1 Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ chí tuệ của
 đảng trong điều kiên mới
 2.3.2 Bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ 
 chức cơ sở Đảng,nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ,
 đảng viên.
 2.3.3 Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung 
 dân chủ trong Đảng.
 2.3.4 Thực hiện đổi mới công tác cán bộ.
 2.3.5 Đổi mới phương thức lãnh đạo,nâng cao năng lực
 cầm quyền của Đảng.
 2.3.6 Xây dựng Đảng vững mạnh ,tiến hành tự kiểm điểm ,
 chỉnh đốn và phòng chống tham nhũng.
C.KẾT LUẬN
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. MỞ ĐẦU
 Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là đội tiên phong cách mạng, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ và hy sinh, giành nhiều thắng lợi có ý nghĩa chiến lược và mang tính thời đại, làm cho đất nước, xã hội và con người Việt Nam ngày càng đổi mới sâu sắc. Lịch sử của Đảng là một pho lịch sử bằng vàng. Hồ Chí Minh nói: “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại!”
 Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định vai trò cực kì quan trọng của Đảng ta. Ngày nay khi đất nước đang tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa,hiện đại hóa vai trò lãnh đạo của Đảng không những không mất đi mà càng quan trọng. Để thực hiện được vai trò của mình thì Đảng phải thường xuyên tự đổi mới và tự chỉnh đốn,đó là vấn đề luôn mang tinh cấp thiết và không bao giờ cũ đi trong mọi thời kì.Trong quan niệm của Hồ Chí Minh,xây dựng,chỉnh đốn Đảng gắn liền với sự tồn tại của Đảng; còn Đảng,còn hoạt động,còn cần phải tổ chức xây dựng, chỉnh đốn. tư tưởng hồ chi minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch,vững mạnh chiếm một vị trí quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng của Người. 
 Vậy tư tưởng của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam,đặc biệt là về vấn đề đổi mới và chỉnh đốn Đảng như thế nào và Đảng ta đã vận dụng tư tưởng đó của Người vào công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay ra sao? Đề tài của chúng tôi sẽ nghiên cứu và làm rõ các vấn đề trên.
 Bố cục đề tài của chúng tôi được chia thành hai chương. Chương 1 gồm 2 tiết nhằm khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt về vấn đề xây dựng. đổi mới và chỉnh đốn Đảng. chương 2 gồm 3 tiết nêu rõ sự vận dụng cua Đảng và các giải pháp để đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay.
B.NỘI DUNG.
Chương 1 : Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam,Về đảng kiểu mới và vấn đề đổi mới,chỉnh đốn Đảng.
 Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa văn hoá dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
1.1 Sơ lược về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
 Trong lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ( Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) đã ra đi tìm đường cứu nước.Người đã buôn ba khắp năm châu,bốn bể, vừa lao động, vừa học tập, quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ) và tham gia nhiều hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, tìm hiểu về Cách mạng Tháng Mười Nga. Tháng 7 năm 1920, Người được đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V. I. Lênin. Tác phẩm này đã giúp Người tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc - Con đường giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản. Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội Tua, Người đã bỏ phiếu tán thành việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp, tán thành việc Đảng Cộng sản Pháp gia nhập Quốc tế Cộng sản. Sự kiện này khẳng định: Người đã lựa chọn dứt khoát con đường giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản, Người đã từ thấm nhuần chủ nghĩa dân tộc tiến lên giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ một chiến sĩ chống chủ nghĩa thực dân trở thành một chiến sĩ cộng sản. Trong những năm từ 1921 đến 1930 người đã hoạt động lý luận và thực tiễn trên địa bàn Pháp (1921 – 1923), Liên Xô (1923 – 1924), Trung Quốc (1924 – 1927), Thái Lan (1928 – 1929) Trong giai đoạn này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã được hình thành về cơ bản. Những công trình như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Kách mệnh (1927) và những bài viết của Người trong thời kì này đã thể hiện những quan điểm lớn, sáng tạo về con đường cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam đã được hình thành về cơ bản và trước tình hình cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, Người đã chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930, Hôi nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng 
 Sự ra đời của Đảng là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. chánh cương vắn tắt, sách lược vắt tắt do Hồ Chí Minh khởi thảo được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đọc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải phóng xã hội, giải phóng con người.
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.1 Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
 Để đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cần phải có nhiều nhân tố, yếu tố như phải có đường lối cách mạng đúng, phải động viên được lực lượng của toàn dân thực thi đường lối,v.v.. Nhưng muốn xây dựng được đường lối cách mạng đúng , muốn vận động và tổ chức được nhân dân thực hiện đường lối đó thì phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hồ Chí Minh viết: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
 Theo Hồ Chí Minh, sở dĩ Đảng Cộng sản Việt Nam có thể đảm đương được vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam vì Đảng “là đội tiền phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”. “Bao giờ Đảng cũng tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.
Lợi ích của nhân dân, của dân tộc mà Đảng ta theo đuổi là độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh đi lên chủ nghĩa xã hội, sống hoà bình hữu nghị với tất cả các dân tộc khác. Nguời viết: “Hễ còn một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là mình chưa làm tròn nhiệm vụ Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào”.
