Tiểu luận Tác động của chính phủ đối với tỷ giá hối đoái

pdf 13 trang yenvu 09/05/2024 1590
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Tác động của chính phủ đối với tỷ giá hối đoái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tác động của chính phủ đối với tỷ giá hối đoái

Tiểu luận Tác động của chính phủ đối với tỷ giá hối đoái
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ T HỒ CHÍ MINH 
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC 
TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 
Tên đề tài: 
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ ĐỐI 
VỚI 
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 
GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Lớp: NHĐ2, K16 
Nhóm 3: Nguyễn Thị Thu Hương 
Hà Thị Anh Đào 
Lê Thị Ngọc Hân 
Bùi Thị Hạnh 
Phạm Kim Thông 
Vũ Mạnh Tư 
Lê Thị Quỳnh Trang 
TP Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2008 
Môn tài chính quốc tế GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Nhóm 3 Trang 1 
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI. 
I. CÁC LOẠI HỆ THỐNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI. 
1. Hệ thống tỷ giá hối đoái cố định và thả nổi: 
Hệ thống tỷ giá hối đoái cố định: là hệ thống tỷ giá được giữ không đổi hoặc chỉ 
được cho phép dao động trong một phạm vi rất hẹp. Nếu tỷ giá bắt đầu dao động quá 
nhiều các chính phủ có thể can thiệp để duy trì tỷ giá hối đoái trong vòng giới hạn của 
phạm vi này. 
Hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi tự do: là hệ thống mà tỷ giá sẽ được các lực thị 
trường ấn định mà không có sự can thiệp của chính phủ. Theo hệ thống này, các công ty 
đa quốc gia sẽ cần phải dành nhiều thời gian đáng kể cho việc tính toán và quản lý các rủi 
ro do dao động tỷ giá. 
Những thuận lợi và khó khăn của hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi tự do: 
Thứ nhất, trong hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, các vấn đề của quốc gia này có 
thể lay nhiễm sang một quốc gia khác, ngược lại trong hệ thống tỷ giá thả nổi tự do thì 
các vấn đề của quốc gia này sẽ không ảnh hưởng đến quốc gia khác. Ví dụ, trong hệ 
thống tỷ giá giữa 2 nước Mỹ và Anh là cố định, thì lạm phát cao ở Mỹ có thể gây ra lạm 
phát cao ở Anh. 
Thứ hai, trong hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi tự do, các ngân hàng trung ương 
không bị đòi hỏi phải liên tục duy trì tỷ giá hối đoái trong biên độ đã định. Vì vậy, họ 
không bị buốc phải thực hiện một chính sách can thiệp có thể tạo nên những tác động 
không thuận lợi đối với nền kinh tế để kiểm soát tỷ giá. Hơn nữa, các chính phủ có thể 
thực thi những chính sách mà không cần bận tâm là các chính sách này sẽ duy trì được tỷ 
giá trong vòng các biên độ quy định hay không. Cuối cùng, nếu tỷ giá không được phép 
thả nổi, các nhà đầu tư sẽ đầu tư vốn của mình vào bất cứ nước nào có lãi suất cao nhất. 
Điều này có thể sẽ làm cho chính phủ của các nước có lãi suất thấp hạn chế vốn của các 
nhà đầu tư đem ra khỏi nước mình. Như vậy, sẽ có nhiều hạn chế dòng vốn và hiệu quả 
của thị trường tài chính sẹ bị sút giảm. 
