Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 1. KHÁI QUÁT VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNGKINHTẾ14 1.1 Tổngquanvềtăngtrưởngkinhtế.......14 1.1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế 14 1.1.2 Đolườngtăngtrưởngkinhtế............................................................................4 1.1.3 Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế 5 1.2 Tổng quan vềchấtlượngtăngtrưởng......50 1.2.1 Nghĩa hẹp của chất lượng tăng trưởng 7 1.2.2 Nghĩa rộng của chất lượng tăng trưởng 7 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-2010 2.1 Khái lược về đặc điểm kinh tế-xã hội Việt Nam 2.1.1 Về kinh tế 2.1.2 Về xã hội 2.1.3 Giáo dục và đào tạo 2.1.4 Y tế và chăm sóc sức khỏe 2.1.5 Kết cấu và cơ sở hạ tầng giao thông 2.2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế việt nam trong thời gian qua 2.2.1. Một số thành tựu đạt được 2.2.2 Những hạn chế về chất lượng tăng trưởng kinh tế 2.2.2.1. Chất lượng tăng trưởng kinh tế không cao 2.2.2.2. Hiệu quả kinh tế 2.2.2.3. Sức cạnh tranh của nền kinh tế 2.2.2.4. Vấn đề xã hội và môi trường ngày càng bức xúc 2.2.2.5. Lao động và việc làm 2.2.2.6. Xóa đói giảm nghèo 2.2.2.7. Chất lượng nguồn nhân lực và các vấn đề giáo dục và y tế 2.2.2.8. Công bằng xã hội và sự phân hóa giàu nghèo 2.3. Mô hình tăng trưởng của Việt Nam là mô hình tăng trưởng theo chiều rộng CHƯƠNG 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU XỬ LÝ TỐT MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ VẤN ĐỀ Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 2 NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG 3.1 Những quan điểm cơ bản 3.1.1 Quan điểm toàn diện 3. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP..21 KẾT LUẬN 842 TÀI LIỆU THAM KHẢO 23 Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. CBXH Công bằng xã hội 2. CLCS Chất lượng cuộc sống 3. CNTB Chủ nghĩa tư bản 4. CNXH Chủ nghĩa xã hội 5. CSVN Cộng sản Việt Nam 6. GDP Tổng sản phẩm trong nước 7. GNH Tổng hạnh phúc quốc gia 8. GNI Tổng thu nhập quốc gia 9. GPI Chỉ số tiến bộ thực sự 10. HDI Chỉ số phát triển con người 11. HPI Chỉ số Hành tinh hạnh phúc 12. ICOR Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư 13. KSMS Kết quả điều tra khảo sát mức sống người dân 14. LKXH Liên kết xã hội 15. MDGs Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ 16. NN,CN,DV Khu vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ 17. PTVH Phát triển văn hóa 18. TBCN Tư bản chủ nghĩa 19. TNXH Trách nhiệm xã hội 20. UN Liên Hiệp Quốc 21. UNDP Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc 22. WEF Diễn đàn Kinh tế thế giới 23. XĐGN Xóa đói giảm nghèo 24. XHCN Xã hội chủ nghĩa Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 4 1. Lý do chọn đề tài Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo những dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong đó, tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng. Đồng thời, tăng trưởng kinh tế góp phần làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá... phát triển. Chất lượng tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao là mục tiêu quan trọng đối với hầu hết các quốc gia.. Ở bất kỳ quốc gia nào cũng vậy, mục tiêu kinh tế hàng đầu là đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Trong những năm qua, Việt Nam đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững nhằm phù hợp với xu thế kinh tế thế giới và đáp ứng được yêu cầu phát triển nội tại của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên hiện nay, xét trên nhiều phương diện và các chỉ tiêu đánh giá, Việt Nam được nhận định có tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng chất lượng không cao và muốn phát triển bền vững Việt Nam phải thay đổi mô hình tăng trưởng. Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 5 Đây cũng chính là một mục tiêu lớn, phức tạp mà Đảng và Nhà nước đang hết sức quan tâm giải quyết đúng theo tinh thần của Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (đại hội XI), trong đó nhiệm vụ được chỉ rõ: “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả tính bền vững” nhằm thực hiện mục tiêu: “phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Hạnh phúc-tự do là mục đích thiêng liêng và cao cả của tất cả các dân tộc trên thế giới, với Việt Nam mục đích này còn là Quốc hiệu “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”. Sau hơn một phần tư thế kỷ độc lập dân tộc, Việt Nam đã trở thành quốc gia đạt được mức tăng trưởng kinh tế khá cao trong thời gian dài nhưng chất lượng cuộc sống ra sao, liệu rằng người dân có hạnh phúc hơn hay tăng trưởng kinh tế đã thực sự làm cho chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng được nâng cao. Đúc kết từ thực tiễn của đất nước trong tiến trình đổi mới, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 6 định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;...” Từ nhận thức rõ yêu cầu của việc tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với