1.2.2 Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
 Đề cập đến các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản, xuất phát từ hoàn cảnh cu thể của nước Nga và phong trào công nhân Châu Âu, V.I. Lênin nêu lên hai yếu tố, đó là sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Khi đề cập đến sự hình thành của Đang Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yêu tố chủ nghĩa Mac-Leenin và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh conf kể đến yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu nước.sở dỉ Hồ Chí Minh nêu thêm yếu tố phong trào yeu nước, coi nó là một yếu tố quan trọng, bởi lẽ phong trào yêu nước có vị trí,vai trò cực kì to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam;phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai phong trào đó cùng mục tiêu chung;phing trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân,nói đến phong trào yêu nước , phải kể đến phong trào nông dân, giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân, giai cấp công nhân chủ yếu xuất thân từ giai cấp nông dân, giữa họ có mối liên hệ chặt chẽ, họ hợp thành quân chủ lực của cách mạng;phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. 
1.2.3 Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
 Xuất phát từ quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ mục tiêu phấn đấu của Đảng, của cách mạng, cũng như từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng, Hồ Chí Minh đã khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
- Khi nói Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam không có nghĩa là Hồ Chí Minh đã xem nhẹ bản chất giai cấp của Đảng. Người vẫn luôn khẳng định Đảng ta mang bản chất của giai cấp công nhân, là “đội tiền phong của vô sản giai cấp”. Theo Người, cái gì quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng không phải là số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân nhiều hay ít mà cơ bản là ở nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, ở mục tiêu, đường lối của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, ở việc Đảng tuân thủ những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân mà lãnh tụ Lênin đã đưa ra.
- Luận điểm khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam đã định hướng cho việc xây dựng Đảng ta thành một Đảng có sự gắn bó máu thịt với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ phát triển của cách mạng Việt Nam.
Tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam, dù là đảng viên hay không phải là đảng viên, dù thuộc giai cấp, tầng lớp nào cũng đều thấy Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của Bác Hồ, là Đảng của mình, tự hào với niềm tự hào của Đảng và thấy mình có trách nhiệm trong việc xây dựng Đảng. Đây là điều mà không phải Đảng nào cũng có được.
1.2.4 Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”.
 Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” và Người khẳng định “chủ nghĩa” ấy là chủ nghĩa Mác – Lênin. Với ý nghĩa ấy, theo Hồ Chí Minh , chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành “cốt”, trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
 Khi tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh lưu ý những điểm như sau:
 Một là: Việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin phải luôn luôn phù hợp với hoàn cảnh và phù hợp với từng đối tượng.
 Hai là: Việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin phỉa luôn luôn phù hợp với từng hoàn cảnh.
 Ba là: Trong quá trình hoạt động, Đảng phải chú ý học tập, kế thừa những kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung chủ nghĩa Mác – Lênin để phù hợp với tình hình thực tế của nước ta.
 Bốn là: Đảng ta phải tưng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chú ý chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác – Lênin; chống lại những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin.
1.2.5 Tăng cường và củng cố mối quan hệ bền chặt giữa Đảng với dân.
 Trong mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, Đảng có được vai trò lãnh đạo là do dân ủy thác cho. Đảng lãnh đạo, dân làm chủ. Hồ Chí Minh đã nêu lên luận điểm nổi tiếng trong bản “Di chúc”: Đảng ta phải xứng đáng la người lãnh đạo, là đày tớ thật trung thành của nhân dân. Người còn khẳng định: Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo nếu Đảng xa rời nhân dân, quan liêu, hách dịch với dân. Xác định “người lãnh đạo” là xác định quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với toàn bộ xã hội và khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước. Đối tượng lãnh đạo của Đảng la toàn thể quần chúng nhân dân trong toàn dân tộc, nhằm đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no và hạnh phúc cho nhân dân – mà trước hết là quần chúng nhân dân lao động.
 Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu về tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân:
 Một là: Đảng thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Kiên quyết khắc phục bệnh quan liêu trong tổ chức Đảng và đảng viên.
 Hai là: thường xuyên vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảngbằng mọi hình thức: bằng việc tích cực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng; bằng việc đóng góp nhiều ý kiến cho tổ chức đảng với tinh thần xây dựng; bằng việc giới thiệu những người ưu tú để Đảng xem xét kết nạp vào Đảng; bằng việc kiểm tra, kiểm soát tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên,.
 Ba là: Đảng có trách nhiệm nâng cao dân trí. Không thể có một Đảng trí tuệ nếu dân trí thấp. Vấn đề này liên quan đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng nói chung và đối với công tác giáo dục – đào tạo nói riêng.
 Bốn là: trong quan hệ với dân, Đảng “không được theo đuôi quần chúng”. Đảng phải lắng nghe, học tập ở dân nhưng không được theo đuôi quần chúng. Đảng phải có bản lĩnh vững vàng trong việc xử lý các công việc, đưa ra những quyết định đúng đắn vừa nâng cao trình đọ giác ngộ cách mạng cho nhân dân, vừa thực hiệ tốt vai trò của mình đối với đất nước.
1.2.6 Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
1.2.6.1 Tập trung dân chủ- nguyên tắc tổ chức của Đảng.
 Tập trung dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc xây dựng Đảng thành một tổ chức chặt chẽ. Người cho rằng, “tập trung” và “dân chủ” có mối quan hệ khăng khít với nhau, là hai vế của một nguyên tắc. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung chứ không phải là dân chủ theo kiểu phân tán, tuỳ tiện, vô tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân chủ chứ không phải là tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán, chuyên quyền.