2. Hệ thống tỷ giá hỗn hợp giữa cố định và thả nổi: 
Hệ thống dãi băng tỷ giá: 
Một trong những sắp xếp tỷ giá hối đoái cố định nổi tiếng được cộng đồng kinh tế 
châu âu (EEC) lập tháng 4 năm 1972, khi các nước thành viên cộng đồng ấn định rằng 
các đồng tiền của họ sẽ được duy trì trong vòng giới hạn được thiết lập đối với nhau. Sắp 
xếp này được gọi là dãi băng tỷ giá. Theo thể thức EMS, tỷ giá hối đoái của các nước 
thành viên cũng được duy trì trong các giới hạn cụ thể quy định và cũng ràng buộc với 
đơn vị tiền tệ châu Âu (đồng ECU). Đồng ECU không phải là một đồng tiền, mà chỉ là 
đơn vị tính toán. Đó là bình quân gia quyền của tỷ giá hối đoái của các nước thành viên, 
mỗi quyền số được ấn định bởi tổng sản phẩm quốc dân và hoạt động mậu dịch nội bộ 
Môn tài chính quốc tế GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Nhóm 3 Trang 2 
châu âu tương ứng của các nước thành viên. Các đồng tiền của các nước thành viên này 
có thể dao động không quá 2, 25% (6% cho Ý) từ mức ngang giá được lập ban đầu. để 
tránh việc giá trị đồng tiền biến động vượt khỏi biên độ đã quy định, các ngân hàng TW 
can thiệp trong các thị trường ngoại hối. 
Các tỷ giá trung tâm của vài đồng tiền ràng buộc với đồng ECU. Mỗi đồng tiền 
ràng buộc vớI đồng ECU được phân bổ một tỷ giá gọi là tỷ giá hối đoái trung tâm. Từ các 
tỷ giá được giao này ta có thể xác định tỷ giá trung tâm giữa 2 đồng tiền bất kỳ nào đó. 
Hệ thống dải băng tỷ giá 
Hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ: 
Hệ thống con rắn tiền tệ còn được gọi là neo tỷ giá có điều chỉnh hay là ngang giá 
trượt. Trong hệ thống này, một quốc gia ấn định một ngang giá cho đồng tiền của mình 
và cho phép một thay đổi nhỏ xoay quanh ngang giá, ví dụ như +/-1% so với ngang giá. 
Các ngang giá này sẽ được điều chỉnh dần so với một số lượng nhỏ tuân theo 
những chỉ dẫn trong hành vi các biến số của nền kinh tế như vị thế dự trữ ngoại hối quốc 
gia, những thay đổi gần đây trong cung tiền hoặc giá cả hoặc những thay đổi gần đây của 
tỷ giá xoay quanh ngang giá. 
17.60
14.40
Môn tài chính quốc tế GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Nhóm 3 Trang 3 
Hệ thống con rắn tiền tệ 
Hệ thống thả nổi có quản lý: 
Hệ thống tỷ giá hối đoái hiện hữu ngày nay đối với một vài đồng tiền nắm đâu đó 
giữa cố định và thả nổi tự do. Nó giống hệ thống thả nổi tự do ở điểm các tỷ giá được cho 
phép dao động hàng ngày và không có các biên độ chính thức. Nhưng nó lại giống hệ 
thống cố định ở điểm các chính phủ có thể và đôi khi đã can thiệp vào để tránh đồng tiền 
nước họ không đi quá xa theo một hướng nào đó. 
II. CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ TRONG HỆ THỐNG TỶ GIÁ HỐI 
ĐOÁI CÓ QUẢN LÝ. 
1. Các lý do của việc can thiệp vào ngoại hối: 
Làm dịu bớt các biến động tỷ giá hối đoái. 
Thiết lập các biên độ tỷ giá hối đoái ẩn. 
Ứng phó với các xáo trộn tạm thời. 
2. Can thiệp trực tiếp: là việc các chính phủ dùng nội tệ để mua hoặc bán đồng 
ngoại tệ để gây áp lực làm ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên việc chính phủ can 
thiệp trực tiếp như thế này có thể đạt được mục tiêu mà cũng có thể không đạt được mục 
tiêu. 
Khi NHTW can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối mà không điều chỉnh sự 
thay đổi trong mức cung tiền tệ gọi là can thiệp không vô hiệu hóa. NHTW can thiệp vô 
hiệu hóa bằng cách áp dụng đồng thời các giao dịch trong thị trường ngoại hối và các 
hoạt động trên thị trường mở. 
3. Can thiệp gián tiếp 
1,65 
1,70 
1,72 
1,60 
1,65 
1,71 
Môn tài chính quốc tế GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Nhóm 3 Trang 4 
Can thiệp gián tiếp thông qua các chính sách của chính phủ: NHTW có thể 
can thiệp trực tiếp đến giá trị của một đồng ngoại tệ bằng cách tác động đến các yếu tố 
ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái, ví dụ như tác động vào lãi suất. 
