Tiểu luận Tăng cường hiệu quả quản lý và sử dụng và hoàn trả nợ nước ngoài tránh nguy cơ khủng hoảng nợ

pdf 36 trang yenvu 09/05/2024 1260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tăng cường hiệu quả quản lý và sử dụng và hoàn trả nợ nước ngoài tránh nguy cơ khủng hoảng nợ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tăng cường hiệu quả quản lý và sử dụng và hoàn trả nợ nước ngoài tránh nguy cơ khủng hoảng nợ

Tiểu luận Tăng cường hiệu quả quản lý và sử dụng và hoàn trả nợ nước ngoài tránh nguy cơ khủng hoảng nợ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN 
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC 
   
 TIỂU LUẬN 
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 
Đề tài: TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VÀ KHẢ 
NĂNG HOÀN TRẢ NỢ NƯỚC NGOÀI TRÁNH NGUY CƠ KHỦNG 
HOẢNG NỢ 
Thực hiện : Nhóm 9 – TCNH – CH21E 
Trần Diệu Hương 
Nguyễn Thị Huyền 
Trịnh Bá Thùy 
Tạ Thanh Tú 
Nguyễn Thị Trang 
HÀ NỘI, THÁNG 01- 2013 
LỜI MỞ ĐẦU 
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đang chồng chất lên vai các quốc gia gánh nặng 
nợ nần do họ phải đi vay để chi tiêu và giải cứu nền kinh tế. Hy Lạp đã chìm ngập trong 
khủng hoảng nợ, kéo theo nhiều nước trong khu vực đồng tiền chung Euro cũng có nguy cơ 
rơi vào khủng hoảng nợ. Mức độ nợ của Việt Nam nếu tính trên GDP thì đang được đánh 
giá là vẫn ở mức an toàn. Tuy nhiên tấm gương khủng hoảng nợ của Argentina vẫn còn rất 
rõ ràng, mặc dù tỷ lệ nợ/GDP của Argentina còn thấp hơn so với ngưỡng an toàn nhưng do 
quản lý và sử dụng kém hiệu quả nên vẫn rơi vào khủng hoảng nợ. 
Vì thế, vấn đề cấp thiết đặt ra cho Việt Nam hiện nay là phải thực hiện quyết liệt việc 
nâng cao hiệu quả trong quản lý và sử dụng nguồn vốn vay từ nước ngoài để tránh nguy cơ 
rơi vào khủng hoảng nợ. Chính vì thế nhóm 9 đã tìm hiểu đề tài: “Tăng cường hiệu quả 
quản lý và sử dụng và hoàn trả nợ nước ngoài tránh nguy cơ khủng hoảng nợ”. 
Nội dung chính bao gồm 3 phần: 
 Phần 1: Tổng quan về nợ nước ngoài 
 Phần 2: Thực trạng quản lý và sử dụng nợ nước ngoài của Việt Nam 
 Phần 3: Các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nợ nước ngoài của Việt 
Nam. 
Mặc dù nhóm đã rất cố gắng tìm hiểu để thực hiện đề tài một cách tốt nhất, song vẫn 
không thể tránh khỏi thiếu sót. Nhóm em rất mong nhận được sự góp ý của cô để có thể 
hoàn thiện thêm đề tài này. 
Nhóm em xin chân thành cảm ơn cô! 
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI 
1.1 Khái niệm về nợ nước ngoài 
Theo khái niệm thông thường: nợ nước ngoài là tổng số tiền mà 1quốc gia có trách 
nhiệm và bị ràng buộc phải thanh toán cho các chủ thể có quyền sở hữu chính thức đối với 
khoản tiền đó. 
Đối với Việt Nam, Nợ nước ngoài là các khoản vay ngắn hạn, trung han hoặc dài hạn 
(có hoặc ko phải trả lãi) do Nhà nước VN, Chính phủ VN, hoặc DN là pháp nhân VN, kể cả 
DN có vốn ĐTNN vay của tổ chức quốc tế, của CP, của ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ 
chức và cá nhân nước ngoài khác (bên cho vay nước ngoài). 
Theo Khoản 8 Điều 2 Quy chế vay và trả nợ nước ngoài (Ban hành kèm theo Nghị định 
số 134/2005/NĐ-CP ngày 1 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ) thì: “Nợ nước ngoài của 
quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả 
nợ gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài tại Việt Nam. Nợ nước ngoài 
của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước ngoài của khu vực tư 
nhân”. 
 Nợ nước ngoài của khu vực công: bao gồm nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ nước 
ngoài (nếu có) của chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nợ nước ngoài 
của các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức tài chính, tín dụng nhà nước và các tổ chức 
kinh tế nhà nước trực tiếp vay nước ngoài. 
 Nợ nước ngoài của Chính phủ: là số dư mọi nghĩa vụ nợ hiện hành (không bao gồm 
nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài 
của Chính phủ. 
 Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân: là nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức 
kinh tế thuộc khu vực tư nhân. 
 Nghĩa vụ nợ dự phòng: là các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn, hiện tại chưa phát sinh nhưng có thể 
phát sinh khi xảy ra một trong các điều kiện đã được xác định trước (ví dụ: khi người được 
bảo lãnh không trả được một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ nợ, bị phá sản ). 
Như vậy, theo cách hiểu này nợ nước ngoài là tất cả các khoản vay mượn của tất cả các 
pháp nhân Việt Nam đối với nước ngoài và không bao gồm nợ của các thể nhân (nợ của cá 
nhân và hộ gia đình). 
Trong cuốn Thống kê nợ nước ngoài: Hướng dẫn tập hợp và sử dụng do nhóm công tác 
liên ngành của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì khái niệm nợ nước ngoài được hiểu như sau: 
“Tổng nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào là số dư nợ của các công nợ thường xuyên 
thực tế, không phải công nợ bất thường, đòi hỏi bên nợ phải thanh toán gốc và/hoặc lãi tại 
một (số) thời điểm trong tương lai, do đối tương cư trú tại một nền kinh tế nợ đối tượng 
không cư trú”. Theo khái niệm này, khái niệm nợ nước ngoài không tách rời khái niệm đối 
tượng cư trú. 
Như vậy xét về bản chất không có sự khác biệt đáng kể trong định nghĩa nợ nước ngoài 
của quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên định nghĩa về nợ nước ngoài của quốc tế rõ ràng hơn. 
1.2 Phân loại nợ nước ngoài 
Việc phân loại nợ nước ngoài có một vai trò quan trọng trong việc công tác theo dõi, 
đánh giá và quản lý nợ có hiệu quả. 
 Phân loại theo chủ thể đi vay: nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh, nợ tư 
nhân. 
- Nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh 
 Nợ công được định nghĩa là các nghĩa vụ nợ của các khu vực công và bao gồm nợ của 
khu vực công cùng với nợ của khu vực tư nhân được khu vực công bảo lãnh. 
 Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh được xác định là các 
công nợ nước ngoài của khu vực tư nhân mà dịch vụ trả nợ được bảo lãnh theo hợp đồng 
bởi một đối tượng thuộc khu vực công cư trú tại cùng một nền kinh tế với bên nợ đó. 
- Nợ tư nhân 
 Loại nợ này bao gồm nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được khu vực công của 
nền kinh tế đó bảo lãnh theo hợp đồng. Về bản chất đây là các khoản nợ do khu vực tư nhân 
tự vay, tự trả. 
 Phân loại theo thời hạn vay: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. 
- Nợ ngắn hạn 
Nợ ngắn hạn là loại nợ có thời gian đáo hạn từ một năm trở xuống. Vì thời gian đáo hạn 
ngắn, khối lượng thường không đáng kể, nợ ngắn hạn thường không thuộc đối tượng quản 
lý một cách chặt chẽ như nợ dài hạn. Tuy nhiên nếu nợ ngắn hạn không trả được sẽ gây mất 
ổn định cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt khi tỷ trọng nợ ngắn hạn trong tổng nợ có xu 
hướng tăng phải hết sức thận trọng vì luồng vốn rút ra đột ngột có thể gây bất ổn cho nền tài 
chính quốc gia. 
- Nợ dài hạn 
Nợ dài hạn là những công nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng hoặc đã gia hạn 
kéo dài trên một năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày đến hạn khoản thanh toán cuối 
cùng. Nợ dài hạn là loại nợ được quan tâm quản lý nhiều hơn do khả năng tác động lớn đến 
nền tài chính quốc gia. 