nâng cao đời sống nhân dân mà trong Văn kiện Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã chỉ rõ: “Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân”. Chính vì lẽ đó, chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài khẳng định sự cần thiết khách quan phải nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của vấn đề tăng trưởng kinh tế; của vấn đề phải nâng cao chất lượng cuộc sống người dân; và sự cần thiết phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân trong thời gian tới, đặc biệt là trong bối cảnh của Việt Nam trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Chính vì vậy mà chúng tôi chọn đề tài: “Tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu tiểu luận bộ môn Kinh tế phát triển. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Vấn đề tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống đã được nhiều tác giả, nhiều đề tài của các tổ Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 7 chức trong và ngoài nước nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: Những nghiên cứu trên thế giới: 1. Tác giả Amartya Sen (1993) trong tác phẩm “Chất lượng cuộc sống” đã phát triển lý thuyết: “Tiếp cận năng lực” (capabilities approach). Theo lý thuyết này, năng lực cá nhân là yếu tố quyết định đến chất lượng cuộc sống. Những năng lực này được hình thành qua quá trình mà trong đó những nguồn lực được chuyển đổi bởi ba nhóm yếu tố là cá nhân, xã hội và môi trường vào tiềm năng hoạt động của con người. 2. R.C Sharma (1988) trong “Dân số, tài nguyên, môi trường và chất lượng cuộc sống” nghiên cứu mối tương tác giữa chất lượng cuộc sống dân cư với quá trình phát triển dân cư, phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Theo ông, chất lượng cuộc sống là sự đáp ứng đầy đủ về các yếu tố vật chất và tinh thần cho người dân. Năm 1990, Mahbubul Haq và Amartya Sen thông qua chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) đã sử dụng chỉ số đánh giá về phát triển con người - HDI (Human Development Index) lần đầu tiên nhằm bổ sung và khắc phục những hạn chế của chỉ số GDP (HDI là một chỉ số thống kê tổng hợp gồm các dữ liệu về tuổi thọ, giáo dục và GNI bình quân đầu người thu thập được ở các quốc gia). Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 8 Những nghiên cứu ở Việt Nam: 1. Vấn đề tăng trưởng GDP và nâng cao chất lượng cuộc sống cũng đã được các tác giả đề cập tới trên một vài khía cạnh khác nhau như: nghiên cứu có liên quan đến chất lượng cuộc sống của Đỗ Thiên Kính (2003) “Phân hóa giàu nghèo và tác động của yếu tố học vấn đến nâng cao mức sống cho người dân Việt Nam”; đề tài “Tăng trưởng kinh tế, nghèo đói, bất bình đẳng thu nhập và chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam” của Ngô Quang Thành (2005). 2. Tác giả Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thúy Hằng (2005) “Chỉ số phát triển kinh tế trong HDI, cách tiếp cận và một số kết qủa nghiên cứu”; Phạm Đức Thành (2004) với nghiên cứu “Nâng cao chỉ số phát triển con người Việt Nam”; và Nguyễn Thị Cành (2001) “Diễn biến mức sống dân cư, phân hóa giàu nghèo và các giải pháp xóa đói giảm nghèo trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam nhìn từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Trong năm 2010, lần đầu tiên, vấn đề mức sống và môi trường sống của người dân TP.HCM cũng được đặt ra trong đề tài nghiên cứu do Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM thực hiện “Mức sống kết hợp với môi trường sống của các hộ gia đình tại TP .HCM”. Các đề tài, tư liệu, bài viết, nghiên cứu trên đây đã phân tích làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về tăng trưởng kinh tế và chất lượng cuộc sống theo nhiều góc độ Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 9 khác nhau, có những đóng góp nhất định trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên chưa có một đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai nhân tố này, đặc biệt là ở Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam. 3.2 Nhiệm vụ Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tăng trưởng kinh tế và chất lượng cuộc sống cùng với mối quan hệ của nó. Phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế và chất lượng cuộc sống. Đánh giá rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm để giải quyết tốt mối quan hệ này. Vạch ra những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu về tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống cùng với những mối quan hệ của nó ở Việt Nam giai đoạn 2011 đến 2020. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống là một đề tài rất rộng. Nó liên quan đến quá trình phát triển của một quốc gia trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng và ảnh hưởng tới toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội. Do vậy, đề tài nghiên cứu Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 10 tiểu luận môn Kinh tế phát triển không thể phân tích lý giải trên tất cả các mặt đó mà chỉ giới hạn phạm vi sau: Về đối tượng, chỉ nghiên cứu về tăng trưởng GDP, về nâng cao chất lượng cuộc sống và mối quan hệ của nó. Về không gian, phạm vi là trên đất nước Việt Nam. Về thời gian, đề tài nghiên cứu các nội dung này giai đoạn từ 1986 đến 2010 đề cập đến triển vọng và đểm lại tình hình 2012. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp chung Vận dụng phương pháp luận chung, cơ bản và kết hợp các phương pháp cụ thể khác: hệ thống, phân tích - tổng hợp, so sánh, diễn dịch – quy nạp, ... Phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp cơ bản của kinh tế chính trị Mác- Lênin. Vì vậy, đề tài vận dụng phương pháp này nhằm nghiên cứu các nội dung của tăng trưởng GDP và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống trong mối liên hệ phổ biến, trong sự vận động phát triển không ngừng. Phương pháp duy vật lịch sử: nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống giai đoạn 1986-2010 ở Việt Nam. Xem xét mối quan hệ này trong tiến trình chuyển đổi, phát triển nền hình kinh tế sau đổi mới. 5.2 Phương pháp cụ thể Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 11 Phương pháp trừu tượng hóa khoa học giúp đề tài đơn giản hóa các vấn đề bằng cách gạt bỏ những yếu tố đơn nhất, ngẫu nhiên, tạm thời trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và nâng cao chất lượng cuộc sống để tách ra những yếu tố cơ bản, chủ yếu và bền vững phản ánh bản chất, quy luật của mối quan hệ này. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết để tổng hợp từ các công trình nghiên cứu, các bài viết và tài liệu có liên quan đến chất lượng cuộc sống. Đây là phương pháp quan trọng, được sử dụng thường xuyên trong quá trình nghiên cứu của luận văn. Phương pháp thống kê: sử dụng các kỹ thuật thống kê nhằm xử lý số liệu thu thập được và kết quả của các nghiên cứu, báo cáo,... tổng hợp theo các tiêu chí để đánh giá chất lượng cuộc sống. Nguồn tài liệu: Những tác phẩm chính mà đề tài tham khảo bao gồm: bộ Tư bản của Marx và Engels; các Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần V,VI,VII,VIII,IX,X và XI. Tác giả cũng tham khảo những sách chuyên khảo, các giáo trình kinh tế-chính trị, tạp chí chuyên ngành, bài báo khoa học trong và ngoài nước, và các nguồn dữ liệu thông tin trên mạng thông tin toàn cầu (internet). 6. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu Hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tăng trưởng GDP, chất lượng cuộc sống, mối quan hệ giữa tăng Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 12 trưởng GDP và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống. Cụ thể, luận văn xây dựng khái niệm chất lượng cuộc sống trên bốn nội dung sau: 1) Phát triển con người; 2) Phát triển văn hóa; 3) Xóa đói giảm nghèo; 4) Công bằng xã hội. Và chỉ rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống chính là việc xử lý tốt mối quan hệ với các thành tố tạo lên chất lượng cuộc sống. Bằng các số liệu thực tế, đề tài nghiên cứu tiểu luận chứng minh, phân tích rõ những bất cập trong tăng trưởng GDP, nâng cao chất lượng cuộc sống và mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam giai đoạn 1986-2010. Chỉ rõ nguyên nhân là do: 1) Thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện; 2) Mô hình tăng trưởng chậm đổi mới; 3) Cấu trúc nền kinh tế chưa phù hợp; 4) Chiến lược phát triển còn nhiều bất cập; và 5) Chính sách KT-XH chưa tạo dựng tính công bằng thực sự cho mọi người dân, phát triển con người và nâng cao chất lượng cuộc sống chưa trở thành cam kết bắt buộc. Đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 13 ở Việt Nam trong thời gian tới. Một số nội dung quan trọng là: nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn; hoàn thiện mạng lưới y tế và công tác chăm sóc sức khỏe cho dân; gắn chặt công tác bảo vệ môi trường với công tác bảo vệ sức khỏe; cải cách giáo dục và đào tạo; bảo tồn và phát triển văn hóa; các chính sách phát triển của Nhà nước phải trước hết vì những người nghèo khổ và người thiếu may mắn trong xã hội; xây dựng và phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển nhanh điều kiện sinh hoạt và cơ sở hạ tầng. 8. Kết cấu của đề tài nghiên cứu Ngoài phần mở đầu và kết luận chung, phần nội dung đề tài bố cục thành ba chương: Chương 1: Lý luận cơ bản về tăng trưởng kinh tế, chất lượng cuộc sống và mối quan hệ của nó. Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam giai đoạn 1986-2010. Chương 3: Quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam. Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 14 CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ- CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA NÓ 1.1 Tổng quan về tăng trưởng kinh tế 1.1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Qui mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người (Per Capital Income, PCI). Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính). Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng. Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 15 Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số. Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ. Bản chất của tăng trưởng kinh tế thực chất là sự gia tăng về thu nhập (mặt lượng của nền kinh tế). Sự gia tăng này được đo bằng mức và tỷ lệ của thu nhập tính theo hiện vật và giá trị. 1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bề ngoài của tăng trưởng và được phản ánh qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc độ tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %. Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức: y = dY/Y × 100(%), Trong đó Y là qui mô của nền kinh tế y là tốc độ tăng trưởng. Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 16 Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa. Hiện tại, có các chỉ tiêu đo lường như: 1. Tổng giá trị sản xuất (GO); 2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP); 3. Tổng thu nhập quốc dân (GNI); 4. Thu nhập quốc dân sản xuất (NI); 5. Thu nhập quốc dân sử dụng (DI); 6. GDP bình quân đầu người. Tuy nhiên, chỉ tiêu thường được sử dụng nhất và được đánh giá là chính xác nhất: GDP và GDP/người. Và hiện nay, các nước đang phát triển có nhu cầu và khả năng đạt tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn các nước phát triển. Vì vậy trong phạm vi đề tài này chúng tôi tập trung nghiên cứu và đi sâu hơn về vấn đề này vì trong thực tiễn và lý luận, để so sánh trình độ phát triển của một quốc gia qua các thời kỳ hay giữa các quốc gia khác nhau có thể sử dụng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) làm thước đo các nguồn lực và phúc lợi vật chất. Từ các khái niệm trên đây, chúng ta có thể hiểu tăng trưởng GDP là: mức độ tăng trưởng bằng giá trị tổng sản Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 17 lượng hàng hóa (kể cả hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình) cuối cùng được sản xuất trong một năm trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Hay nói cách khác là toàn bộ thu nhập của công dân trong nước sáng tạo ra (cũng có thể hiểu là tất cả các loại chi tiêu trong nền kinh tế: tiêu dùng, đầu tư, mua sắm hàng hóa của cá nhân, hộ gia đình và chính phủ). Tăng trưởng GDP tạo điều kiện cho xã hội tiêu dùng hàng hoá-dịch vụ tư cũng như hàng hoá-dịch vụ công nhiều hơn, đồng thời góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Nhưng chỉ số GDP/người hay mức tăng GDP hàng năm cũng chỉ đại diện mức cải thiện thu nhập thuần túy, nó còn rất nhiều hạn chế để đánh giá tiêu chuẩn sống của mỗi cá nhân. GDP chưa tính đến các yếu tố của sự tăng trưởng bền vững, chưa bù đắp cho những tổn thất của hệ sinh thái và môi trường. Nâng cao chất lượng cuộc sống chính là sự phát triển tích cực các nhân tố cấu thành nên chất lượng cuộc sống. Song chất lượng cuộc sống là một khái niệm rộng, phức tạp nên cũng có nhiều cách tiếp tận khác nhau đối với vấn đề này. Theo từ điển về Con người (2009) thì: “Thuật ngữ chất lượng cuộc sống là được sử dụng để đánh giá sự hạnh phúc chung của các cá nhân và xã hội. Thuật ngữ này được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau như: kinh tế, y tế, và chính trị. Các chỉ số tiêu chuẩn về chất lượng cuộc Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 18 sống bao gồm không chỉ sự giàu có vật chất và việc làm, mà còn là môi trường sinh hoạt, tình trạng thể chất và sức khỏe tâm thần, điều kiện giáo dục, giải trí và thời gian dành cho giải trí, và các quan hệ xã hội.” Ngay từ thời Cổ đại, phạm trù chất lượng cuộc sống đã được các tác giả đề cập phân tích. Aristotle trong sách về đạo đức học-chính trị học, đã lập luận rằng người dân sống tốt và đạt hạnh phúc thông qua học tập rèn luyện các đức tính tốt, và ông nhấn mạnh tầm quan trọng của lý do cho hạnh phúc của con người là con người cư xử có đạo đức và cố gắng để trở thành đạo đức. Ông cũng đưa ra mô hình quốc gia lý tưởng và cho rằng một quốc gia tốt nhất là một quốc gia có khả năng đảm bảo cho mọi người đều được sống hạnh phúc (có chất lượng cuộc sống cao). Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, Karl Marx và F. Engels cho rằng chất lượng cuộc sống là giải phóng loài người khỏi áp bức bóc lột, đảm bảo cho loài người thực sự sống trong hòa bình, tự do và hạnh phúc Với Hồ Chí Minh, vấn đề chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của con người được đề cập ở những khía cạnh rất giản dị, mà trước hết là ở những lợi ích vật chất và những lợi ích tinh thần, làm cho con người sống thật sự xứng đáng là một con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập... Chúng ta đã đấu tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì? Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 19 Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn; Làm cho dân có mặc; Làm cho dân có chỗ ở; Làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi lên là 4 điều đó” Có nhà kinh tế học cho rằng chất lượng cuộc sống liên quan đến sự phát triển và thỏa mãn nhu cầu của xã hội nói chung và nhu cầu của con người nói riêng. Ngoài ra, có cách tiếp cận nội dung chất lượng cuộc sống là tập hợp các điều kiện môi trường sống như kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường,... (cách tiếp cận từ bên ngoài). Điển hình có Jigme Singye Wangchuck sử dụng khái niệm “Tổng hạnh phúc quốc gia” (General Nation Happiness) vào năm 1972 . Cách tiếp cận từ bên trong dựa trên năng lực của cá nhân trong việc thỏa mãn nhu cầu của con người làm cơ sở xem xét chất lượng cuộc sống như: Amartya Sen trong nghiên cứu đầu tiên công bố năm 1985 “hàng hóa và năng lực” và trong tác phẩm “Chất lượng cuộc sống” (1993) đã phát triển lý thuyết tiếp cận năng lực (capabilities approach); R.C Sharma (1988) trong “Dân số, tài nguyên, môi trường và chất lượng cuộc sống”; và Osho trong tác phẩm “Hạnh phúc tại tâm” (joy: The Happiness That Comes from Within) Trong xã hội hiện đại, khái niệm chất lượng cuộc sống thường được đồng nhất với khái niệm thoải mái tối ưu. Chất lượng cuộc sống là một khái niệm quan trọng trong Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 20 lĩnh vực phát triển con người, nó liên quan đến sự phát triển và thỏa mãn nhu cầu của xã hội nói chung, và nhu cầu của con người nói riêng. Chất lượng cuộc sống cho phép phân tích về sự phát triển một cách đầy đủ hơn so với mức sống. Mức sống là thước đo về phúc lợi vật chất còn chất lượng cuộc sống là thước đo cả về phúc lợi vật chất và giá trị tinh thần. Theo EIU (The Economist Intelligence Unit) một tổ chức thuộc tập đoàn công ty-liên minh các nhà kinh tế có trụ sở tại Anh thì chất lượng cuộc sống được xác định trên các tiêu chí sau: 1. Y tế: thể hiện ra là mức tuổi thọ (theo năm) của người dân. 2. Đời sống gia đình: thể hiện ở tỷ lệ ly hôn (trên 1.000 dân), với mức chỉ số bằng 1 (tỷ lệ ly hôn thấp nhất) đến 5 (cao nhất). 3. Đời sống cộng đồng: với giá trị 1 nghĩa là người dân có tỷ lệ cao tham dự các tổ chức công hội (nhà thờ hoặc công đoàn,...); ngược lại là có giá trị không. 4. Mức sống (thu nhập): GDP thực tế trên đầu người (USD). 5. Ổn định chính trị và an ninh: thể hiện ra là tỉ lệ mức độ ổn định chính trị và an ninh xã hội. 6. Khí hậu và địa lý: thể hiện ra là Vĩ độ, nhằm phân biệt giữa các vùng khí hậu ấm và lạnh. Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 21 7. Bảo đảm Việc làm: thể hiện ở tỷ lệ thất nghiệp (.%). 8. Tự do chính trị: mức trung bình của các chỉ số về quyền tự do chính trị và tự do dân sự. Thang đo từ 1 (hoàn toàn tự do) đến 7 (không tự do). 9. Bình đẳng giới: đo bằng cách sử dụng tỷ lệ thu nhập trung bình nam và nữ. Phân tích về chất lượng cuộc sống cũng có thể được đề cập trên những khía cạnh khác như: mức sống, tiêu chuẩn sống, lẽ sống, lối sống,... Dưới góc độ đề tài nghiên cứu này, chúng tôi tiến hanh nghiên cứu chất lượng cuộc sống được thể hiện trên bốn nội dung sau: 1) Phát triển con người(PTCN); 2) Phát triển văn hóa(PTVH); 3) Công bằng xã hội(CBXH); 4) Xóa đói giảm nghèo(XĐGN). Trong đó: Phát triển con người là một quá trình nhằm mở rộng khả năng lựa chọn của dân chúng (bao gồm sự tự do về kinh tế, xã hội, chính trị) để con người có được các cơ hội trở thành người lao động sáng tạo, có năng suất, được tôn trọng cá nhân và được bảo đảm quyền con người. Thước đo là chỉ số phát triển con người – HDI (Human Development Index) là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 22 tổng quát về sự phát triển của một quốc gia. Chỉ số này được Mahbub ul Haq phát triển vào năm 1990 Phát triển văn hóa là nhiệm vụ quan trọng được đề ra trong Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2020 của Việt Nam. Mục tiêu trọng tâm của Chiến lược là: hướng mọi hoạt động văn hoá vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất; tuân thủ pháp luật; và có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, lối sống văn hoá,... Xóa đói giảm nghèo là một nội dung toàn diện, phù hợp với các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp Quốc đã công bố; là giảm dần tỉ lệ phần trăm giữa số dân sống dưới mức tối thiểu với tổng số dân. Một chỉ số được thiết kế nhằm đo lường những sự thiếu thốn nghiêm trọng ở các khía cạnh y tế, giáo dục và mức sống, kết hợp số lượng người nghèo túng và mức độ nghèo túng của họ là chỉ số “Nghèo đa chiều – MPI”. Chỉ số nghèo khổ đa chiều (MPI) được phát triển, ứng dụng bởi OPHI (Oxford Poverty and Human Development Initiative) trực thuộc trường đại học Oxford và UNDP (xem cách tính MPI trong phụ lục 5). Công bằng xã hội là tình trạng mà mọi quyền lợi, nghĩa vụ của các thành viên xã hội có và được thực hiện phù hợp với các giá trị xã hội để khuyến khích tối đa khả năng đóng góp và hạn chế tối thiểu khả năng gây hại của mỗi cá nhân cho xã hội trong dài hạn Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 23 Hạnh phúc là khái niệm chỉ trạng thái con người thoả mãn với cuộc sống đầy đủ và có ý nghĩa của mình. Hạnh phúc là một khái niệm có tính chất đánh giá, gắn liền với nhân sinh quan, tức là quan niệm về cuộc sống phải như thế nào, cái gì là niềm vui