Về tập trung, Người nhấn mạnh: phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động. Do đó, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”. Còn dân chủ, Người khẳng định, đó là “của quý báu nhất của nhân dân”, là thành quả của cách mạng. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”.
1.2.6.2 Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách – Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng.
 Hồ Chí Minh giải thích về tập thể lãnh đạo như sau: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo?
 Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi đến mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.
 Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó.
 Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”.
 Về cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy.
 Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong”.
 Người khẳng định lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn luôn đi đôi với nhau. 
 Đối với việc thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng, phải chú ý khắc phục tệ độc đoán chuyên quyền, đồng thời phải chống lại cả tình trạng dựa dẫm tập thể, không dám quyết định, không dám chịu trách nhiệm. Có một hiện tượng thường thấy trong công tác hằng ngày, đó là, có thành tích thì nhận về cá nhân mình, còn khuyết điểm, sai lầm thì đỗ lỗi cho tập thể, điều này phải hết sức tránh.
1.2.6.3 Tự phê bình và phê bình.
 Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt, là quy luật phát triển Đảng. Tự phê bình luôn được đặt lên hàng đầu, tự phê bình là mỗi đảng viên phải tự thấy rõ mình phát huy mặt ưu điểm, khắc phục nhược điểm. Tự phê bình mà tốt thì mới phê bình người khác được. “Muốn đoàn kết trong Đảng, phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Đó là vũ khí sắc bén để rèn luyện đang viên.
 Người nhấn mạnh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm đó là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
 Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình thật đúng và nghiêm túc không phải dễ dàng. Đây là vấn đề khoa học và nghệ thuật cách mạng. “Phải tiến hành thường xuyên như rửa mặt hằng ngày: phải trung thực, chân thành, thẳng thắn, không nể nang, không giấu giếm và cũng không thêm bớt khuyết điểm, phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”. Cán bộ, đảng viên phải luôn dùng và khéo dùng. Để thực hiện tốt nguyên tắc này mọi người cần phải trung thực,chân thành với nhau – với chính mình và với người khác. Người nhắc, tránh lợi dụng phê bình để nói xấu nhau, bôi nhọ nhau, đã kích nhau
1.2.6.4 Kỷ luật nghiêm minh và tự giác.
 Nguyên tắc này là nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới do V. I. Lênin đề ra, để phân biệt sự khác nhau về chất với đảng kiểu cũ của quốc tế II.
 Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng. Người yêu cầu, mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, làm bất cứ việc gì cũng phải chấp hành tốt kỉ luật của Đảng. Chỉ khi nào nguyên tắc này được thực hiện tốt thì Đảng mới thực sự là một tổ chức chiến đấu chặt chẽ để giành thắng lợi cho sự nghiệp đôc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi mọi tổ chức đảng, mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng. Đồng thời, đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức Đảng và đảng viên. Người viết: “Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”. 
 Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Điều lệ Đảng, tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các
1.2.6.5 Đoàn kết thống nhất trong Đảng.
 Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến nguyên tắc xây dựng Đảng.
việc xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Nếu trong Đảng không đoàn kết thống nhất thì tổ chức Đảng sẽ bị rệu rã, bị chia rẽ, bè phái, không khí sẽ bị u ám. Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta, và của nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Cơ sở đoàn kết nhất trí trong Đảng chính là đường lối quan điểm của Đảng. “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đang là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”.
 Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Người đã nêu những yêu cầu như: phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, nghị quyết của tổ chức Đảng các cấp; mở rộng dân chủ nội bộ, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình; thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng chống mọi biểu hiện tiêu cực, tha hóa, biến chất của cán bộ đảng viên.
1.2.7 Đảng Cộng sản Việt Nam phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.
 Đảng ta đóng vai trò lãnh đạo toàn xã hội và trong thực tế mấy chục năm qua đã được nhân dân tin yêu vì “Đảng là đạo đức, là văn minh”, tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc. Nhưng Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo toàn xã hội và sẽ không được nhân dân tín nhiệm nữa nếu Đảng yếu kém, không trong sạch, không vững mạnh. Người khẳng định: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
 Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới vì đó chính là quy luật tồn và phát triển của Đảng, là yêu cầu của bản thân sự nghiệp cách mạng trong tất cả các thời kì. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới để ngăn chặn những thoái hoá, biến chất, để theo kịp với những yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao. Trong những lời cuối cùng để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người đã nêu lên những việc cần phải làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi là: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
 Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng càng phải được đặc biệt chú trọng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng trên những vấn đề sau đây:
 - Đảng phải luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao đông, và của dân tộc Việt Nam.
 Về tư tưởng, lý luận: phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, quán triệt theo chủ nghĩa Mác – Lênin và biết vạn dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đúng như quan điểm Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm “cốt”.