 Phân loại theo loại hình vay: vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay thương 
mại 
- Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) 
Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD), hỗ trợ phát triển 
chính thức bao gồm các chuyển khoản song phương (giữa các Chínhphủ) hoặc đa phương 
(từ các tổ chức quốc tế cho Chính phủ), trong đó ít nhất 25% tổng giá trị chuyển khoản là 
cho không phát triển chính thức đôi khi kèm theo những điều kiện ràng buộc khiến cái giá 
phải trả tăng lên đáng kể. 
- Vay thương mại: Khác với vay hỗ trợ phát triển chính thức, vay thương mại không có 
ưu đãi cả về lãi suất và thời gian ân hạn, lãi suất vay thương mại là lãi suất thị trường tài 
chính quốc tế và thường thay đổi theo lãi suất thị trường. Chính vì vậy, vay thương mại 
thường có giá khá cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc vay thương mại của Chính phủ phải 
được cân nhắc hết sức thận trọng và chi quyết định vay khi không còn cách nào khác. 
 Phân loại nợ theo chủ thể cho vay: 
 Nợ đa phương và nợ song phương. Nợ đa phương đến chủ yếu từ các cơ quan của 
Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), các ngân hàng phát 
triển trong khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC và liên chính phủ. Trong khi đó, nợ 
song phương đến từ Chính phủ một nước như các nước thuộc tổ chức OECD và các nước 
khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một Chính phủ duy nhất dưới dạng hỗ trợ 
tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật. 
1.3 Vai trò của nợ nước ngoài 
1.3.1 Đối với kinh tế - xã hội trong nước 
 Tác động tích cực 
- Vay nợ nước ngoài tạo ra nguồn vốn bổ sung cho quá trình tăng trưởng và phát triển 
kinh tế. Đối với các nước đang phát triển đang trong quá trình công nghiệp hóa và thực hiện 
công cuộc xóa đói giảm nghèo thì việc vay nợ nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong 
thực hiện mục tiêu đó. 
- Góp phần hỗ trợ các nước vay nợ tiếp thu được công nghệ tiên tiến, học hỏi được 
kinh nghiệm quản lý của các nhà tài trợ nước ngoài. Do trình độ phát triển kinh tế- xã hội và 
gióa dục khoa học ở các nước đang phát triển rất thấp cho nên các nước này ít có khả năng 
phát triển công nghệ mới. Trong điều kiện đó, các nguồn công nghệ hiện đại được đưa vào 
thông qua nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đóng vai trò quan trọng: IDC Việt Nam 
đã dẫn số liệu thống kê trong một nghiên cứu mới nhất của Tập đoàn dữ liệu quốc tế (IDC), 
mang tựa đề "Dự báo và phân tích xu hướng công nghệ thông tin, viễn thông Myanmar năm 
2012 - 2016: Tổng quan về cơ hội công nghệ thông tin, viễn thông sắp tới". Dự báo tổng giá 
trị trường công nghệ thông tin sẽ đạt 268,45 triệu đô la Mỹ vào năm 2016, tương ứng tỷ lệ 
tăng trưởng trung bình hằng năm (CAGR) là 14% trong giai đoạn 2011-2016. 
- Việc vay nợ nước ngoài làm tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong 
nước, góp phần thu hút, mở rộng các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế ở các nước phát 
triển. Phần lớn các nguồn vốn vay nợ nước ngoài được đầu tư để xây dựng, cải tạo, nâng 
cấp cơ sở hạ tầng, hoàn thiện hệ thống luật pháp và các chính sách kinh tế của các nước đi 
vay, tăng cường năng lực quản lý, do đó góp phần làm tăng mức độ hấp dẫn của môi trường 
đầu tư của các nước con nợ. Đối với các nước đang phát triển, do tỉ lệ tích lũy trong nước 
thấp cho nên nguồn vốn sử dụng cho hoạt động xây dựng cơ bản, hoàn thiện khung pháp lý 
chủ yếu dựa vào nguồn hỗ trợ từ bên ngoài. 
- Việc vay nợ nước ngoài còn là yếu tố góp phần chuyển đổi, hoàn thiện cơ cấu kinh 
tế, đưa nền kinh tế tham gia tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế và góp phần 
cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Việc vay nợ thường được tập trung vào việc giải quyết 
những vấn đề cấp bách đặt ra cho nền kinh tế, đặc biệt là phát triển ngành công nghệ cao, 
các ngành cần vốn đầu tư lớn, hình thành nền tảng cho việc phát triển những ngành mũi 
nhọn, các ngành có lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh quốc tế cao. Việc vay vốn nước 
ngoài còn giúp vào việc bù đắp sự thâm hụt trong cán cân này nhằm bảo đảm cân bằng đối 
ngoại của các quốc gia. 
- Giúp thu hút lao động, tạo việc làm, giải quyết một phần nạn thất nghiệp 
 Những hạn chế 
- Các khoản vay có thể làm tăng gánh nặng nợ nần cho đất nước trong tương lai. Một 
nền kinh tế phát triển hướng ngoại đến mức phụ thuộc rất lớn vào các nguồn lực bên ngoài 
sẽ không được coi là một nền kinh tế phát triển bền vững. Nếu đầu tư không hiệu quả thì 
không những hoạt động đầu tư đó không mang lại hiệu quả theo mục tiêu định trước mà còn 
làm mất thêm phần của cải mà xã hội tạo ra. Hậu quả là nợ nước ngoài sẽ làm cho mức sống 
dân cư của nước con nợ vốn đã thấp lại càng thấp hơn và uy tín của quốc gia sẽ bị giảm sút 
trong các quan hệ quốc tế. 
- Việc vay nợ nước ngoài nhiều sẽ làm giảm trách nhiệm của Chính phủ và dân cư. 
Khi xuất hiện nhu cầu về vay vốn nước ngoài, thay vì việc khai thác các nguồn nội lực, các 
Chính phủ đi vay sẽ dễ dàng chọn phương án dựa vào các nguồn ngoại lực. Ngoài ra, sau 
khi vay được nguồn vốn nước ngoài, các nước đang phát triển và kém phát triển lại chi tiêu 
một cách lãng phí. 
- Việc vay nợ tràn lan không được tính toán kĩ lưỡng còn có thể gây ra sự phụ thuộc 
của nước con nợ vào nước chủ nợ. Các khoản nợ nước ngoài nhất là các khoản vay hỗ trợ 
phát triển chính thức (ODA) luôn kèm theo những điều kiện ràng buộc về mục đích sử 
dụng, nguồn cung ứng, thời hạn 
- Nguồn vốn đi vay nếu được sử dụng không có hiệu quả có thể dẫn đến tình trạng sử 
dụng lãng phí nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi trường và còn gây ra tình trạng nợ nần trong 
tương lai. Như vậy việc vay nợ tràn lan sẽ làm cho các nước đang và kém phát triển phá hủy 
tài nguyên hữu hạn của mình, đánh mất lợi thế vốn có khi tham gia vào phân công lao động 
quốc tế. 
- Gây ra sự phân hóa, tăng khoảng cách phát triển giữa các vùng và giữa các tầng lớp 
dân cư với nhau, bất ổn xã hội càng lớn. 
- Có thể làm tăng các vấn đề về tệ nạn xã hội, dịch bệnh. 
1.3.2 Đối với việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại 
Việc vay nợ nước ngoài góp phần thúc đẩy các quan hệ hợp tác và ràng buộc chặt chẽ 
giữa các quốc gia với nhau. Trước hết, đó là các quan hệ ràng buộc về mặt pháp lý giữa các 
quốc gia. Không phải các quốc gia nào cũng có thể dễ dàng vay nợ nước ngoài. Việc vay nợ 
thường kéo theo những cam kết chặt chẽ về mặt chính sách, tài sản hoặc các ràng buộc khác 
mà những cam kết này thường dễ dẫn các nước đi vay rơi vào tình trạng phụ thuộc vào các 
nước cho vay. Điều này đòi hỏi các nước đi vay phải có chiến lược vay nợ hợp lý. Đồng 
thời, các nước này cũng cần điều chỉnh các chính sách để phục vụ có hiệu quả cho việc vay 
trả nợ nước ngoài. Đây là quá trình gắn bó có hiệu quả các quan hệ kinh tế trong nước với 
các quan hệ kinh tế với bên ngoài, thúc đẩy việc phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, 
mở rộng quá trình hội nhập nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới. 