trong cuộc sống; hạnh phúc là hình thức cảm tính của lí tưởng, lí tưởng nói lên khát vọng của con người, còn hạnh phúc là sự thoả mãn khát vọng ấy. Nguồn gốc của hạnh phúc là sự phát triển đầy đủ và sự phát huy tất cả năng lực sống của con người trong hoạt động sáng tạo nhằm phục vụ con người. Đấu tranh cho tiến bộ xã hội, vì tương lai tươi sáng hơn của loài người, chính là ý nghĩa cao cả của cuộc sống, đem lại cho con người sự thoả mãn sâu sắc và cảm giác về hạnh phúc. Như vậy, nâng cao chất lượng cuộc sống chính là xây dựng con người toàn diện có đời sống văn hoá và tinh thần cao, phát huy những giá trị sống và đạo đức tốt đẹp trong xã hội; là tăng tiến chỉ số phát triển con người được biểu hiện cụ thể bằng các chỉ số về tuổi thọ, về y tế và giáo dục; là giảm dần tình trạng đói nghèo; và thực hành công bằng xã hội. 1.1.3. Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế Qua quá trình nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 24 nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng. Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động, là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô. Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 25 Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân đầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi.... Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không phải là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 26 Giữa tăng trưởng GDP và nâng cao chất lượng cuộc sống có mối quan hệ khăng khít với nhau. Tuy nhiên, tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, trong mỗi thời kỳ mà mối quan hệ này được thể hiện ra là không giống nhau. Trong nhiều trường hợp, tăng trưởng GDP là nhân tố quyết định đến tăng chất lượng cuộc sống. Song cũng có rất nhiều quốc gia có mức tăng trưởng GDP khá hoặc cao nhưng thiếu bền vững làm cho chất lượng cuộc sống không được tăng lên tương ứng, thậm chí còn bị suy giảm. Nâng cao chất lượng cuộc sống có tác động trở lại tăng trưởng GDP ở nhiều mức độ và khía cạnh khác nhau. Nâng cao CLCS vừa là động lực, vừa là mục tiêu của tăng trưởng GDP. Cụ thể, phát triển con người (với chỉ số đại diện HDI), xóa đói giảm nghèo (thể hiện ra là tỉ lệ người nghèo đói) một cách bền vững sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế do tăng năng suất lao động (sức khỏe người lao động ngày và kỹ năng lao động ngày càng được cải thiện); phát triển văn hóa và thực hành công bằng xã hội tạo môi trường nhân văn cho các hoạt động kinh tế, giảm thiểu các tệ nạn và khuyến khích người dân tích lũy vốn vật chất và vốn con người cho tăng trưởng kinh tế. Nhận thức rõ tầm quan trọng của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra mục tiêu: “... phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 27 vật chất, tinh thần của nhân dân;...”. Mục tiêu này là sự phản ảnh thực tiễn trong suốt tiến trình đổi mới của Việt Nam sau một phần tư thế kỷ và qua sáu kỳ đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam. Mỗi kỳ đại hội là một dịp để tư duy đổi mới của Việt Nam được kiểm chứng, được đúc kết và tiếp tục hoàn thiện sâu sắc hơn để trở thành lý luận, cương lĩnh chỉ đạo phát triển đất nước. Tiến trình đổi mới được xác định là toàn diện, được thực hiện trên tất cả các mặt của lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Trong đó, tư duy về tăng trưởng kinh tế luôn là tiền đề cơ bản, tiên quyết được đặt ra dưới sự định hướng, dẫn dắt của sứ mạng, của mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Trong các nội dung của chất lượng cuộc sống đã nêu: (1) phát triển văn hóa; (2) phát triển con người; (3) Xóa đói giảm nghèo; và (4) Công bằng xã hội, thì sự kết hợp giữa tăng trưởng GDP với vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống chính là: (1) sự kết hợp tăng trưởng GDP với phát triển con người và phát triển văn hóa; (2) sự kết hợp tăng trưởng GDP với công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo. Đối với Việt Nam, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân còn là tôn chỉ, mục đích xuyên suốt tiến trình đổi mới. Tại Đại hội Đảng toàn quốc XI, tư duy về nâng cao chất lượng cuộc sống cũng được Đảng thể hiện cụ thể trong nhiệm vụ: “Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 28 và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.” * Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và phát triển con người Phát triển con người không chỉ là mục tiêu theo đuổi của các quốc gia phát triển trên thế giới. Đối với các quốc gia đang phát triển và kém phát triển, phát triển con người còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tăng trưởng kinh tế phải phục vụ cho con người, phải vì mục tiêu phát triển con người, trong đó, các chính sách về giáo dục, giải quyết việc làm và tạo cơ hội cho mỗi cá nhân tự phát triển là nhiệm vụ cơ bản và cấp thiết. Do đó, thuật ngữ “phát triển con người” đã xuất hiện vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước nhằm hạn chế sự chỉ trích