Can thiệp gián tiếp thông qua các hàng rào của chính phủ: các chính phủ cũng 
có thể tác động gián tiếp đến tỷ giá hối đoái bằng cách áp đặt các hàng rào đối với tài 
chính và mậu dịch quốc tế. Tuy nhiên việc làm này có thể gây ra khó khăn cho những 
nước mà phải chịu tác động của những hàng rào đó và có thể bị trả đũa của các quốc gia 
này. 
III. VAI TRÒ CỦA TỶ HỐI ĐOÁI: 
Tỷ giá hối đoái được xem là một công cụ trong chính sách tiền tệ, nó là mục tiêu 
của chính sách tiền tệ mà mọi quốc gia đều hướng tới. Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối 
đoái hợp lý sẽ tạo điều kiện cho việc duy trì, mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh 
tế trong nước và quốc tê, giúp cho nền kinh tế trong nước có điều kiện hội nhập khu vực 
và thế giới ngày càng mạnh mẽ hơn. 
Tỷ giá hối đoái chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó hai nhân tố quan trọng 
nhất là sức mua của đồng tiền và tương quan cung cầu ngoại tệ. Khi lạm phát tăng, sức 
mua đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ, làm cho tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ so với 
nội tệ tăng (hay tỷ giá đồng nội tệ so với ngoại tệ giảm) và ngược lại. Nếu đồng nội tệ 
giảm, tỷ giá hối đoái cao có tác dụng kích thích các hoạt động xuất khẩu, hạn chế nhập 
khẩu, góp phần tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán. Tỷ giá hối đoái cao cũng 
khuyến khích các hoạt động du lịch vào trong nước, làm cho quan hệ cung cầu về ngoại 
tệ bớt căng thẳng. Với tỷ giá hối đoái thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn 
chế các hoạt động chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Những tác động tích cực trên đây chỉ 
có thể có được khi tỷ lệ lạm phát được kiềm chế ở mức hợp lý 
Tỷ giá hối đoái cũng có thể tác động đến các chính sách của chính phủ, ví dụ như 
chính sách tài khóa. 
Môn tài chính quốc tế GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Nhóm 3 Trang 5 
PHẦN II: CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM: MỤC TIÊU 
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 
I. THỰC TIỄN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM QUA 
CÁC GIAI ĐOẠN 
Trong những năm 1988-1991, tỷ giá hối đoái của Việt Nam từ chế độ đa tỷ giá 
chuyển sang chế độ tỷ giá thống nhất được xác định theo cơ chế thị trường có sự điều tiết 
của Nhà nước. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đã được điều chỉnh theo sát những diễn biến 
của lạm phát đã làm cho tỷ giá hối đoái thực tế ổn định, nên đã có những tác động tích 
cực đến việc khôi phục cả cân đối bên trong và bên ngoài nền kinh tế, từng bước nâng 
cao sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa, thúc đẩy xuất khẩu phát triển, do đó làm gia 
tăng nguồn cung ngoại tệ, giảm dần thâm hụt cán cân thương mại và cán cân thanh toán 
qua các năm. Sự điều chỉnh hợp lý tỷ giá hối đoái danh nghĩa phối hợp với việc thắt chặt 
cung tiền, cắt giảm chi tiêu Chính phủ, hạn chế tín dụng, tăng lãi suất và những chính 
sách kinh tế khác đã chặn đứng được lạm phát, đưa nền kinh tế Việt Nam ra khỏi suy 
thoái và bước vào thời kỳ phát triển. 
Từ năm 1992 đến năm 1997, chính sách tỷ giá hối đoái được điều chỉnh để chống 
lạm phát và thu hút đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, chính sách 
tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. 
Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời góp phần tích 
cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 
với tốc độ cao trên 8% năm. Nhưng việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố 
định trong điều kiện lạm phát đã được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước 
có đồng tiền chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt Nam) 
và các nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD có xu 
hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VNĐ có xu hướng ngày càng bị đánh giá cao 
hơn thực tế. Điều này đã tạo ra và tích luỹ những nhân tố gây mất ổn định và kìm hãm sự 
phát triển kinh tế. 