1.4 Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài 
1.4.1. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ nước ngoài 
Để đánh giá mức độ nợ của nước ngoài, các chỉ tiêu thường được các tổ chức quốc tế 
thường dùng là: 
 Khả năng hoàn trả nợ vay nước ngoài 
Tổng nợ/Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá dịch vụ: Chỉ tiêu này biểu diễn tỷ lệ nợ 
nước ngoài bao gồm nợ tư nhân, nợ được Chính phủ bảo lãnh trên thu nhập xuất khẩu hàng 
hoá và dịch vụ. Ý tưởng sử dụng chỉ tiêu này là nhằm phản ánh nguồn thu xuất khẩu hàng 
hoá và dịch vụ là phương tiện mà một quốc gia có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài. Những 
khó khăn khi sử dụng chỉ tiêu này là: Nguồn thu xuất khẩu dễ biến động từ năm này sang 
năm khác, ngoài ra cũng có những phương án khác để nước con nợ có thể sử dụng để trả nợ 
nước ngoài mà không nhất thiết phải tăng xuất khẩu. 
 Tỷ lệ nợ nước ngoài so với thu nhập quốc gia 
Nợ/GNI: Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ thông qua thu nhập quốc dân được 
tạo ra. Hay nói cách khác, nó phản ánh khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài. 
Thông thường các nước đang phát triển thường đánh giá cao giá trị đồng nội tệ hoặc 
sử dụng chế độ đa tỷ giá dẫn tới làm giảm tình trạng trầm trọng của nợ. Do vậy, tình trạng 
nợ có thể không được đánh giá đúng mức. 
 Tỷ lệ trả nợ 
Tổng nợ phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch vụ nợ (nợ 
gốc và lãi phải thanh toán so với giá trị xuất khẩu). Đây là một tiêu chí quan trọng, phản ánh 
quan hệ giữa nghĩa vụ nợ phải trả so với năng lực xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của quốc 
gia đi vay. 
 Tỷ lệ trả lãi 
Tổng lãi phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch vụ lãi hay 
tỷ lệ giữa tổng lãi phải trả so với kim ngạch xuất khẩu. Một quốc gia phải thanh toán lãi với 
mức lãi suất được quy định trong cam kết cho vay, thông thường lãi này được trích từ thu 
nhập xuất khẩu. Quốc gia mắc nợ trong quá khứ thì hiện tại và tương lai họ sẽ trích thu nhập 
từ xuất khẩu càng nhiều, hạn chế khối lượng ngoại tệ dành cho nhập khẩu. Đây là chỉ tiêu 
tốt nhất để đánh giá nợ vì không đề cập đến gánh nặng nợ mà còn chỉ ra chi phí vay nợ, điều 
này ngầm hiểu như hiệu quả sử dụng vốn vay có cao hơn chi phí lãi vay hay không. 
1.4.2 Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ nước ngoài 
Cơ cấu nợ hàm chứa những thông tin quan trọng về mức độ rủi ro của việc vay nợ. 
Thông thường rủi ro sẽ cao khi tỷ trọng nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ thương mại và tỷ lệ nợ 
song phương cao. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu gồm: 
- Nợ ngắn hạn/Tổng nợ: Phản ánh tỷ trọng các khoản nợ cần thanh toán trong thời 
gian nhỏ hơn một năm trong tổng nợ. Tỷ lệ này càng cao, áp lực trả nợ càng lớn. 
- Nợ ưu đãi/Tổng nợ: Tỷ lệ này càng cao, gánh nặng nợ nước ngoài càng nhẹ. 
- Nợ đa phương/Tổng nợ: Các khoản nợ đa phương thường nhằm mục đích hỗ trợ, ít 
mưu cầu về lợi nhuận, do đó việc tăng cường nợ đa phuơng trong tổng nợ phản ánh tình 
hình nợ nước ngoài của một nước thay đổi theo chiều hướng tốt. 
PHẦN II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VÀ HOÀN TRẢ NỢ NƯỚC 
NGOÀI CỦA VIỆT NAM 
2.1. Thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam 
2.1.1 Quy mô nợ 
Trong cơ cấu nợ công Việt Nam thì có tới 30% vay nợ nước ngoài và 70% nợ nội 
địa. Theo Bản tin nợ nước ngoài số 7 do Bộ Tài chính vừa ban hành, Yên Nhật là đồng tiền 
vay chính của Việt Nam. Tổng dư nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ bảo 
lãnh năm 2010 hơn 32,5 tỷ USD, tăng 4,6 tỷ USD so với năm 2009. Trong đó, nợ của Chính 
phủ là 27,86 tỷ USD, bằng 85,7% tổng dư nợ. 
So với GDP 2010, tổng dư nợ nước ngoài chiếm 42,2%, tăng so với con số 39% của 
năm 2009. Đây cũng là tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP lớn nhất từ 2006. Trong cơ cấu nợ nước 
ngoài, nợ của khu vực công chiếm phần lớn và chiếm tới 31,1% GDP 2010. 
Cũng theo bản tin này, dự trữ ngoại hối năm 2010 chỉ bằng 187% tổng dư nợ ngắn 
hạn. Trong khi đó, con số này của năm 2009 là 290%, năm 2008 la 2.808% và năm 2007 lên 
tới 10.177%. 
Các khoản vay của nước ta chủ yếu có lãi suất cố định từ 1 - 2,99%/năm. Tuy nhiên, 
khoản vay có lãi suất cao từ 6 - 10%/năm trong năm 2010 đạt 1,89 tỷ USD, gấp hơn 2 lần 
năm 2009. 
Các chủ nợ chính của Chính phủ Việt Nam là Nhật Bản, Pháp, ADB, IDA... Trong 
đó, số nợ với những đơn vị nắm giữ trái phiếu Việt Năm năm 2010 đã tăng lên hơn 2 tỷ 
USD so với hơn 1 tỷ USD của năm 2009. 
Cũng theo bản tin này, tổng trả nợ 2010 của nước ta đạt 1,67 tỷ USD (con số năm 
2009 là 1,29 tỷ USD), trong đó trả nợ lãi và phí là 616,2 triệu USD. 
- Tổng NNNG / GDP = 41.5 % (Nguồn: Bộ Tài Chính) tính đến 31/12/2011 
- Tổng NNNG khu vực công/GDP >30% (Khu vực chính phủ và được chính 
phủ bảo lãnh. 
- So với GDP tỷ lệ NNNG tăng chậm đến 2007 và giảm xuống chạm đáy vào 2008 là 
25.1%. Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng TC từ Mỹ lan dần ra toàn thế giới, 
các nguồn vay trở nên khó khăn hơn hay bị cắt giảm đáng kể trong khi GDP vẫn 
tăng nhẹ. 
- Tuy nhiên, cùng với nhu cầu phục hồi kinh tế thế giới thì lượng vốn vay đã tăng trở 
lại do các nhà đầu tư tin tưởng hơn và cũng phải kể đến những nỗ lực của chính phủ 
trong mối quan hệ song , đa phương. 
- Nhưng từ 2010 đến nay tỷ lệ NNN có xu hướng giảm: 1 phần do GDP vẫn tăng 
trưởng mức 5%, ngoài ra tỉ lệ giải ngân ngày một thấp hơn do ... nc ta chuyển từ nc 
nghèo lên trung bình mức cam kết tài trợ giảm dần. Một nguyên nhân nữa do dự trữ 
ngoại hối đang trong těnh trạng thấp 187% so với 
- Như vậy việc nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn nằm trong phạm vi giới hạn an toàn 
theo Nghị quyết của Quốc hội (kiểm soát dư nợ công đến năm 2015 dưới 65% 
GDP, nợ Chính phủ, nợ quốc gia dưới 50% GDP). 
- “Theo đánh giá của các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF, Việt Nam là nước 
có mức nợ nằm trong tầm kiểm soát và không nằm trong nhóm các nước có gánh 
nặng về nợ (HIPCs)”- Bộ Tài chính cho biết.Theo Ngân hàng Thế giới (tài liệu 
dùng cho cuộc họp Hội nghị các nhà tài trợ ngày 7 tháng 12 năm 2010),. Như vậy 
nợ công theo cách tính của Việt Nam nằm vào ranh giới của ngưỡng an toàn 50 %. 
2.1.2 Cơ cấu nợ 
a) Theo chủ nợ: 
Nợ song phương và nợ đa phương chiếm tỷ trọng tuyệt đối. Theo báo cáo 
31/12/2010 nợ song phương là 46,66%, nợ đa phương là 44,59%, người nắm giữ trái 
phiếu 7,26%, các ngân hàng thương mại 1,2 %, các chủ tư nhân khác là 0,3%. 