ngày càng tăng đối với các mục đích và phương pháp phát triển kinh tế đang thịnh hành. Khái niệm này đề cập tới mục đích, yêu cầu liên kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế của quốc gia và khả năng mở rộng sự lựa chọn cá nhân của mỗi con người. Sau đó vào năm 1990, khái niệm và mô hình phát triển con người được xây dựng và được áp dụng phổ biến toàn cầu (Mahbub ul Haq, 1990). UNDP đưa ra một quan niệm về con người được gói gọn trong mệnh đề “Con người là tài sản thật sự của quốc gia” .Từ quan niệm này, UNDP đã khẳng định: “Phát triển con người không chỉ là Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 29 sự tăng lên của thu nhập quốc dân, mà còn tạo ra một môi trường mà trong đó mọi người có thể phát triển mọi khả năng của mình và làm chủ một cuộc sống sáng tạo hữu ích, phù hợp với lợi ích và nhu cầu của họ”. Trong đó phát triển an sinh xã hội thông qua các chính sách cụ thể về y tế, giáo dục và việc phân phối sao cho hiệu quả các yếu tố này đến mỗi người dân là những yêu cầu cơ bản nhất. 1.2.1.1 Tăng trưởng GDP với phát triển y tế và bảo vệ môi trường Tăng trưởng GDP cùng với một nền y tế tốt, một nền y tế tiên tiến là cơ sở để chất lượng cuộc sống người dân được nâng lên. Như trên đã đề cập chất lượng cuộc sống được thể hiện trên nhiều tiêu chí, trong đó có vấn đề tuổi thọ bình quân. Một nền y tế tiên tiến chắc chắn giúp cho tuổi thọ bình quân của người dân tăng lên và ngược lại. Tuổi thọ bình quân là một trong ba thành tố cơ bản phản ánh các thành tựu về phát triển con người. Tuổi thọ bình quân cao thể hiện con người có sức khỏe tốt, có cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh. Sở dĩ có được như vậy là vì sự tác động rất lớn bởi mức sống của mỗi cá nhân ngày càng cao và môi trường sống tự nhiên tốt hơn. Chính từ mối quan hệ cơ bản đó, việc chăm lo sức khỏe đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra mục tiêu: “cải thiện từng bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội” và “đáp ứng tốt hơn nhu cầu Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 30 bảo vệ sức khoẻ của nhân dân.”. Đến kỳ đại hội VIII, vấn đề bảo vệ môi trường cũng đã được đặt ra cùng với các quan điểm về tăng trưởng kinh tế: “- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa; - Xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu; - tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.”. Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP với y tế và môi trường được các nhà kinh tế học trên thế giới quan tâm. Đầu những năm 1990 của thế kỷ XX, các nhà kinh tế học đã có một sự đồng thuận trong lý thuyết phát triển con người và kinh tế sinh thái. Họ cho rằng mỗi sự tăng trưởng trong cung tiền đều dẫn đến sự mất mát dần các giá trị tinh thần và giảm chất lượng cuộc sống. Theo mô hình của Lawn [30, tr 108], các "chi phí" của hoạt động kinh tế bao gồm các hiệu ứng có hại tiềm tàng sau: (1) chi phí của sự suy giảm nguồn tài nguyên; (2) chi phí của tội phạm; (3) chi phí của sự suy giảm tầng ôzôn; (4) chi phí của gia đình tan vỡ; (5) chi phí của ô nhiễm không khí, nước, và ô nhiễm tiếng ồn; (6) mất đất nông nghiệp; (7) mất đất ngập nước. Năm 1995, nhà kinh tế học Robert Costanza cho rằng việc tăng trưởng kinh tế nếu không giải quyết tốt mối quan hệ với tài nguyên thiên nhiên sẽ dẫn đến sự suy thoái khả năng tái tạo môi trường như: xử lý chất thải, chống xói mòn, xanh hóa cây trồng,... Chính sự tận dụng tài nguyên Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 31 nhằm mang lại lợi nhuận và gia tăng giá trị tiền tệ cho GDP nhưng gây rất nhiều nguy cơ trong dài hạn đối với tình hình lở đất, năng suất giảm, các loài bị biến mất, ô nhiễm nguồn nước,... Những hiệu ứng như vậy đã được thấy rất rõ rệt trong các khu vực bị tàn phá rừng nghiêm trọng như là ở Haiti, Indonesia, và rừng ngập mặn ven biển một số khu vực của Ấn Độ và Nam Mỹ. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển y tế và bảo vệ môi trường không chỉ là đơn thuần biểu hiện ở các nhân tố tác động trực tiếp mà còn là những nhân tố có tác động gián tiếp. Chẳng hạn sự tác động từ tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng đến các hành vi tác động đến môi trường mà trong một nghiên cứu do NEF (New Economics Foundation - một tổ chức nghiên cứu kinh tế-xã hội có trụ sở chính tại Vương quốc Anh) đã công bố năm 2006 [54]. Những nghiên cứu trên cũng đã chỉ ra mối quan hệ giữa tuổi thọ, sự hài lòng cuộc sống và các hành vi tác động đến môi trường thông qua chỉ số Hành tinh hạnh phúc (HPI) (xem chi tiết trong phụ lục 4) . Chỉ số này biểu hiện dữ liệu phân tích các hành vi tác động đến môi trường thể hiện sự so sánh nhu cầu của con người vào thiên nhiên với khả năng của sinh quyển trong việc tái tạo nguồn lực. Các hành vi tác động đến môi trường của cuộc khảo sát được phân loại bao gồm: khí thải Carbon, thực phẩm, nhà ở, hàng hóa và dịch vụ,... cũng như các hành vi tác động môi trường Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 32 cần thiết