Do tỷ giá hối đoái thực tế giảm xuống, VND được đánh giá cao đã làm suy giảm 
sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam, làm cán cân thương mại và 
cán cân thanh toán chuyển trạng thái từ thặng dư năm 1991-1992 sang trạng thái thâm 
hụt, bắt đầu tích luỹ sự mất cân đối bên ngoài và dần chuyển sang gây mất ổn định và 
mất cân đối bên trong nền kinh tế. Bởi vì, về bản chất, tỷ giá hối đoái không chỉ tác động 
đến những vấn đề kinh tế đối ngoại mà nó còn tác động đến các vấn đề kinh tế đối nội 
thông qua sự tác động của tỷ giá đến thị trường tiền tệ và thị trường vốn. 
Tháng 7 năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực Đông Nam á đã 
làm cho một loạt đồng tiền của các nước trong khu vực giảm giá mạnh so với đồng USD 
và VND. Điều đó cũng có nghĩa là, VND đã bị đánh giá cao hơn nữa, trong bối cảnh các 
nước trong khu vực là bạn hàng chủ yếu và quan trọng của Việt Nam, đã làm cho xuất 
khẩu của Việt Nam giảm sút nhanh chóng. 
Môn tài chính quốc tế GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Nhóm 3 Trang 6 
Phân tích những nguyên nhân và bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ 
khu vực cho thấy, mặc dù thị trường tài chính – tiền tệ của Việt Nam chưa phát triển đầy 
đủ và mở cửa nên không bị kéo ngay vào làn sóng của cuộc khủng hoảng, nhưng Chính 
phủ và NHNN Việt Nam đã nhận thấy tính chất nghiêm trọng của ổn định chế độ tỷ giá 
danh nghĩa kéo dài – một nguyên nhân quan trọng tạo ra cuộc khủng hoảng nên đã có 
những biện pháp xử lý tương đối hợp lý, ngăn chặn được những cú sốc không cần thiết 
đối với nền kinh tế. Vì vậy tháng 10 năm 1997, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ 
giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ 
(+) (-) 5% lên (+) (-)10%. Nới rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị trường tăng 
mạnh. Mặc dù tỷ giá tăng, nhưng giá cả trên thị trường không có những biến động đáng 
kể. 
Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây đã có tác động tích cực đối với xuất 
khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu trong các năm 1997-1999, cán 
cân tài khoản vãng lai và cán cân thanh toán cũng giảm dần thâm hụt, mặc dù đầu tư 
nước ngoài suy giảm mạnh trong các năm này. Nhưng điều chỉnh tỷ giá như trên cũng có 
những tác động tiêu cực đến nền kinh tế, bởi vì khi VND giảm giá đã làm tăng thêm gánh 
nặng nợ nước ngoài của cả chính phủ và các doanh nghiệp có vốn vay nước ngoài, giảm 
đầu tư trực tiếp nước ngoài. 
Vì vậy có thể thấy rằng, đó cũng chính là cái giá phải trả khi lựa chọn chính sách 
tỷ giá thiên về cố định bằng cách duy trì sự ổn định của tỷ giá danh nghĩa quá lâu. Và một 
khi duy trì tỷ giá cố định càng dài thì cái giá phải trả càng lớn. 
Để tránh những hậu quả tương tự, chính sách tỷ giá phải được điều chỉnh linh 
hoạt, phản ánh đúng với quan hệ cung cấp về ngoại hối, sở thích của người tiêu dùng, lạm 
phát, lợi tức của tài sản nội, ngoại tệ để chống đỡ được các cú sốc của nền kinh tế. Vì 
vậy, từ năm 1999, NHNN chấm dứt công bố tỷ giá chính thức, mà chỉ công bố tỷ giá giao 
dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng, đồng thời biên độ giao dịch dao động cũng 
giảm xuống chỉ còn (+) (-) 0,1%. Việc can thiệp của Nhà nước đối với tỷ giá được thực 
hiện chủ yếu thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ của NHNN trên thị trường ngoại hối, 
xoá bỏ phương thức quản lý mang nặng tính chất hành chính chủ quan trước đây. Từ đó 
cho đến nay, tỷ giá hối đoái đã được hình thành theo cơ chế thị trường, bám sát sự biến 
động của thị trường thế giới, phản ánh tương đối sát quan hệ kinh tế quốc tế giữa đồng 
nội tệ và ngoại tệ, nên đã cải thiện cơ bản cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc 
tế của Việt Nam. 
II. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH TỶ 
GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM 
Hiện nay, việc hoạch định chính sách tiền tệ; trong đó việc xác định cho được định 
hướng cho chính sách tỷ giá hối đoái của đất nước đang gặp phải không ít khó khăn, nhất 
là sau khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO. Những khó khăn đó thường 
thể hiện: 
Môn tài chính quốc tế GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Nhóm 3 Trang 7 
Một là, những diễn biến khó lường về những thay đổi trong chính sách phát triển 
kinh tế của các nước trên thế giới; đặc biệt là với những nước có tiềm lực kinh tế mạnh 
nhất. Những thay đổi này lại gắn liền với những thay đổi về đường lối quân sự, chính trị 
và ngoại giao của các nước; nhất là những nước có vai trò rất quan trọng trong việc giải 
quyết các vấn đề mang tính toàn cầu. Thời gian gần đây, đi đôi với những khủng hoảng 
chính trị tại những nước “dầu hoả” là sự biến động liên tục của giá dầu mỏ, giá vàng làm 
cho giá của USD liên tục biến động. 
Hai là, Việt Nam thực hiện đổi mới kinh tế từ năm 1986, nhưng đến nay mới có 
tương đối đầy đủ quy chế của kinh tế thị trường. Do vậy, trước mắt, hàng loạt vấn đề 
đang đặt ra để các quy chế này có thể phát huy được tác dụng. Trong đó, việc cổ phần 
hoá các doanh nghiệp nhà nước (đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ tài chính - ngân hàng); 
cải cách hành chính quốc gia; điều chỉnh lại cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế; sửa đổi, bổ 
sung, thay thế, hoàn thiện toàn bộ hệ thống pháp luật... là những việc trọng tâm hàng đầu, 
là nền tảng cho hội nhập kinh tế quốc tế đạt được những mục tiêu đã đề ra trong Đại hội 
X của Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Ba là, tính minh bạch trong tài chính của các doanh nghiệp, tình trạng buôn bán 
lậu liễm, hiện tượng đầu cơ, nâng giá ép giá vẫn đang là những trở ngại lớn cho việc xác 
định đúng giá thành của nhiều loại hàng hoá - dịch vụ, kể cả các loại hàng hoá - dịch vụ 
thiết yếu cho đời sống của đại bộ phận dân chúng cũng làm méo mó việc xác định giá 
“mua” vào cũng như giá “bán” ra trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Theo đó, sức mua 
đối nội của đồng tiền quốc gia rất khó được xác định một cách hợp lý. Đặc biệt, trong 
điều kiện thị trường chứng khoán của Việt Nam chưa thực sự trở thành “kênh” dẫn vốn 
cho nền kinh tế mà vẫn đang còn là địa chỉ khá hấp dẫn cho các nhà “đầu tư’ cá thể tìm 
kiếm những khoản lợi nhuận khổng lồ theo kiểu “đánh bạc”. Tình trạng này đã làm sản 
sinh ra hiện tượng đầu tư thiếu tính toán mà chỉ trông đợi vào sự may rủi nên đã góp phần 
tạo ra các nguồn vốn “ảo”, lợi nhuận “ảo” tác động không tốt cho việc xác định “cung”, 
“cầu” thực trên thị trường. 