 Về chính trị: phải xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, cũng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị Trong đó, theo Người, đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Xây dựng đường lối chính trị trở thành một trong những vấn đề cực kì quan trọng trong xây dựng Đảng ta. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có vai trò định hướng phát triển cho toàn xã hội. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị của mình, chủ yếu bằng việc đề ra cương lĩnh, đường lối chiến lược, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội cũng như sách lược và quy định những mục tiêu phát triển của xã hội theo hướng lâu dài cũng như của từng giai đoạn. Đảng muốn xây dựng đường lối chính trị đúng đắn cần phải coi trọng những vấn đề: đường lối chính trị phải dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng nó vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ; trong xây dựng đường lối chính trị, phải học tập kinh nghiệm của các đảng anh em, nhưng phải tính đến những điều kiện cụ thể của đất nước và của thời đại trong từng giai đoạn hoặc cả thời kỳ dài; để có đường lối chính trị đúng, Đảng phải thực sự là đội tiên phong dũng cảm, là boojtham mưu sáng suốt của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Hồ Chí Minh lưu ý cần phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh. Đồng thời, Người cũng cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị gây hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh của Tổ Quốc, sinh mệnh chính trị của hàng triệu đảng viên cũng như của hàng triệu nhân dân lao động.
 Về công tác tổ chức, là một tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh; một tổ chức chiến đấu kiên cường với các nguyên tắc nền móng được tuân thủ nghiêm ngặt để khi hành động thì muôn người như một. Đó là một tổ chức trọng chất lượng hơn số lượng, lấy việc nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên và của toàn Đảng, tổ chức sinh hoạt Đảng: phải quán triệt tất cả các nội dung về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam theo những nguyên tắc đảng kiểu mới của giai cấp vô sản
 - Đội ngũ đảng viên, cán bộ của Đảng phải là những người toàn tâm toàn ý phục vụ Tổ Quốc, phục vụ nhân dân, phải là những người vừa có đức vừa có tài, những người “Giàu sang không thể quyến rũ. Nghèo khó không thể chuyển lay. Uy quyền không thể khuất phục”. Đảng viên phải là người luôn giác ngộ cách mạng, đi đầu trong mọi công tác, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, “không được vác mặt quan cách mạng”, “không phải cứ dán lên trán hai chữ cộng sản là dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục” mà phải bằng hành động thực tế gương mẫu thì dân mới tin, mới yêu, mới kính, mới phục. Đảng viên phải có “Đảng tính”, tức là đảng viên hoạt động trong các tổ chức chính quyền, đoàn thể phải thực sự gương mẫu đẻ thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đảng viên là người suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp của Đảng, của Tổ Quốc, đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ Quốc lên trên hết và trước hết. Đảng viên có “đời tư trong sáng”, tức là phải có đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh. Đảng viên của Đảng phải coi việc tu dưỡng đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nâng cao năng lực, gắn bó máu thịt với nhân dân, dám hy sinh xã thân vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
 - Đảng ta luôn luôn chú ý đề phòng và khắc phục những tiêu cực, thoái hóa, biến chất, luôn giữ gìn Đảng trong sạch, vững mạnh.
 - Đảng phải tự vươn lên đáp ứng kịp thời yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Muốn vậy, Đảng phải chú ý, nâng cao tầm trí tuệ, tầm tư tưởng, nâng cao trình độ về mọi mặt. 
Chương 2:vận dụng tư tưởng HCM về ĐCSVN trong việc
 Đổi mới và chỉnh đốn đảng hiện nay.
2.1 Bối cảnh thế giới và trong nước hiện nay.
2.1.1 vì sao phải tìm hiểu tình hình trong và ngoài nước.
 Đảng ta xác định lấy chủ nghiã Mác-Lênin ,tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh phải được đặt trong một bối cảnh nhất định,nhất là trong thời kỳ hiện nay,thời kỳ đang có sự thay đổi nhanh chóng và phức tạp,bao gồm cả những cơ hội và thách thức.Vì vậy để vận dụng một cách có hiệu quả nhất những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐCSVN thì đảng đã căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước va tình hình thế giới để từ đó có những chỉnh đốn và đổi mới phù hợp.
2.1.2 Đặc điểm của tình hình thế giới.
 Trên thế giới cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ,trong giai đoạn hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ biểu hiện trên những nét chủ yếu sau:
 -Cuộc cách mạng này càng khảng định tính đúng đắn của C.mác trong việc dự báo rằng đến một lúc nào đó khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
 -Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong giai đoạn hiện nay có những bước tiến nhảy vọt trong nhiều lĩnh vực.Điểu đó đang hướng nhân loại bước vào nền văn minh trí tuệ với hai đặc trưng cơ bản là’xã hội thông tin’và ‘kinh tế tri thức’.Với xã hội thông tin và kinh tế tri thức,thế mạnh tương đối về nguồn lao động giản đơn hoặc tay nghề thấp đã mất đi ý nghĩa,lợi thế thuộc về những quốc gia có lực lượng lao động được đào tạo đáp ứng được sự đòi hỏi của khoa học và công nghệ,sản phẩm làm ra ngày càng phản ánh sự kết tinh từ ‘chất xám’,từ trí tuệ chứ không phải chủ yếu từ cơ bắp.