 Chủ nợ song phương (Đơn vị: Triệu USD) 
 2005 2006 2007 2008 2009 
Angeri 158.3 127.82 96.71 42.6 66.6 
Trung Quốc 128.25 141.53 169.94 186.41 359.08 
Nhật Bản 3,945.55 4,526.02 5,449.99 6,773.66 8,290.94 
Hàn Quốc 123.38 136.03 133.28 113.55 186.48 
Hoa Kỳ 103.68 100.46 97.24 94.02 92.06 
Pháp 676.05 784.03 1,009.36 911.72 1,112.52 
Nga 641.21 636.54 626.3 607.45 589.09 
Tổng 5776.42 6452.43 7582.82 8729.41 10696.77 
o Trong số 28 nhà tài trợ song phương thường xuyên thì Nhật Bản luôn là 
nhà tài song phương lớn nhất cho VN trong hơn 17 năm qua. So sánh với 
các chủ nợ khác thì Nhật Bản là chủ nợ lớn hơn hẳn. Xét về mặt quan hệ 
ngoại giao dễ dàng nhận thấy Đảng và Nhà nước ta xác định Nhật Bản là 
đối tác quan trọng nhất và lâu dài. Mặt khác Nhật Bản cũng coi Việt Nam 
là đối tác chiến lược lâu dài đảm bảo lợi ích cho cả 2 bên. 
o Bên cạnh đó Pháp, Trung Quốc liên tục cho Việt Nam vay với số lượng 
ngày một lớn hơn trong việc tăng cường quan hệ về mọi mặt giữa 2 bên. 
 Chủ nợ đa phương (Đơn vị: Triệu USD) 
o Khác với nợ song phương để đánh giá xu hướng ngoại giao thì nợ đa 
phương phản ánh uy tín của một quốc gia trong khu vực nói riêng và trên 
trường quốc tế nói chung. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tổng lượng 
cho vay của các tổ chức trên thế giới cho Việt Nam vay ngày một tăng 
chứng tỏ uy tín của Việt Nam đang ngày một cải thiện. 
1 (
N
g
N
g
â
n
H
à
n
g
l
à
t
tên dùng cho Ngân Hàng Quốc Tế về Tái Thiết và Phát Triển (IBRD) và Hiệp 
Hội Phát Triển Quốc Tế (IDA). Hiệp hội này là quỹ tín thác do IBRD quản lý 
để cung cấp các khoản vay không lãi suất và trợ cấp cho các quốc gia nghèo 
nhất trên thế giới. Các tổ chức này cùng cung cấp các khoản vay với lãi suất 
thấp, tín dụng không tính lãi suất, và tiền trợ cấp cho các quốc gia đang phát 
triển.) Trong nhiều năm qua, ngân hàng thế giới trong đó chủ yếu là IDA luôn là 
tổ chức lớn nhất cho Việt Nam vay, tiếp đó là Ngân Hàng Phát Triển Châu Á 
(ADB) với lượng vốn cho vay ngày càng tăng. 
b) Theo chủ thể đi vay 
 Nợ nước ngoài của chính phủ và được chính phủ bảo lãnh 2005-2010 chiếm tỉ trọng 
lớn (Nguồn:Bộ Kế hoạch-Đầu tư) 
 2006 2007 2008 2009 2010 
ADB 2009.66 2421.22 2623.58 3860.99 4174.44 
IBRD 700 
IDA 3593.14 4608.97 4863.11 6441.29 6930.41 
IFAD 77.04 90.94 95.49 115.96 128.38 
IMF 188.54 170.58 135.58 92.78 50.01 
NDF 14.07 16.63 17.22 31.97 30.77 
NIB 184.12 204.79 231.88 241.15 223.16 
OPEC 33.55 37.69 40.15 46.12 52.71 
EIB 48.09 68.62 131.33 
Tổng 6100.11 7550.82 8048.07 10898.98 12421.25 
 Vốn vay nước ngoài của các vùng, miền 
Từ đồ thị trên ta thấy nguồn vốn vay của địa phương chủ yếu là ở khu vực đồng bằng 
Bắc Bộ(34,4%).Nó phù hợp với quy hoạch phát triển vùng,miền trên địa bàn cả nước vì khu 
vực này có tiềm năng kinh tế lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả. 
 Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân: Tập trung hầu hết ở khu vực các doanh nghiệp 
FDI . Các dn này vay nước ngoài từ công ty mẹ hoặc từ ngần hàng FDI. Về con số 
tuyệt đối, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, dư nợ cuối kỳ vay vốn nước 
ngoài của DN FDI năm 2009 là 4.275 triệu USD, năm 2010 là 4.545 triệu USD và 9 
tháng đầu năm 2011 là 4.800 triệu USD. giai đoạn 2009 - 2011, mức vay trung, dài 
hạn nước ngoài của các DN FDI chiếm 50 - 60% trong tổng số vốn vay trung, dài 
hạn nước ngoài không có bảo lãnh của Chính phủ. 
Tỷ trọng nợ nước ngoài của khu vực chính phủ bảo lãnh và khu vực tư nhân có xu 
hướng tăng. Nguyên nhân là do các chủ thể đi vay năng động, chủ động hơn trong việc tiếp 
cận với nguồn vốn vay. Nó là tín hiệu tốt của giai đoạn tiếp theo trong quá trình hội nhập 
sâu của Việt Nam. 
c) Theo thời hạn đi vay 
Theo Bộ Tài chính, phần lớn các khoản vay nước ngoài của Chính phủ là các khoản vay 
có thời gian dài, từ 20-40 năm, thời gian ân hạn từ 5-10 năm, lãi suất khoảng từ 0,75%-
2,5%/năm. Điển hình là các khoản vay của: 
- WB có thời hạn 40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn, mức lãi suất là 0,75%/năm; 
- Các khoản vay của ADB có thời hạn 30 năm, 10 năm ân hạn, lãi suất 1%/năm; 
Các khoản vay của 
- Nhật Bản có thời hạn 30 năm, 10 năm ân hạn và mức lãi suất khoảng từ 1 đến 
2%/năm). 
Trong cơ cấu, nợ ngắn hạn chỉ chiếm khoảng 2 tỉ USD tương đương khoảng 6% 
NNN khu vực công 
d) Theo hình thức vay 
 Vay nợ ODA: Vốn hỗ trợ phát triển cho đến cuối năm 2011, tổng số tài trợ cam kết 
cho Việt Nam lên đến hơn 64 tỷ USD, số giải ngân hơn 34 tỷ, chiếm 53% tổng số 
ODA cam kết (theo Vụ Kinh Tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch Đầu tư). Theo hình thức 
vay: ODA chiếm 75%, vay thương mại (ngoài ODA) và các khoản vay khác chiếm 
25% 
Từ 1993-2010, tổng vốn ODA được các nhà tài trợ cam kết dành cho VN đạt tới hơn 64 
tỉ USD. Riêng các nhà tài trợ tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho VN (CG) năm 
2010 vào đầu tháng 12.2010 là 7,88 tỉ USD, năm 2011 mặc dù ký cam kết trên 8 tỉ usd 
nhưng giải ngân được khoảng 3.6 tỉ USD. Trong số 51 nhà tài trợ thường xuyên, có 28 
song phương và 23 đa phương, chủ yếu là Nhật Bản,Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân 
hàng Phát triển châu Á (ADB), chiếm khoảng 80% tổng giá trị ODA đã ký kết. Nhật Bản, 
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế 
(IMF), các tổ chức của Liên Hợp Quốc (UN), các tổ chức phi chính phủ (NGO) và nhiều 
nhà tài trợ song phương khác.Nhật Bản đang là nhà tài song phương lớn nhất cho VN trong 
hơn 17 năm qua (trong 7,88 tỉ USD vốn cam kết đầu tháng 12.2010, Nhật Bản có mức cam 
kết là 1,76 tỉ USD). WB giữ vị trí là nhà cung cấp ODA đa phương lớn nhất. Mức cam kết 
trong hội nghị tháng 12.2010 đạt tới 2,6 tỉ USD. ADB là 1,5 tỉ USD. 
Số liệu Cam kết, ký kết, giải ngân qua các năm. 