 Bốn là, một trong những khó khăn cho việc định hướng chính sách tỷ giá hối đoái 
là vẫn còn sự khác biệt đối với những quan niệm về tiền tệ, lạm phát tiền tệ, lãi suất, tỷ 
giá hối đoái trong kinh tế thị trường nên một số quan điểm về các vấn đề này được đưa ra 
làm cơ sở lý luận trong hoạch định chính sách là chưa chính xác. Năm 2004, khi đưa ra 
khái niệm “lạm phát cơ bản”, người ta đã kiến nghị bỏ nhóm hàng hoá thuộc lương thực 
thực phẩm. Việc loại bỏ nhóm hàng hoá này để xác định chỉ số giá cả đã không phản ảnh 
sức mua thực tế của đồng tiền; và như vậy đã làm méo mó sức mua đối ngoại của VND 
trong tương quan với sức mua của các ngoại tệ được sử dụng trong so sánh. 
III. MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO CHÍNH SÁCH TỶ 
GIÁ Ở VIỆT NAM: 
Trong thời gian qua chính sách tỷ giá hối đoái ở nước ta đã đóng góp những thành 
tựu đáng kể trong chính sách tài chính – tiền tệ như: hạn chế lạm phát, thực hiện mục tiêu 
hỗ trợ xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, tạo điều kiện ổn định ngân sách, ổn định 
tiền tệ. Tuy nhiên trong việc điều hành tỷ giá, Nhà nước vẫn còn thiếu những giải pháp 
Môn tài chính quốc tế GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Nhóm 3 Trang 8 
hữu hiệu trong từng giai đoạn để sử dụng công cụ tỷ giá một cách phù hợp. Như vậy phải 
có mục tiêu và định hướng rõ ràng để có giải pháp thích hợp. 
1. Mục tiêu: 
- Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại. 
- Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích 
thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu , cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ 
ngoại tệ. 
- Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành đồng 
tiền chuyển đổi. 
- Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hoá. 
2. Định hướng: 
Thứ nhất, tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước: trong xu 
thế toàn cầu hóa Việt Nam cần lựa chọn một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý để thích 
ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập vì chế độ tỷ 
giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu và tỷ giá này thích 
ứng với điều kiện toàn cầu hóa của thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà nước 
vẫn có thể quản lý được mức độ biến động của tỷ giá. 
Thứ hai, chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách 
hợp lý các doanh nghiệp trong nước. 
Thứ ba, kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo 
hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, nhưng 
mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so sánh để thỏa 
mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa. 
3. Giải pháp 
Một là, thường xuyên phân tích tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong nước 
để đề ra được chính sách TGHĐ phù hợp cho từng giai đoạn. 
Hai là, hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam: quản lý tốt dự trữ ngoại 
hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập 
khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và 
những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào 
can thiệp trên thị trường phải có hiệu qủa. Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ 
cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong 
dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi 
ro khi USD bị mất giá. Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này 
bao gồm việc giảm dần , tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước 
trong việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính trong kiểm soát 
ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sử dụng linh hoạt và hiệu 
Môn tài chính quốc tế GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Nhóm 3 Trang 9 
quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chủ động trong kinh doanh tiền tệ của các 
ngân hàng thương mại  
Ba là, hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam để tạo điều kiện cho việc thực 
hiện chính sách ngoại hối có hiệu qủa bằng cách mở rộng thị trường ngoại hối để các 
doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày một nhiều, 
tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ hạn và thị trường hoán chuyển để các 
đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tự bảo vệ mình. 
Bốn là, hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, điều kiện cần thiết để qua 
đó nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời qua đó thực 
hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước mắt cần có những biện pháp 
thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân 
hàng , song song đó phải củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy 
đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai 
khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng. 
Năm là, hoàn thiện cơ chế điều chỉnh TGHĐ Việt Nam: để đảm bảo cho tỷ giá 
phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên từng bước loại bỏ dần việc 
qui định khung tỷ giá với biên độ quá chặt của Ngân hàng nhà nước đối với các giao dịch 
của các NHTM và các giao dịch quốc tế. Ngân hàng Nhà nước chỉ điều chỉnh tỷ giá trên 
các phiên giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng và theo hướng có tăng có giảm để kích thích 
thị trường luôn sôi động và tránh hiện tượng găm giữ đô la. 