 -Giai đoạn phát triển hiện nay của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra cơ sở cũng như thúc đẩy nhanh hơn,tạo lực mạnh hơn cho quá trình toàn cầu hóa kinh tế-vốn là một xu thế khách quan trên thế giới,Toàn cầu hóa hiện nay có hai mặt,vừa tích cực vừa tiêu cực.Mặt tích cực biểu hiện chủ yếu là tạo cơ hội cho tất cả các nước tiến nhanh hơn trên con đường phát triển của mình nếu biết tận dụng thời cơ trong giao lưu,hợp tác quốc tế,đi tắt ,đón đầu,phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và của thời đại.Mặt tiêu cực thể hiện chủ yếu ở chỗ,hiện nay toàn cầu hóa đang bị các nước tư bản chủ nghĩa phát triển ,tập đoàn tư bản tài chính cũng như câc tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia thao túng.Chính vì vậy nhiều người cho rằng toàn cầu hóa mang tính chất tư bản chủ nghĩa.
 -Trên con đường phát triển của các quốc gia-dân tộc,cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang tạo ra sự liên kết,hợp tác trong nhiều lĩnh vực,ở nhiều cấp độ.
 Bên cạnh sự phát triển của khoa học và công nghệ thì tình hình chính trị trên thế giới có nhiều sự thay đổi.Ngay từ sau cách mạng Tháng Mười Nga ,nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành trở thành một nhân tố ảnh hưởng lớn nhất cho sự phát triển của thế giới.Hiện nay tình hình chính trị trên thế giới có những thay đổi lớn;
 -Hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn ,phong trào vô sản và công nhân quốc tế gặp khó khăn lớn.Đây không phải bắt nguồn tư học thuyết Mác-Lênin mà là từ nhiều nguyên nhân,trong đó có sự sai lầm trong việc vận dụng học thuyết đó.Cục diện chính trị thế giới có nhiều biến động lớn,nhất là cuối những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ XX.
 - Cuộc “chiến tranh lạnh”kết thúc nhưng nền hoà bình thế giới đứng trước những thách thức lớn.Đó là chiến tranh cục bộ ,những cuộc xung đột sắc tộc,tôn giáo,các thế lực khủng bố quốc tế gây nên những cuộc khủng bố đẫm máu.
 -Chủ nghĩa tư bản tiếp tục có sự điều chỉnh để phát triển,các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng như khu vực châu Á-Thái Bình Dương là khu vực phát triển và năng động của thế giới song đang tiềm ẩn những biến cố khó lường,những yếu tố gây mất ổn định.Việt Nam nằm trong khu vực này cho nên không thể không chịu sự tác động đó.
2.1.3 Tình hình trong nước.
 Đất nước trải qua hang chục năm chiến tranh khốc liệt để lại những hậu quả nặng nề,các thế lực phản động chống phá quyết liệt nhằm phủ nhận thành quả cách mạng của Việt Nam khiến đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội.Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đất nước ta đã vượt qua được những khó khăn đó,thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội ,bước vào thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
 Hiện nay ,Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,do dân va vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng.Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,mở cửa ,sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.Trong những năm đổi mới nền kinh tế tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so với các nước khác trong khu vực .Tình hình chính trị của đất nước luân được giữ ổn định,tình hình xã hội có những tiến bộ,đời sống vật chất và tinh thần không ngừng được cải thiện.Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế,thế và lực của nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nội lực và kết hợp với ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững,trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,nguồn lực con người,năng lực khoa học và công nghệ,kết cấu hạ tầng ,quốc phòng an ninh được tăng cường.
 Việt Nam đang đứng trước cơ hội và thách thức lớn đan xen nhau.Sự nghiệp đổi mới của nước ta trong những năm tới có những cơ hội giúp nước ta có thể đi đầu ,tiếp thu nhanh những thành tịu của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới,bên cạnh đó chúng ta đã rút ra được nhiều bài học từ cả những thành công và yếu kém của gần hai mươi năm tiến hành đổi mới,nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa ,hiện đại hóa.Tuy vậy ,chúng ta đang đứng trước những thách thức,nguy cơ hay khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước.Bốn nguy cơ mà hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đại Hội VII của Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại,Các nguy cơ đó diễn biến phức tạp,đan xen và tác động lẫn nhau.Trong tình hình thế giới hiện nay phát triển nhanh và bền vững là một thách thức lớn.Nếu nước ta không tận dụng cơ hội hiện nay để phát triển nhanh ,thoát khỏi nghèo nàn ,lạc hậu,thì cơ hội sẽ bị bỏ lỡ.
 Trong thời kỳ nền kinh tế thị trường hiện nay cùng với sự suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ ,đảng viên cả về tư tưởng chính trị ,đạo đức ,lối sống và nạn tham nhũng ,tệ quan lieu đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối chủ trương,chính sách của đảng và nhà nước,gây bất bình và làm giảm niềm tin trong nhân dân.Các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo.
2.2 Những thời cơ và thách thức của đặt ra cho đảng trong công cuộc đổi mới,xây dựng ĐCSVN vững mạnh.
2.2.1 Đảng quyết định tiến hành công cuộc đổi mới đất nước .