Lượng ODA hằng năm vẫn ngày một tăng. Tỷ lệ ODA được giải ngân so với cam kết 
ban đầu có xu hướng tăng nhẹ. Cụ thể năm 2011 vừa qua Việt Nam được giải ngân 3.65 tỷ 
USD so với cam kết gần 8 tỷ USD. 
 Vay do phát hành trái phiếu quốc tế: 
o Đợt phát hành trái phiếu quốc tế đầu tiên tại Việt Nam: Năm 2005, thời cơ 
đã đến khi các yếu tố “thiên-thời-địa” chín muồi: Kinh tế trong nước phát 
triển, nợ nước ngoài ở mức an toàn, thị trường tài chính thế giới ổn định 
cộng với nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ngày một lớn. 27/10/2005, Việt 
Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế (tại New York) đã thành 
công mỹ mãn với số tiền đặt mua lên tới 4,5 tỷ USD, cao gấp 6 lần trị giá 
chào bán là 750 triệu USD với lãi suất 7,125%/năm và có thời hạn là 10 
năm. Ở đợt phát hành lần này, Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt 
Nam (Vinashin) là doanh nghiệp đầu tiên đã được lựa chọn giải ngân. 
o Đợt phát hành trái phiếu quốc tế lần thứ 2 tại Việt Nam: Việt Nam phát 
hành 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ (TPCP) ra thị trường quốc tế với kỳ 
hạn mở rộng 10-30 năm, lãi suất dưới 7% cũng rất thành công vào năm 
2007. Số tiền này cho 4 đơn vị (Tập đoàn Dầu khí VN, Tổng công ty Hàng 
hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng công ty Lắp máy VN) vay 
lại để thực hiện đầu tư các dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Dự án mua 
tàu vận tải, Dự án thủy điện Xê Ca Mản 3 và Nhà máy Thủy điện Hủa Na. 
o Đợt phát hành trái phiếu quốc tế lần thứ 3 tại Việt Nam: Ngày 26/01/2010, 
Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu Chính Phủ thời hạn 
10 năm trên thị trường quốc tế với lợi tức 6,95%. Số tiền thu được từ đợt 
phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế này được tập trung vào các mục tiêu: 
Hoàn trả vốn ngân sách Nhà Nước, Giao Bộ Kế hoạch & Đầu tư phối hợp 
Bộ Tài chính lựa chọn dự án phù hợp (dự kiến cho các Tập đoàn Dầu khí, 
Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng Công ty 
lắp máy Việt Nam đầu tư bổ sung các dự án lọc hóa dầu Dung Quất, dự án 
xây dựng thủy điện Xê Ca Mản 3, nhà máy thủy điện Hủa Na và mua tàu 
vận tải biển). Hoàn thành chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương 
thông qua mua bán TPCP, tác động trực tiếp đến lượng cung tiền và các 
biến số kinh tế vĩ mô. 
 Mặc dù 3 lần phát hành trái phiếu với tổng giá trị 2.75 tỉ usd nhưng chỉ là con số rất 
nhỏ so với cùng các quốc gia đang phát triển VD như Indonesia , philipin thì còn quá nhỏ. 
Nhưng với mức lãi suất quanh mốc 7% rất cao như vậy thì đây lại là một điều đáng mừng. 
Việt Nam khó tiếp cận với mức lại suất thấp hơn nguyên do là trên thị trường thứ cấp trái 
phiếu của Việt Nam có tính thanh khoản rất kém. 
2.2 Thực trạng quản lý và sử dụng nợ nước ngoài tại Việt Nam 
2.2.1 Thực trạng quản lý nợ nước ngoài 
a) Cơ quan quản lý 
Hiện nay Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước đang là cơ 
quan được giao nhiệm vụ quản lý nợ của Việt Nam. 
Bộ Tài chính mà cụ thể là Vụ Tài chính đối ngoại thực hiện các chức năng như đàm 
phán các hiệp định vay nợ, ký kết hiệp định, theo dõi giải ngân và chuyển các đề nghị thanh 
toán chi trả nợ cho Kho bạc nhà nước... và chuẩn bị các báo cáo nợ trên cơ sở các thông tin 
được đăng ký khác và các báo cáo này về các khoản vay nợ trực tiếp, được bảo lãnh và cho 
vay lại. 
Ngân hàng nhà nước: thay mặt Chính phủ, đàm phán các khoản nợ đa phương với 3 
tổ chức tài chính quốc tế là ADB, IMF, WB và chuyển các hiệp định chính thức đã ký sang 
Bộ Tài chính; quản lý vay, trả nợ của các doanh nghiệp. 
Bộ Kế hoạch và Đầu tư: sẽ lập dự thảo nhu cầu hàng năm về vay ODA, xây dựng 
danh mục các dự án chương trình được phê duyệt, đàm phán và ký kết các hiệp định khung 
về ODA và chuyển cho Bộ Tài chính để dàn xếp các hiệp định vay nợ cụ thể. Theo dõi đánh 
giá việc sử dụng ODA và tiến hành báo cáo về ODA. 
 Tuy nhiên, trách nhiệm và phạm vi quản lý của từng cơ quan lại chưa rõ ràng và có 
sự chồng chéo lẫn nhau. Điều đó thể hiện ở các điểm sau: 
 Việc xây dựng chiến lược và kế hoạch vay trả nợ: 
o Luật Ngân sách Nhà nước quy định Bộ Tài chính là cơ quan xây dựng chiến 
lược, kế hoạch vay trả nợ trong nước và nước ngoài. 
o Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài quy định Bộ Kế hoạch và Đầu tư là 
cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng chiến lược quốc gia về vay và trả nợ nước 
ngoài, đồng thời tổng hợp kế hoạch dài hạn về vay và trả nợ nước ngoài của 
cả nước. 
 Chồng chéo giữa các đơn vị của Bộ Tài chính: 
o Vụ Ngân sách Nhà nước: có nhiệm vụ chủ trì phối hợp với các đơn vị thống 
nhất quản lý nợ quốc gia; 
o Vụ Tài chính đối ngoại: có trách nhiệm thống nhất quản lý vay và trả nợ nước 
ngoài của Chính phủ và của quốc gia. 
o Kho bạc Nhà nước: có nhiệm vụ “nghiên cứu xây dự thảo đề án, chính 
sách, chế độ về huy đông vốn trong nước và ngoài nước thông qua 
phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ”. 
o Vụ Tài chính đối ngoại có nhiệm vụ “Nghiên cứu, đề xuất và tổ chức thực 
hiện các phương án huy động vốn nước ngoài trên thị trường vốn quốc tế của 
Chính phủ”. 
Như vậy chúng ta thấy có sự chồng chéo giữa các đơn vị trong chức năng quản lý nợ 
nói chung cũng như nợ nước ngoài nói riêng. Chính vì thế nó làm mất đi tính thống nhất 
trong các chính sách quản lý nợ và giảm hiệu quả quản lý. 
b) Cơ chế quản lý 
Nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay đang được quản lý thông qua khung thể chế, 
chính sách và biện pháp kỹ thuật 
 Khung thể chế 
Khía cạnh thể chế của quản lý nợ nước ngoài gồm ba phần gắn kết chặt chẽ với 
nhau: khung pháp lý hướng dẫn hoạt động vay và trả nợ, sắp xếp thể chế quản lý nợ và các 
chức năng mà các cơ quan quản lý cần đảm bảo nhằm quản lý nợ hiệu quả. Trong đó, 
khung pháp lý trong hệ thống quản lý nợ hiệu quả thể hiện ý chí, quan điểm của Chính 
phủ trong vay và trả nợ có thể chi phối cơ cấu tổ chức quản lý nợ, cơ chế trao đổi thông 
tin, cơ sở vật chất và con người nhằm đảm bảo thực thi chức năng quản lý nợ. 
o Khung pháp lý: bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý vay 
và trả nợ nước ngoài như Luật quản lý nợ công 2009, Luật Ngân sách Nhà nước, 
nghị định 134/2005 về Quy chế vay và trả nợ nước ngoài, các Quyết định của Bộ Tài 
chính về quản lý nợ vay, 
o Thể chế quản lý: hệ thống quản lý nợ bao gồm các cấp quản lý từ Trung ương xuống 
địa phương, bao trùm các hoạt động từ phân tích dữ liệu nợ đưa ra các dự đoán vĩ 
mô, hoạch định chính sách kế hoạch vay và trả nợ, thực hiện các hoạt động quản 
lý, 
o Nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nợ: hoạch định chính sách, điều tiết, theo dõi và 
phân tích nợ, thực hiện đàm phán vay nợ và giám sát các khoản nợ, dự đoán tình 
hình vĩ mô nhằm đưa ra các chính sách phù hợp. 