Sáu là, thực hiện chính sách đa ngoại tệ: hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc dù 
USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp 
dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là 
USD. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ 
tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi. 
Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao gồm một 
số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan 
hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như 
đồng EURO, yên Nhật vì hiện nay EU, Nhật là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của 
Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của 
TGHĐ danh nghĩa. 
Bảy là, nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam: nâng cao sức mạnh cho đồng tiền 
Việt Nam bằng các giải pháp kích thích nền kinh tế như: hiện đại hoá nền sản xuất trong 
nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường 
thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông 
nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng  
Tám là, sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, chính phủ 
phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả 
được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị 
trường chứ không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của Chính phủ. 
Môn tài chính quốc tế GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Nhóm 3 Trang 10 
Chín là, phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ giá 
đạt hiệu quả cao. Chính sách tiền tệ được thực hiện qua 3 công cụ: lãi suất tái chiết khấu, 
dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Tuy nhiên, NVTTM nội tệ là công cụ 
quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, vì vậy nó quyết định 
đến sự thành bại của chính sách tiền tệ quốc gia, bên cạnh đó nó còn tham gia tích cực 
vào việc hỗ trợ chính sách tỷ giá khi cần thiết. Chẳng hạn khi phá giá sẽ tăng cung nội tệ, 
dẫn đến nguy cơ tạo ra lạm phát. Để giảm lạm phát người ta tiến hành bán hàng hóa giao 
dịch trong thị trường mở nội tệ, từ đó làm giảm cung nội tệ và lạm phát do đó cũng giảm 
theo. 
Đối với chính sách tài chính tiền tệ, tăng cường sử dụng nguồn vốn trong nước để 
bù đắp thiếu hụt ngân sách, phương án tốt nhất để thực hiện bù đắp thâm hụt ngân sách 
nhà nước là bằng vốn vay trong nước, hạn chế tối đa việc vay nợ nước ngoài. 
Môn tài chính quốc tế GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Nhóm 3 Trang 11 
KẾT LUẬN 
Nói tóm lại, để có được một định hướng đúng cho chính sách tỷ giá hối đoái, trước 
hết cần nhận biết được một cách chính xác vai trò của chính sách tỷ giá với tư cách là 
một trong những công cụ tiền tệ quan trọng nhất, đồng thời cũng là một trong những công 
cụ mà việc xác định nó luôn phải tính đến rất nhiều các nhân tố tác động từ trong nước 
cũng như từ ngoài nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế cũng như tình 
hình diễn biến trong đời sống chính trị của thế giới. 
Trong kinh tế thị trường, tỷ giá hối đoái là một trong những công cụ tiền tệ quan 
trọng nhất của chính sách tiền tệ quốc gia. Việc nghiên cứu một cách đầy đủ vai trò, đặc 
điểm của tỷ giá hối đoái để có thể xác định được cho nó một định hướng phù hợp luôn là 
một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngân hàng trung ương của các quốc gia trên 
thế giới. Trong giới hạn của bài tiểu luận này, nhóm chúng tôi chỉ đưa ra những vấn đề 
chung nhất về tỷ giá hối đoái. Rất mong cô vá các bạn đóng góp ý kiến để bài tiểu luận 
vừa mang tính nghiên cứu lý thuyết, vừa là một nghiên cứu có thể ứng dụng vào thực tiễn 
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 
Môn tài chính quốc tế GVHD: TS Nguyễn Thị Liên Hoa 
Nhóm 3 Trang 12 
Mục lục Trang 
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI...1 
I. CÁC LOẠI HỆ THỐNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.....1 
II. CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ TRONG HỆ THỐNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CÓ 
QUẢN LÝ. .......3 
III. VAI TRÒ CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI......4 
PHẦN II: CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM: MỤC TIÊU 
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP....5 
I. THỰC TIỄN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM QUA CÁC 
GIAI ĐOẠN ...5 
II. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ 
HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM....6 
III. MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở 
VIỆT NAM..7 
KẾT LUẬN..11 
Mục lục12 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_tac_dong_cua_chinh_phu_doi_voi_ty_gia_hoi_doai.pdf