 Đảng ta là một thành viên của hệ thống chính trị đồng thời có trách nhiệm lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội ,Đảng là hạt nhân của hệ thống chính trị nên muốn đưa cách mạng tiến lên phải chăm lo xây dựng Đảng mạnh về cả chính trị ,tư tưởng và tổ chức.Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố có tính chất quyết định tới thắng lợi của sự nghiệp cách mạng .Sự nghiệp đổi mới của đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội do đó phụ thuộc trước hết vào đảng cầm quyền.Chính với ý nghĩa đó mà ta có thể nói rằng sự nghiệp đổi mới hãy bắt đầu từ bản Đảng.Với ý thức và trách nhiệm đó,trong những năm 80 của thế kỷ XX ,Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nghiên cứu ,tổng kết,từ những sang kiến của cơ sở ,của đội ngũ cán bộ đảng viên,để khởi xướng công cuộc đổi mới.	Vào đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) Đảng ta đã bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới của đất nước cũng như là công cuộc xây dưng đội ngũ cán bộ đảng viên trong sach và vững mạnh điều đó xuất phát từ chính yêu cầu của cuộc sống ,của hoàn cảnh đất nước va từ tình hình quốc tế.
2.2.2 Khó khăn và thách thức đặt ra cho Đảng ta.
 Đứng trước thời cơ và thách thức mới ,trách nhiệm của Đảng Cộng Sản Việt Nam cầm quyền trong công cuộc đổi mới hiện nay càng nặng nề hơn.Đảng phải vươn lên về mọi mặt trong những điều kiện mới diễn biến hết sức phức tạp.Khi phân tích tình hình cụ thể trong và ngoài nước Đảng ta nhận thấy được rằng ngoài những thuận lợi rất cơ bản thì còn có rất nhiều những khó khăn điều đó lại xuất phát một phần ngay từ trong chính hàng ngũ đảng viên,trong thời buổi kinh tế thị trường những lợi ích về vật chất đã làm cho một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ ,đảng viên dễ dàng bị cám dỗ bởi những lợi ích vật chất,gây đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị ,suy thoái về đạo đức và nối sống;hoàn cảnh mới dễ dàng mắc phải căn bệnh phát triển như cửa quyền ,quan liêu,mất dân chủ,lãnh đạo nặng về áp đặt theo lối mệnh lệnhChính điều này đã làm giảm đi niềm tin của quần chúng nhân dân vào đội ngũ đảng viên.Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng đặt cho Đảng nhiều vấn đề mới về cả lý luận lẫn thực tiễn cần có lời giải đáp.
 Đứng trước những thử thách và khó khăn đó Đảng ta đã vận dụng một cách hiệu quả nhất những lý luận và quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng ,chỉnh đốn đội ngũ đảng ,để từ đó xây dựng Đảng mạnh về cả chính trị ,về tư tưởng ,về tổ chức,về phẩm chất đạo đức của toàn Đảng,về những phương thức lãnh đạo trong thời kỳ mới.Điều này đã được thể hiện một cách rõ nét nhất qua các ky đại hội của Đảng ta,nhất là qua cuộc vận động”học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
2.3 Những vận dụng tư tưởng HCM về ĐCSVN của Đảng ta trong công cuộc đổi mới và chỉnh đốn.
 Từ chính những phân tích ở trên cho thấy rằng vấn đề cấp thiết hiện nay là phải xây dựng Đảng thật trong sạch và vững mạnh ngang tầm với yêu cầu đổi mới,phải nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng ,để Đảng luân đi tiên phong trong lý luận và thực tiễn .Đó không chỉ là nguyện vọng thiết tha của toàn thể nhân dân mà còn là yêu cầu tất yếu của lịch sử.sự thật này sẽ tồn tại và phát triển bất chấp mọi âm miu hành động phá hoại của kẻ thù.Do vậy ,ghi sâu lời dặn ‘lý luận tạo cho các đồng chí làm công tác thực tế ,sức mạnh định hướng,sự sang suất dự kiến tương lai ,kiên định trong công tác và lòng tin thắng lợi ở sự nghiệp chúng ta”kiên định lý tưởng cộng sản và lập trường chính trị.Trong 20 năm đổi mới Đảng Cộng Sản Việt Nam đã từng bước đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.Thực tế cho thấy tự chỉnh đốn và tự đổi mới ,Đảng ta đã tránh được những sai lầm cố hữu,tránh được những chủ quan duy ý chí ,từ đó đưa đất nước tiến lên.sau đây là một số biện pháp đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh,cũng chính là những vận dụng những quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. 
2.3.1 Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ chí tuệ của đảng trong điều kiên mới.
 Đảng ta kiên định với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội bên cạnh đó là sự vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng.Để có thể nâng cao được bản lĩnh chính trị và trí tuệ trong Đảng với thời kỳ hiện nay thì phải nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng,tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,làm rõ thêm nữa cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối,chính sách của Đảng trong thời kỳ đổi mới.Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị ,tư tưởng trong Đảng ,trước hết là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt ở các cấp,đổi mới nội dung phương pháp học tập giảng dạy trong hệ thống chính trị ,nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của chương trình .
 Bên cạnh đó Đảng ta đã củng cố ,nâng cao chất lượng các cơ quan chuyên ngành về công tác tư tưởng lý luận.Tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng ,lý luận,nhất là các cán bộ chủ chốt.Tiến hành đồng bộ công tác tư tưởng ,công tác lý luận ,gắn các công tác này với các tổ chức –cán bộ,với phát triển kinh tế,giải quyết hài hòa các lợi ích.Gắn”xây” với “chống”,lấy “xây” làm chính.Đảng kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin ,tư tưởng Hồ Chí Minh ,bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng ,bác bỏ các quan điểm sai trái thù địch.