Theo đánh giá khách quan thì khung thể chế, chính sách về quản lý nợ của chúng ta 
còn rất yếu kém. Thể hiện ở khung pháp lý còn chưa chặt chẽ, có những điểm còn chồng 
chéo; hệ thống quản lý nợ còn thiếu tập trung, không có tính thống nhất giữa các cơ quan 
quản lý, việc phân chia trách nhiệm và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý còn chưa rõ ràng. 
 Biện pháp kỹ thuật 
Kỹ thuật quản lý nợ chú trọng vào quản lý quy mô và cơ cấu nợ nước ngoài. Việc 
quản lý quy mô, cơ cấu nợ nước ngoài hiệu quả nhằm xác định một cơ cấu vay hợp lý, giảm 
gánh nặng trả nợ tập trung tại một thời điểm, đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ 
sắp đến hạn. Quản lý quy mô và cơ cấu nợ bao gồm bốn vấn đề trong đó ba yếu tố then chốt 
và gắn kết với nhau chặt chẽ nhất là khả năng trả nợ, nhu cầu vay mượn và nguồn tài trợ. Cả 
ba vấn đề này đều thể hiện tính kế hoạch hóa của việc vay mượn. 
- Nhu cầu vay vốn: được xây dựng phù hợp với chính sách kinh tế vĩ mô trong từng 
thời kỳ để đảm bảo sử dụng vốn vay theo đúng định hướng ưu tiên phát triển kinh tế đã đề 
ra. Nhu cầu vay mượn được dự đoán thông qua việc dự tính các khoản phải chi trong tương 
lai, đồng thời cũng phải tính toán đến khả năng trả nợ sau này. Nếu tính toán sai nhu cầu 
vay mượn thì sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ trong tương lai. 
 - Khả năng trả nợ: được tính toán dựa trên phân tích dư nợ hiện tại, nguồn trả nợ 
trong tương lai, cơ cấu nợ, các điều kiện kinh tế vĩ mô, 
 - Nguồn tài trợ: các khoản vay hình thành từ các nguồn như viện trợ không hoàn lại, 
vay ưu đãi, vay thương mại. Các nước đang phát triển thường tìm kiếm những khoản viện 
trợ không hoàn lại và các khoản vay ưu đãi để giảm gánh nặng trả nợ. Nước ta chủ yếu nhận 
nguồn tài trợ từ ODA với nhiều ưu đãi, tuy nhiên từ năm 2010 nước ta đã ra khỏi danh sách 
các nước nghèo nên sẽ không còn nhận được những khoản vay với điều kiện ưu đãi nữa. 
Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý phải tích cực hơn nữa trong việc tìm kiếm những 
nguồn tài trợ ưu đãi và đầu tư vào những dự án có hiệu quả. 
 Đánh giá hiệu quả của công tác quản lý nợ nước ngoài 
Một quốc gia được coi là có công tác quản lý nợ tốt khi mức độ ổn định và bền vững 
của nợ cao, thỏa mãn mức giới hạn an toàn của các tổ chức thế giới. 
Theo phương pháp của World Bank, để đánh giá mức độ ổn định và bền vững của nợ 
sẽ dựa vào các tiêu chí như: tỷ lệ nợ nước ngoài/xuất khẩu, tỷ lệ nợ nước ngoài/ thu Ngân 
sách Nhà nước, nợ/GDP. 
Tiêu chí đánh giá tính bền vững của nợ của World Bank 
Tiêu chí (% ) Không bền vững Trung bình Bền vững 
Nợ/GDP 50 40 30 
Nợ/Xuất khẩu 200 150 100 
Nợ/thu NSNN 300 250 200 
Tính bền vững của nợ của Việt Nam 
Tiêu chí(% ) 2006 2007 2008 2009 2010 Đánh giá 
Nợ/GDP 31.4 32.5 29.8 39.0 42.2 Trung bình 
Nợ/XK 62 63 65 76 79 Bền vững 
Nợ/Thu NSNN 145 147 151 155 158 Bền vững 
Nguồn: Ngân hàng phát triển Châu Á, Bản tin nợ nước ngoài số 7 
Theo như kết quả trên có thể nói nợ của Việt Nam có tính ổn định và bền vững, đáp 
ứng được ngưỡng an toàn của các tổ chức thế giới. Có thể nói trước mắt Việt Nam chưa thể 
xảy ra khủng hoảng nợ như Thái Lan, Mexico, Argentina, Mặc dù vẫn có những tồn tại 
trong việc quản lý nợ nhưng đây có thể coi là sự cố gắng của các cơ quan quản lý trong việc 
nâng cao chất lượng quản lý nợ. 
Tuy nhiên về sức mạnh thể chế và chính sách trong quản lý nợ của Việt Nam lại 
đang bị đánh giá ở mức yếu kém. Các quốc gia có chính sách và thể chế tốt thì có khả năng 
chống đỡ được mức nợ cao hơn so với mức ổn định nợ cơ bản. 
Cách tiếp cận này đưa ra giá trị mức ngưỡng dựa vào tỷ lệ nợ để làm cơ sở đánh giá 
thể chế và chính sách của một quốc gia. Dựa vào giá trị ngưỡng, World Bank phân loại ra 3 
mức thực hiện chính sách: kém, vừa và mạnh. 
Mức ngưỡng phụ thuộc vào chính sách và thể chế 
Mức ngưỡng Kém Vừa Mạnh 
NPV/GDP 30% 45% 60% 
NPV/XK 100% 200% 300% 
NPV/thu NSNN 200% 275% 350% 
Nguồn: World Bank 
Theo đánh giá của WB thì từ năm 2006 – 2010 các tỷ lệ trên của Việt Nam đều năm 
trong mức ngưỡng kém, cho thấy khung chính sách và thể chế của nước ta ít có khả năng 
chống đỡ với mức nợ cao. 
Nguyên nhân sự yếu kém trong vấn đề quản lý nợ là do chúng ta chưa có 1 cơ quan 
thống nhất về quản lý nợ dẫn đến sự chồng chéo trong chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ 
quan quản lý. Điều này gây ra sự thiếu nhất quán, không đồng bộ trong vấn đề quản lý nợ. 
Thêm vào đó, các văn bản pháp lý về quản lý nợ nước ngoài cũng chưa thống nhất, chưa 
điều chỉnh đầy đủ các đối tượng trong việc quản lý nợ nước ngoài. 
2.2.2 Thực trạng sử dụng vốn vay 
a) Nguồn vốn ODA 
Trong những năm qua, nhiều dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã hoàn thành và 
được đưa vào sử dụng góp phần nâng cao, phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, tạo điều 
kiện tăng trưởng kinh tế. Về mặt xã hội các dự án góp phần xóa đói, giảm nghèo, gia tăng 
công ăn việc làm cho xã hội, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân. 
 Nguồn vốn ODA chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như giao thông vận tải, phát 
triển mạng lưới điện, phát triển nông nghiệp và nông thôn, Tuy nhiên vấn đề là những 
nguồn vốn đầu tư này lại không được sử dụng hiệu quả. Những công trình giao thông mới đi 
vào hoạt động đã có dấu hiệu hỏng hóc, xuống cấp nghiêm trọng như: đại lộ Thăng Long, 
cao tốc HCM – Trung Lương. 
Hay như cảng Vân Phong, có vốn đầu tư lên đến 3,6 tỷ đô la, lễ khởi công hoành 
tráng tiêu tốn 4144 tỷ đồng nhưng bây giờ chỉ còn lại 144 cọc thép và 1 xà lan toàn những 
máy móc rỉ. 
Gần đây nhất là vụ xe Ben húc sập đập thuỷ điện Đăk Mek, trong khi nhà thầu cả 
quyết “ công trình đảm bảo chất lượng, lỗi là do tài xế xe Ben”. Tuy nhiên khi kiểm tra hiện 
trường thì thấy cả đập thuỷ điện dài hàng trăm mét, dày gần 2m đổ ngang xuống thân đập 
nhưng cách nhau phải đến gần chục mét mới thấy lòi ra 1 cây thép bé xíu. Theo thiết kế thì 
thân đập phải đổ bê tông cốt thép và đá hộc nhưng thực tế kiểm tra hiện trường thì thấy thân 
đập chỉ toàn đất cát. Với tình trạng tham nhũng, rút ruột công trình trầm trọng như ở nước ta 
thì công trình chưa kịp đưa vào sử dụng đã phải đổ thêm tiền vào để tu sửa, làm lại. Từ đó 
chúng ta có thể thấy hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA không cao. 
b) Vay thương mại 
Bên cạnh vốn vay ODA, chính phủ còn cho vay lại bằng vay thương mại đối với các 
doanh nghiệp nhằm chiến lược phát triển kinh tế. 
