Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam

pdf 136 trang yenvu 16/10/2024 350
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam

Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam
 MỤC LỤC 
LỜI MỞ ĐẦU 3 
1. KHÁI QUÁT VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CHẤT LƯỢNG TĂNG 
TRƯỞNGKINHTẾ14 
1.1 Tổngquanvềtăngtrưởngkinhtế.......14 
1.1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế 14 
1.1.2 Đolườngtăngtrưởngkinhtế............................................................................4 
1.1.3 Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế 5 
1.2 Tổng quan vềchấtlượngtăngtrưởng......50 
1.2.1 Nghĩa hẹp của chất lượng tăng trưởng 7 
1.2.2 Nghĩa rộng của chất lượng tăng trưởng 7 
CHƯƠNG 2 
THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA 
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC 
SỐNG Ở VIỆT NAM 
GIAI ĐOẠN 1986-2010 
2.1 Khái lược về đặc điểm kinh tế-xã hội Việt Nam 
2.1.1 Về kinh tế 
2.1.2 Về xã hội 
2.1.3 Giáo dục và đào tạo 
2.1.4 Y tế và chăm sóc sức khỏe 
2.1.5 Kết cấu và cơ sở hạ tầng giao thông 
2.2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế việt nam trong thời gian qua 
2.2.1. Một số thành tựu đạt được 
2.2.2 Những hạn chế về chất lượng tăng trưởng kinh tế 
2.2.2.1. Chất lượng tăng trưởng kinh tế không cao 
2.2.2.2. Hiệu quả kinh tế 
2.2.2.3. Sức cạnh tranh của nền kinh tế 
2.2.2.4. Vấn đề xã hội và môi trường ngày càng bức xúc 
2.2.2.5. Lao động và việc làm 
2.2.2.6. Xóa đói giảm nghèo 
2.2.2.7. Chất lượng nguồn nhân lực và các vấn đề giáo dục và y tế 
2.2.2.8. Công bằng xã hội và sự phân hóa giàu nghèo 
2.3. Mô hình tăng trưởng của Việt Nam là mô hình tăng trưởng theo chiều rộng 
CHƯƠNG 3 
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 
XỬ LÝ TỐT MỐI QUAN HỆ GIỮA 
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ VẤN ĐỀ 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
2 
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG 
3.1 Những quan điểm cơ bản 
3.1.1 Quan điểm toàn diện 
3. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP..21 
KẾT LUẬN 842 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
3 
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
1. CBXH Công bằng xã hội
 
2. CLCS Chất lượng cuộc sống
 
3. CNTB Chủ nghĩa tư bản
 
4. CNXH Chủ nghĩa xã hội
 
5. CSVN Cộng sản Việt Nam
 
6. GDP Tổng sản phẩm trong nước
 
7. GNH Tổng hạnh phúc quốc gia
 
8. GNI Tổng thu nhập quốc gia
 
9. GPI Chỉ số tiến bộ thực sự
 
10. HDI Chỉ số phát triển con người
 
11. HPI Chỉ số Hành tinh hạnh phúc
 
12. ICOR Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
 
13. KSMS Kết quả điều tra khảo sát mức sống người dân 
14. LKXH Liên kết xã hội
 
15. MDGs Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ 
16. NN,CN,DV Khu vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ 
17. PTVH Phát triển văn hóa
 