2.3.2 Bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở Đảng,nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ,đảng viên.
 Đảng đã nhận định rằng mỗi tổ chức cơ sở Đảng có trách nhiệm tổ chức và quy tụ sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao,làm tốt công tác giáo giục chính trị ,tư tưởng ,quản lý và giám sát đảng viên về năng lực và hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức lối sống,đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các chủ nghĩa cực đoan trong Đảng.Đồng thời Đảng từng bước kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở Đảng,xác định thể pháp lý,thể chế hóa về mặt nhà nước vai trò ,chức năng nhiệm vụ của các loại hình cơ sở,đặc biệt là các tổ chức cơ sở Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân ,kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.Chú ý xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp tư nhân ,doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,vùng sâu vùng xa,tập trung giải quyết cơ sở yếu kém .
Xây dựng đội ngủ đảng viên thật sự tiên phong ,gương mẫu ,có phẩm chất đạo đức tốt đúng với lời căn dặn tâm huyết của Hồ Chí Minh “mỗi cán bộ ,đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng ,của dân tộc lên trước hết ,phải cố gắng học tập chính trị ,chuyên môn,gắn bó với nhân dân,dựa vào nhân dân để xây dựng và chỉnh đốn Đảng ,gương mẫu trước quần chúng ”.đội ngũ đảng viên phải có đạo đức cách mạng ,có ý thức tổ chức kỷ luật và hoàn thành nhiệm vụ ,kiên định lập trường giai cấp công nhân,phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng,người đảng viên luân vững vàng trước mọi khó khăn thách thức góp phần vào quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.Để có thể xây dựng được một đội ngủ đảng viên như vậy Đảng ta đã chú trọng trẻ hóa và nâng cao trình độ bằng các công tác bồi dưỡng về kiến thức và trí tuệ,năng lực hoàn thành nhiệm vụ và lãnh đạo .Đặc biệt là thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động từ năm 2006 đã được toàn Đảng,toàn Dân va toàn quân ta nhiệt liệt hưởng ứng,cuộc vận động theo từng chuyên đề cụ thể như“Tư tưởng ,tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm ,chống tham ô ,lãng phí,quan lieu”.. đã thu được những kết quả tích cực ,tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng ,rèn luyện và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội ,đặc biệt là trong cán bộ ,đảng viên ,và các tổ chức đoàn thểTừ đó đã nâng cao được phẩm chất của người cán bộ ,và đảng viên.
Để có được một đọi ngũ đảng viên trong sạch thì Đảng phải thường xuyên sàng lọc đảng viên ,phải thường xuyên tiến hành công tác kiểm điểm,động viên quần chúng nhân giám sát ,đóng góp ý kiến về đảng viên ,kịp thời đưa ra khỏi đảng những người không đủ tư cách.
2.3.3 Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.
Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng .Mọi cán bộ ,đảng viên có quyền bàn bạc,tham gia quyết định công việc của Đảng ,quyền thông tin ,tranh luận,nếu ý kiến riêng ,bảo lưu ý kiến trong tổ chức,khi đã thành nghị quyết thì phải nói và làm theo đúng nghị quyết của Đảng.Đồng thời các cấp lãnh đạo ,cán bộ lãnh đạo phải thật sự lắng nghe ý kiến của cấp dưới,của đảng viên và nhân dân.Xây dựng quy chế ra quyết định của Đảng,bảo đảm phát huy trí tuệ của tập thể,có cơ chế nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn,tham gia giám sát Đảng,tham gia vào công việc của Đảng,khắc phục đi phần nào khối làm việc quan liêu xa dân.Từ đó mà thắt chặt mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân.
Đảng đã và đang hoàn thiện quy chế bảo đảm quyền kiểm tra,giám sát của tập thể đối với cá nhân,của tổ chức đối với tổ chức,kể cả đối với người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên.Có sự kết hợp giữa giám sát trong Đảng với giám sát của nhà nước và giám sát của nhân dân.Để đạt được hiệu quả tốt nhất thì Đảng cũng đã tiến hành xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ Quốc,các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối,chủ trương chính sách,quyết định lớn của Đảng và tổ chức thực hiện ,kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ.Nhờ có việc đổi mới phương pháp kiểm tra và bổ sung chức năng giám sát cho ủy ban kiểm tra các cấp ,tăng cường công tác kiểm tra phòng ngừa mà đã góp phần rất lớn trong việc làm trong sạch đội ngũ cán bộ đảng viên,và ngăn ngừa được những hậu quả nghiêm trọng ,cùng như là đem lại niềm tin cho nhân dân.