Cho vay lại của Chính phủ được thực hiện chủ yếu qua hai công cụ: Ngân hàng Phát 
triển Việt Nam VDB và các ngân hàng thương mại. Một số dự án thực hiện nhờ hoạt động 
cho vay lại của Chính phủ là dự án phát triển ngành công nghiệp đóng tàu Vinashin (750 
triệu USD), dự án nâng cao hiệu suất ngành điện ( hơn 30 triệu USD), dự án tài chính nông 
thôn 2 ( 93.7 triệu USD), điện Phú Mỹ(71.6 triệu USD). 
 Bảo lãnh chính phủ với các khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp và tổ chức 
tín dụng 
Bảo lãnh chính phủ đối với các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khi vay nước 
ngoài được thực hiện nhằm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp phát triển hoạt động kinh 
doanh trong khi nguồn lực còn có hạn. Các doanh nghiệp vay nợ có bảo lãnh bao gồm các 
doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn trong các ngành Bưu chính viễn thông, dầu khí, điện 
lực, xi măng, hàng không, và dệt. 
Dư nợ của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh 2006-2012 
(Đơn vị: triệu USD, tỷ VNĐ) 
Nguồn: Bản tin nợ nước ngoài của Bộ tài chính 
Vay thương mại hiện nay chiếm khoảng gần 7% vay nợ nước ngoài và hầu như là 
các khoản được CP bảo lãnh. Các doanh nghiệp vay nợ có bảo lãnh bao gồm các doanh 
nghiệp nhà nước có quy mô lớn trong các ngành Bưu chính viễn thông, dầu khí, điện lực, xi 
măng, hàng không, và dệt. 
 Tuy nhiên khi các DN này làm ăn thua lỗ, không có khả năng hoàn trả thì gánh nặng 
nợ lại chuyển sang cho CP. Do ỷ vào việc được CP bảo lãnh nên các DNNN vung tay quá 
trán, lỗ không thể cứu vãn. Ví dụ Dự án ximăng Hạ Long do Công ty CP Ximăng Hạ Long - 
một thành viên của Tập đoàn Sông Đà - làm chủ đầu tư, có tổng mức đầu tư gần 6.500 tỉ 
đồng, đã đi vào sản xuất từ đầu năm 2010. Tuy nhiên, do nợ vay để đầu tư, sản xuất và trả 
nợ vay của công ty rất lớn, dẫn đến kết quả kinh doanh năm 2011 thua lỗ hơn 581 tỉ đồng và 
năm 2012 lỗ “kế hoạch” gần 496 tỉ đồng. 
Bộ Xây dựng cho biết có tới 11 dự án ximăng được Chính phủ bảo lãnh vay nước 
ngoài với tổng số tiền lên tới gần 300 triệu USD và 445 triệu euro (tương đương 17.000 tỉ 
đồng). Đặc biệt, trong số 11 dự án này có sáu dự án ximăng thuộc Tổng công ty Ximăng 
VN (Vicem). 
=> Việc sử dụng không hiệu quả nguồn vốn được bảo lãnh của các DNNN đã khiến cho 
gánh nặng nợ nước ngoài của VN ngày càng trở nên nặng nề. 
c) Phát hành trái phiếu quốc tế 
Sau một thời gian dài chuẩn bị , ngày 27/10/2005, chính phủ đã chính thức phát hành 
trái phiếu trên thị trường chứng khoán New York với tổng số vốn huy động được là 750 
triệu USD, lãi suất 7,125 % /Năm, thời hạn 10 năm. Toàn bộ số tiền huy động được giao 
cho Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) sử dụng để đầu tư phát triển sản 
xuất kinh doanh. Do việc sử dụng vốn không hiệu quả, đến nay tập đoàn đã vỡ nợ. Hiện tỉ 
lệ tổng nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu của Vinashin là 10,9 lần. Số nợ quá hạn của tập đoàn 
này là hơn 3.800 tỷ đồng (chiếm 91,4% tổng nợ quá hạn của 7 tập đoàn). 
Lần thứ 2,3: Tổng phát hành 2 tỷ đôla với lãi suất 6.75% mục đích của khoản vay 
này được đầu tư vào nhà máy lọc dâu Dung Quất và các đơn vị khác. Như chúng ta đã biết 
thì Nhà máy lọc dầu Dung Quất ngay từ khi chưa khởi công đã vấp phải những phản đối của 
các nhà đầu tư và các tổ chức quốc tế vì tính bất khả thi của nó. Và đến khi đi vào sử dụng 
thì liên tục gặp sự cố, phải tạm dừng hoạt động, kết quả kinh doanh liên tục lỗ. Hiệu quả sử 
dụng vốn vay thấp dẫn đến lãng phí nguồn vốn, không tạo được nguồn trả nợ vì thế càng 
làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài của chúng ta. 
 Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng vốn 
 Thông qua các chương trình đầu tư, nguồn vốn vay nước ngoài được chuyển tải vào 
các dự án đầu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền 
vững. Tuy nhiên việc sử dụng nguồn vốn từ nợ lại chưa đạt hiệu quả. Điều này thể hiện ở 
các điểm sau: 
 Tốc độ giải ngân chậm 
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), hiện nay tốc độ giải ngân của Việt 
Nam chỉ đạt khoảng 50%/năm. Thanh toán nợ của Việt Nam chỉ chiếm 28% GDP. Đây 
chính là một trong những vấn đề mà các nhà tài trợ mong muốn Việt Nam cần quan tâm cải 
thiện. Việc chậm giải ngân đồng nghĩa với tiến trình thực hiện chậm, các công trình dự án 
thi công dở dang, chậm tiến độ, thậm chí phải ngừng lại. 
Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch - Đầu tư tại cuộc họp, tiến độ giải ngân các dự án 
ODA tại Việt Nam chậm hơn so với tỷ lệ chung của quốc tế. Trong tổng vốn ODA đã ký 
kết của các chương trình, dự án đang thực hiện là 24,4 tỷ USD, hiện mới giải ngân được 8,8 
tỷ USD. Các bộ ngành, địa phương có vốn chưa được giải ngân lớn là Bộ GTVT, Bộ Công 
thương (chủ yếu là các dự án do EVN làm chủ đầu tư), Bộ NN-PTNT. 
Đáng lưu ý, Giám đốc quốc gia WB tại Việt Nam cho biết, Dự án Phát triển giao 
thông đô thị Hà Nội tuy đã thực hiện được 5 năm, nhưng tỷ lệ giải ngân mới chỉ đạt 15% và 
mặc dù UBND TP Hà Nội có quan điểm khác, song WB vẫn kiên quyết đề nghị hủy vốn để 
sử dụng cho các dự án khác. 
Những năm vừa qua, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc giải ngân vốn ODA chậm ở 
Việt Nam là do thiếu vốn đối ứng. Tỷ lệ bình quân chung tại các dự án ODA là 80% vốn 
vay và 20% vốn đối ứng. Cho nên những dự án có kết cấu hạ tầng lớn như những đường 
cao tốc, quốc lộ... lên đến vài tỷ USD thì vốn đối ứng cũng cần đến hàng trăm tỷ đồng. Vì 
thế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần phải nhanh chóng giải quyết vấn đề này để cải thiện tốc độ 
giải ngân, đảm bảo tiến độ của các dự án. 
 Hiệu quả đầu tư thấp 
Điều này thể hiện ở chỉ số ICOR liên tục tăng mạnh trong những năm gần đây. Chỉ 
số ICOR thể hiện tỷ lệ vốn trên sản lượng tăng thêm. Tỷ lệ này cao tức là cần số vốn nhiều 
hơn để tạo ra thêm 1 đơn vị sản lượng tăng thêm, cũng có nghĩa là hiệu quả đầu tư thấp dần. 
So với các quốc gia khác trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa thì chỉ số ICOR của 
Việt Nam cũng cao hơn rất nhiều. 