18. TBCN Tư bản chủ nghĩa
 
19. TNXH Trách nhiệm xã hội
 
20. UN Liên Hiệp Quốc
 
21. UNDP Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc 
22. WEF Diễn đàn Kinh tế thế giới
 
23. XĐGN Xóa đói giảm nghèo 
24. XHCN Xã hội chủ nghĩa
 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
4 
1. Lý do chọn đề tài 
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được 
đánh giá theo những dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng 
trưởng, công bằng xã hội. Trong đó, tăng trưởng kinh tế là 
cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã 
hội. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết 
định đối với mọi quốc gia trên con đường vượt lên khắc 
phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng. Đồng 
thời, tăng trưởng kinh tế góp phần làm cho mức thu nhập 
của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống 
của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm 
tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo 
dục, y tế, văn hoá... phát triển. 
Chất lượng tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao là mục 
tiêu quan trọng đối với hầu hết các quốc gia.. Ở bất kỳ 
quốc gia nào cũng vậy, mục tiêu kinh tế hàng đầu là đạt tốc 
độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Trong những năm 
qua, Việt Nam đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh 
và bền vững nhằm phù hợp với xu thế kinh tế thế giới và 
đáp ứng được yêu cầu phát triển nội tại của nền kinh tế đất 
nước. Tuy nhiên hiện nay, xét trên nhiều phương diện và 
các chỉ tiêu đánh giá, Việt Nam được nhận định có tốc độ 
tăng trưởng nhanh nhưng chất lượng không cao và muốn 
phát triển bền vững Việt Nam phải thay đổi mô hình tăng 
trưởng. 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
5 
Đây cũng chính là một mục tiêu lớn, phức tạp mà 
Đảng và Nhà nước đang hết sức quan tâm giải quyết đúng 
theo tinh thần của Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần 
thứ XI (đại hội XI), trong đó nhiệm vụ được chỉ rõ: 
“Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều 
rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, 
vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, 
hiệu quả tính bền vững” nhằm thực hiện mục tiêu: “phát 
triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, 
tinh thần của nhân dân”. 
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Nếu 
nước độc lập mà dân không hạnh phúc tự do, thì độc lập 
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Hạnh phúc-tự do là mục đích 
thiêng liêng và cao cả của tất cả các dân tộc trên thế giới, 
với Việt Nam mục đích này còn là Quốc hiệu “Độc lập – 
Tự do – Hạnh phúc”. Sau hơn một phần tư thế kỷ độc lập 
dân tộc, Việt Nam đã trở thành quốc gia đạt được mức tăng 
trưởng kinh tế khá cao trong thời gian dài nhưng chất 
lượng cuộc sống ra sao, liệu rằng người dân có hạnh phúc 
hơn hay tăng trưởng kinh tế đã thực sự làm cho chất lượng 
cuộc sống của người dân ngày càng được nâng cao. Đúc 
kết từ thực tiễn của đất nước trong tiến trình đổi mới, Văn 
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: 
“Đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ 
lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi 
mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
6 
định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng 
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản 
xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát 
triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;...” 
Từ nhận thức rõ yêu cầu của việc tăng trưởng kinh tế 
phải gắn liền với nâng cao đời sống nhân dân mà trong 
Văn kiện Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) 
đã chỉ rõ: “Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu 
nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và 
tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện 
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm 
tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho 
nhân dân”. Chính vì lẽ đó, chúng tôi trong quá trình thực 
hiện đề tài khẳng định sự cần thiết khách quan phải nghiên 
cứu về lý luận và thực tiễn của vấn đề tăng trưởng kinh tế; 
của vấn đề phải nâng cao chất lượng cuộc sống người dân; 
và sự cần thiết phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng 
trưởng GDP và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân 
trong thời gian tới, đặc biệt là trong bối cảnh của Việt Nam 
trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Chính vì vậy 
mà chúng tôi chọn đề tài: “Tăng trưởng kinh tế và vấn đề 
nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam” làm đề tài 
nghiên cứu tiểu luận bộ môn Kinh tế phát triển. 
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 
Vấn đề tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng 
cuộc sống đã được nhiều tác giả, nhiều đề tài của các tổ 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
7 
chức trong và ngoài nước nghiên cứu dưới nhiều góc độ 
khác nhau như: 
Những nghiên cứu trên thế giới: 
1. Tác giả Amartya Sen (1993) trong tác phẩm 
“Chất lượng cuộc sống” đã phát triển lý thuyết: “Tiếp cận 
năng lực” (capabilities approach). Theo lý thuyết này, 
năng lực cá nhân là yếu tố quyết định đến chất lượng cuộc 
sống. Những năng lực này được hình thành qua quá trình 
mà trong đó những nguồn lực được chuyển đổi bởi ba 
nhóm yếu tố là cá nhân, xã hội và môi trường vào tiềm 
năng hoạt động của con người. 
2. R.C Sharma (1988) trong “Dân số, tài nguyên, 