2.3.4 Thực hiện đổi mới công tác cán bộ.
Đảng ta nhận định cán bộ phải là người có đức ,có tài,có những phẩm chất chính trị tốt và tuyệt đối trung thành với Tổ Quốc ,với Đảng,hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và của dân tộc,có bản lĩnh chính trị vững vàng , kiên định lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ;không dao động trước mọi biến cố phức tạp,có đủ năng lực thực hiện thắng lợi đường lối,chính sách của Đảng,pháp luật và lối sống mẫu mực,trong sáng ,có ý thức tổ chức kỷ luật cao,tôn trọng tập thể,gắn bó với nhân dân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ ,có cơ cấu hợp lý,có chất lượng tốt,xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng ,nhất là chú ý đào tạo cán bộ nữ,các cán bộ dân tộc thiểu số,cán bộ xuất thân từ công nhân,chuyên gia trên các lĩnh vực ,bồi dưỡng nhân tài theo định hướng quy hoạch .Đặc biệt là quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cao.Mặt khác Đảng cũng chú trọng đổi mới công tác cán bộ thật sự dân chủ,khoa học và công minh.Xây dựng và hoàn thiên chế độ bầu cử,cơ chế bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ,mở rộng quyền đề cử và tự ứng cử,giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn.Đồng thời Đảng ta cũng thấy được rằng phải có chính sách bảo đảm phát hiện,tuyển chọn và đào tạo,bồi dưỡng đối với những người có đức ,có tài,thay thế những người kém năng lực,không đủ uy tín,nhất là những người kém phẩm chất,hư hỏng và có khuyết điểm nghiêm trọng.kiên quyết khắc phục những biểu hiện cá nhân độc đoán,thiếu công tâm và khách quan,cũng như tình trạng nể nang tùy tiện ,trì trệ trong công tác cán bộ.Thực hiện cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo,công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,đồng thời phát huy vai trò ,quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị .Tổ chức Đảng có thẩm quyền phải chủ trì công tác cán bộ ,đồng thời phát huy vai trò chủ trì công tác cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ ,tập thể quyết định,đi đôi với phát huy trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức trong hệ thống chính trị ,tổ chức cơ quan,đơn vị công tác của cán bộ .Quy định trách nhiệm của cơ quant ham mưu trong công tác cán bộ.
Trong các kỳ đại hội Đảng ,Đảng đã có nhiều nghị quyết và chỉ thị của các cấp về vấn đề làm trong sạch đội ngũ cán bộ ,đảng viên,theo tinh thần của hội nghị lần thứ 3 BCHTƯ khóa VII:“về một số nhiệm vụ đổi mới,chỉnh đốn đảng” đặc biệt là Hội Nghị TƯ6(lần 2)khóa VIII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng.Đồng thời ,cùng với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị ,tư tưởng,Đảng đã“tập trung chỉ đạo quyết liệt hơn nhiệm vụ xây dựng Đảng tương xứng với vị trí là nhiệm vụ then chốt” và không ngừng tự đổi mới ,tự chỉnh đốn,Đảng đồng thời phải đổi mới hơn nữa phương thức lãnh đạo để“xây dựng đảng trong sạch vững mạnh ,nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo ,nâng cao uy tín và thanh danh của Đảng ta”.
2.3.5 Đổi mới phương thức lãnh đạo,nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo ,nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng phải đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị,đổi mới kinh tế,thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức ,sinh hoạt và hoạt động của Đảng.Đảng ta nhận định “khâu mấu chốt cần tập trung hiện nay là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở cấp trung ương và chính quyền ở cấp địa phương”.Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối,các nghị quyết,quyết định và nguyên tắc giải quyết những vấn đề trọng đại ,lãnh đạo thể chế hóa ,cụ thể hóa đường lối,quan điểm,chủ trương,chính sách lớn của Đảng thành hiến pháp,pháp luật,kế hoạch,các chương trình công tác lớn của nhà nước.Xây dựng một nhà nước thật sự trong sạch và vững mạnh,hoạt động có hiệu lực,bố trí đúng cán bộ ngang tầm nhiệm vụ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện.
Đảng không buông lỏng lãnh đạo ,đồng thời không bao biện,làm thay nhà nước; trái lại phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động sáng tạo của nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội. “khẩn trương nghiên cứu,xây dựng ,hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc,nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với nhà nước”trong từng lĩnh vực như:lập pháp,hành pháp,tư pháp.Đặc biệt la việc lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ trong cả hệ thống chính trị,thực hiện luân chuyển cán bộ,“khắc phục tình trạng khép kín ,cục bộ về cán bộ”.Tăng cường trách nhiệm của cán bộ ,đảng viên là thủ trưởng cơ quan nhà nước.Cơ quan nào vi phạm chính sách,pháp luật,để xảy ra tình trạng tiêu cực,mất đoàn kết nội bộ thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm.Đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với đổi mới phong cách hoạt động,lề lối làm việc thật sự dân chủ,thiết thực,nói đi đôi với làm,khắc phục bệnh quan lieu,tùy tiện,chủ quan,hình thức.
2.3.6 Xây dựng Đảng vững mạnh ,tiến hành tự kiểm điểm ,chỉnh đốn và phòng chống tham nhũng.
Việc xây dựng Đảng ta trong sạch,vững mạnh có vai trò quyết định đến việc bảo vệ chế độ chính trị,con đường phát triển của đất nước lên chủ nghiã xã hội với mục tiêu“dân giầu ,nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ và văn minh”.Để xây dựng Đảng vững mạnh,ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc và của chính thời đại,đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền và tổ chức lãnh đạo duy nhất,Đảng phải thật trong sạch,đoàn kết và có khăng khít mấu thịt với nhân dân.Nhất là trong công cuộc xây dựng đất nước tiến lên con đường CNXH

File đính kèm:

  • doctieu_luan_su_van_dung_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_xay_dung_dang.doc