Chỉ số ICOR của Việt Nam so với các nước trong thời kỳ đầu CNH 
Quốc gia Giai đoạn GDP Đầu tư/GDP ICOR 
Hàn Quốc 1961-1980 7,9 23,3 3,0 
Đài Loan 1961-1980 9,7 26,2 2,7 
Indonesia 1981-1995 6,9 25,7 3,7 
Thái Lan 1981-1995 8,1 33,3 4,1 
Trung Quốc 2001-2006 9,7 38,8 4,0 
Việt Nam 2001-2006 7,6 39,1 5,1 
Nguồn: Ngân hàng phát triển Châu Á 
Nguyên nhân hiệu quả đầu tư tại Việt Nam thấp là do các dự án hiện nay vẫn theo cơ 
chế xin – cho, mà đây chính là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng và lợi ích nhóm. Ngoài ra 
thì còn do việc đầu tư dàn trải, thiếu trọng điểm dẫn đến thất thoát, lãng phí nguồn vốn đầu 
tư. 
2.3 Đánh giá khả năng hoàn trả nợ của Việt Nam 
Từ năm 2003 Việt Nam đã hết thời gian ân hạn 10 năm và bắt đầu phải trả cả gốc lẫn 
lãi. Lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 
lên 1,9% trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới 2,1%/năm. Bên cạnh đó, từ năm 2010, Việt 
Nam đã bước ra khỏi danh sách các nước nghèo kém phát triển và trở thành nước có mức 
thu nhập trung bình thấp, điều đó cũng có nghĩa là các khoản vay mới của Chính phủ sẽ 
tương đương với các khoản vay thương mại mà gần như không có thêm ưu đãi nào. Theo 
ước tính, đến năm 2016 thì Việt Nam phải trả 2.1 tỷ đô la tăng nhanh so với mức 1.67 tỷ đô 
la vào năm 2010 và 1.29 tỷ đôla năm 2009. Cùng với điều kiện cán cân thương mại thâm 
hụt thường xuyên, bội chi ngân sách thì gánh nặng trả nợ đang ngày một lớn. 
 Để đánh giá khả năng hoàn trả nợ cần phải xem xét nhiều yếu tố, tuy nhiên người ta 
thường chú trọng vào việc phân tích tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP và tỷ lệ nợ phải trả/xuất khẩu 
ròng và tỷ lệ nợ nước ngoài/thu ngân sách. 
Các chỉ tiêu giám sát về nợ nước ngoài của Việt Nam 
Chỉ tiêu (% ) 2006 2007 2008 2009 2010 
Tổng nợ NN/GDP 31.4 32.5 29.8 39.0 42.2 
Nợ NN khu vực công/GDP 26.7 28.2 25.1 29.3 31.1 
Nghĩa vụ trả nợ trung dài hạn/XK 
ròng 
1.0 3.8 3.3 4.2 3.4 
Nghĩa vụ trả nợ NN/thu NS 3.7 3.6 3.5 5.1 3.7 
Dự trữ ngoại hối/dư nợ ngắn hạn 6,380 10,177 2,808 290 187 
Nguồn: Bản tin tài chính số 7 – Bộ Tài chính 
 Theo biểu trên ta thấy cả ba tỷ lệ nợ/GDP, nợ/thu NSNN và nợ/XK hàng hóa dịch vụ 
đều đang tăng cao trong những năm gần đây. Điều này chứng tỏ khả năng thanh toán của 
Việt Nam đang giảm dần. 
 Xét về quy mô nợ nước ngoài/GDP: đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ trên thu 
nhập quốc dân, nói cách khác nó thể hiện khả năng hấp thụ vốn nước ngoài của nền kinh tế. 
Những năm gần đây tỷ lệ này đang tăng lên nhanh chóng, từ 31.4% năm 2006 đến 42.2% 
vào năm 2010 và 41.5% vào năm 2011. Sở dĩ tỷ lệ này giảm 0.7% vào năm 2011 không 
phải là do quy mô nợ giảm mà do GDP danh nghĩa năm 2011 cao hơn so với 2010. Nếu chỉ 
xét về mặt số liệu thì tỷ lệ nợ của Việt Nam vẫn đang nằm trong giới hạn an toàn, tuy nhiên 
đặt trong điều kiện khủng hoảng nợ công ở Châu Âu đang có nguy cơ gia tăng và nền kinh 
tế toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng đang ở tình trạng khó khăn thì có thể nói Việt 
Nam cũng đang đứng trước nguy cơ tiềm ẩn về rủi ro nợ. 
 Nghĩa vụ trả nợ trung, dài hạn/xuất khẩu ròng: tỷ lệ này tăng trong những năm gần 
đây từ 1% năm 2006 lên 4.2% năm 2009 và 3.4% năm 2010. Giá trị xuất khẩu ròng hàng 
hóa dịch vụ là nguồn thu ngoại tệ thể hiện khả năng trả nợ của 1 quốc gia. Chính vì thế khi 
tỷ lệ này có xu hướng ngày càng tăng đã phản ánh khả năng hoàn trả của chúng ta giảm 
dần. 
 Nợ phải trả hàng năm/thu NSNN: Đối với những quốc gia đang phát triển, các khoản 
vay nước ngoài chủ yếu là vay nợ của chính phủ hoặc do chính phủ đảm bảo. Nguyên nhân 
chủ yếu ở đây là khu vực tư nhân chưa đủ uy tín để có thể vay mượn trực tiếp các nguồn 
vốn từ bên ngoài. Do đó khả năng trả nợ của một quốc gia không chỉ phụ thuộc vào giá trị 
xuất khẩu mà còn phải căn cứ vào nguồn thu của chính phủ. Trong những năm gần đây thì 
nghĩa vụ trả nợ hàng năm thường chiếm khoảng 10% thu NSNN, nên vấn đề trả nợ cũng 
không gặp nhiều vấn đề. Tuy nhiên tỷ lệ này đang có xu hướng tăng, cộng thêm việc thâm 
hụt NSNN thì khả năng trả nợ trong tương lai sẽ khó khăn hơn. 
 Thêm vào đó, tỷ lệ dự trữ ngoại hối/ nợ ngắn hạn của Việt Nam đang sụt giảm rất 
nghiêm trọng, từ 10,177% năm 2007 xuống chỉ còn 2808% vào năm 2008, 187% vào năm 
2010 và đang có xu hướng sụt giảm hơn nữa, trong khi mức khuyến nghị của World Bank 
là 200%. Nguyên nhân dự trữ ngoại hối giảm là do thâm hụt cán cân thương mại duy trì ở 
mức độ cao trong nhiều năm. Vì thế nguồn ngoại tệ để trả nợ đang giảm dần và đe dọa đến 
khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai. 
 Một vấn đề lớn nữa là phần lớn các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài đều đang hoạt 
động không có hiệu quả. Lãi từ các dự án chưa đủ để trả nợ vay, chưa kể đến nhiều dự án 
còn lỗ. Vì thế, gánh nặng trả nợ đang ngày càng đè nặng lên Ngân sách Nhà nước. Về dài 
hạn thì tình trạng này có thể dẫn đến rủi ro mất khả năng thanh toán khi mà nguồn trả nợ 
của Việt Nam cũng đang ngày càng khó khăn. 
 Nhìn chung, khả năng hoàn trả của Việt Nam hiện tại vẫn được bảo đảm. Tuy nhiên 
xét về mặt lâu dài, với tình hình kinh tế vẫn đang khó khăn, tăng trưởng kinh tế thấp, cán 
cân thương mại thường xuyên thâm hụt, hiệu quả sử dụng vốn không cao thì khả năng 
hoàn trả trong tương lai sẽ trở nên khó khăn hơn. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết là chúng 
ta phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn, vì đây là vấn đề mấu chốt quyết định 1 
quốc gia có khả năng hoàn trả hay không. Vì Argentina tỷ lệ nợ/GDP chỉ có 35% đã rơi vào 
khủng hoảng nợ, trong khi đó Nhật Bản tỷ lệ này là hơn 200% nhưng do quản lý tốt và sử 
dụng hiệu quả nên vẫn vững vàng trước khủng hoảng nợ. 
 Những tồn tại và yếu kém trong vấn đề quản lý và sử dụng nợ nước ngoài đang đặt 
ra một yêu cầu cấp thiết là cần phải có những biện pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả sử 
dụng và quản lý nợ từ đó

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_tang_cuong_hieu_qua_quan_ly_va_su_dung_va_hoan_tra.pdf