để duy trì dân số thế giới ở tại mức tiêu thụ của nó. 1.2.1.2 Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP với phát triển giáo dục Đây là một trong những mối quan hệ cơ bản trong quá trình tăng trưởng GDP và chất lượng cuộc sống. Sở dĩ như vậy vì khi tốc độ tăng trưởng ngày càng cao, của cải được tạo ra ngày càng nhiều ắt hẳn chất lượng cuộc sống ngày càng có điều kiện nâng cao lên. Ngược lại chất lượng cuộc sống tốt hơn lại là cơ sở, điều kiện cần thiết cho tăng trưởng GDP. Trong các nhân tố quyết định đến tăng trưởng GDP và nâng cao chất lượng cuộc sống thì giáo dục đào tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong điều kiện ngày nay cùng với sự phát triển nhanh như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thì giáo dục đào tạo là nhân tố hàng đầu, bởi giáo dục đào tạo không chỉ sáng tạo ra các thành tựu khoa học công nghệ mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng các thành tựu đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Chính vì lẽ đó, việc phát triển giáo dục đào tạo có vai trò quyết định đối với tăng trưởng GDP. Nhận thức được mối quan hệ và tầm quan trọng của vấn đề này không chỉ ở Việt Nam mà các nước trên thế giới đều quan tâm đến sự nghiệp giáo dục đào tạo. Đối với Việt Nam, Đảng rất quan tâm đến vấn đề giáo dục và trong các văn bản quan trọng đều nhấn mạnh vấn đề này. Giáo Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 33 dục đã trở thành quốc sách hàng đầu, là một trong những đột phá quan trọng nhằm đưa đất nước tiến nhanh và vững chắc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo dục là nâng cao tri thức cho con người, làm cho con người phát triển toàn diện. Giáo dục là một trong ba thành tố trong mục tiêu phát triển con người được đo bằng chỉ số học vấn (tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục). Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục đào tạo, đến phát triển con người, Người đã nêu ra câu nói nổi tiếng: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Khi viết thư cho học sinh nhân ngày khai giảng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh viết: “Ngày nay các em được cái may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em” [7, tr 40]. Hồ Chí Minh từng căn dặn “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” [9, tr 310]. Khi nhấn mạnh vai trò của con người mới XHCN, Hồ Chí Minh đã chỉ ra một loạt các phạm trù đạo đức cơ bản cần có là “thiện, trung-hiếu, nhân-trí-dũng, tình-nghĩa”, “yêu thương con người”, “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Hồ Chí Minh cũng để lại rất nhiều những lời dạy cho các công bộc Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 34 của dân thuộc mọi lĩnh vực (quân đội, công an, công chức chính quyền, và giới doanh nhân, trí thức...) học tập, rèn luyện noi theo. Hiện nay, đó là những nội dung được tập hợp đầy đủ trong các cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tại Việt Nam. Nhận thức rõ tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với phát triển giáo dục, coi giáo dục vừa là động lực, vừa là mục tiêu giúp con người vươn lên cải thiện đời sống, văn kiện Đại hội IX của đảng đã chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân” .Trong suốt tiến trình đổi mới ở Việt Nam, đường lối chính sách của Đảng đã rất kiên định và ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Những tư duy, quan điểm mới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cũng được điều chỉnh cho phù hợp hơn với hoàn cảnh mới. Trong văn kiện đại hội đảng XI, quan điểm đó được tiếp tục thể hiện cụ thể như sau: Một là, thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Đây là quan điểm chỉ đạo cơ bản và nhất quán xuyên suốt quá trình đổi mới và trong thời gian tới. 21 Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 35 Hai là, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người và nâng cao chất lượng cuộc sống. Ba là, phát triển vì con người, lấy con người là trọng tâm là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế. Tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Việc phát triển con người bao giờ cũng gắn với lợi ích của chính con người, là vấn đề đáp ứng những nhu cầu sống của từng cá nhân trong xã hội và cuối cùng là đem lại cho mỗi người dân cái quyền được sống một cuộc sống thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu tinh thần và vật chất. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) cũng thể hiện quan điểm rất rõ về con người khi tuyên bố: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển.”. Trên cơ sở nhìn nhận thực tiễn đó, trong văn kiện đại hội XI, Đảng CSVN tiếp tục hoàn thiện tư duy thể hiện trong mục tiêu tổng quát: “phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” từ đó đề ra nhiệm vụ: “Tập trung giải Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 36 quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.” Trong “
File đính kèm:
- tieu_luan_tang_truong_kinh_te_va_van_de_nang_cao_chat_luong.pdf