môi trường và chất lượng cuộc sống” nghiên cứu mối 
tương tác giữa chất lượng cuộc sống dân cư với quá trình 
phát triển dân cư, phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc 
gia. Theo ông, chất lượng cuộc sống là sự đáp ứng đầy đủ 
về các yếu tố vật chất và tinh thần cho người dân. 
Năm 1990, Mahbubul Haq và Amartya Sen thông qua 
chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) đã sử 
dụng chỉ số đánh giá về phát triển con người - HDI 
(Human Development Index) lần đầu tiên nhằm bổ sung và 
khắc phục những hạn chế của chỉ số GDP (HDI là một chỉ 
số thống kê tổng hợp gồm các dữ liệu về tuổi thọ, giáo dục 
và GNI bình quân đầu người thu thập được ở các quốc 
gia). 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
8 
Những nghiên cứu ở Việt Nam: 
1. Vấn đề tăng trưởng GDP và nâng cao chất 
lượng cuộc sống cũng đã được các tác giả đề cập tới trên 
một vài khía cạnh khác nhau như: nghiên cứu có liên quan 
đến chất lượng cuộc sống của Đỗ Thiên Kính (2003) 
“Phân hóa giàu nghèo và tác động của yếu tố học vấn đến 
nâng cao mức sống cho người dân Việt Nam”; đề tài “Tăng 
trưởng kinh tế, nghèo đói, bất bình đẳng thu nhập và chiến 
lược phát triển kinh tế Việt Nam” của Ngô Quang Thành 
(2005). 
2. Tác giả Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thúy 
Hằng (2005) “Chỉ số phát triển kinh tế trong HDI, cách 
tiếp cận và một số kết qủa nghiên cứu”; Phạm Đức Thành 
(2004) với nghiên cứu “Nâng cao chỉ số phát triển con 
người Việt Nam”; và Nguyễn Thị Cành (2001) “Diễn biến 
mức sống dân cư, phân hóa giàu nghèo và các giải pháp 
xóa đói giảm nghèo trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế 
Việt Nam nhìn từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. 
Trong năm 2010, lần đầu tiên, vấn đề mức sống và môi 
trường sống của người dân TP.HCM cũng được đặt ra 
trong đề tài nghiên cứu do Viện Nghiên cứu phát triển 
TP.HCM thực hiện “Mức sống kết hợp với môi trường 
sống của các hộ gia đình tại TP .HCM”. 
Các đề tài, tư liệu, bài viết, nghiên cứu trên đây đã 
phân tích làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về tăng 
trưởng kinh tế và chất lượng cuộc sống theo nhiều góc độ 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
9 
khác nhau, có những đóng góp nhất định trên cả hai 
phương diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên chưa có một 
đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai nhân tố 
này, đặc biệt là ở Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay. 
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
3.1 Mục đích 
Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn mối 
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất 
lượng cuộc sống ở Việt Nam. 
3.2 Nhiệm vụ 
Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tăng trưởng 
kinh tế và chất lượng cuộc sống cùng với mối quan hệ của 
nó. 
Phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế và chất lượng 
cuộc sống. Đánh giá rút ra nguyên nhân, bài học kinh 
nghiệm để giải quyết tốt mối quan hệ này. 
Vạch ra những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu về 
tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống cùng 
với những mối quan hệ của nó ở Việt Nam giai đoạn 2011 
đến 2020. 
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
Tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng 
cuộc sống là một đề tài rất rộng. Nó liên quan đến quá 
trình phát triển của một quốc gia trên các mặt chính trị, 
kinh tế, văn hóa, tư tưởng và ảnh hưởng tới toàn bộ cuộc 
sống của con người trong xã hội. Do vậy, đề tài nghiên cứu 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
10 
tiểu luận môn Kinh tế phát triển không thể phân tích lý giải 
trên tất cả các mặt đó mà chỉ giới hạn phạm vi sau: 
Về đối tượng, chỉ nghiên cứu về tăng trưởng GDP, về 
nâng cao chất lượng cuộc sống và mối quan hệ của nó. 
Về không gian, phạm vi là trên đất nước Việt Nam. 
Về thời gian, đề tài nghiên cứu các nội dung này giai 
đoạn từ 1986 đến 2010 đề cập đến triển vọng và đểm lại 
tình hình 2012. 
5. Phương pháp nghiên cứu 
5.1 Phương pháp chung 
Vận dụng phương pháp luận chung, cơ bản và kết 
hợp các phương pháp cụ thể khác: hệ thống, phân tích - 
tổng hợp, so sánh, diễn dịch – quy nạp, ... 
Phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp cơ 
bản của kinh tế chính trị Mác- Lênin. Vì vậy, đề tài vận 
dụng phương pháp này nhằm nghiên cứu các nội dung của 
tăng trưởng GDP và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống 
trong mối liên hệ phổ biến, trong sự vận động phát triển 
không ngừng. 
Phương pháp duy vật lịch sử: nghiên cứu về mối 
quan hệ giữa tăng trưởng GDP và vấn đề nâng cao chất 
lượng cuộc sống giai đoạn 1986-2010 ở Việt Nam. Xem 
xét mối quan hệ này trong tiến trình chuyển đổi, phát triển 
nền hình kinh tế sau đổi mới. 
5.2 Phương pháp cụ thể 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
11 
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học giúp đề tài 
đơn giản hóa các vấn đề bằng cách gạt bỏ những yếu tố 
đơn nhất, ngẫu nhiên, tạm thời trong quá trình nghiên cứu 
mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và nâng cao chất lượng 
cuộc sống để tách ra những yếu tố cơ bản, chủ yếu và bền 
vững phản ánh bản chất, quy luật của mối quan hệ này. 
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết để tổng hợp từ 
các công trình nghiên cứu, các bài viết và tài liệu có liên 
quan đến chất lượng cuộc sống. Đây là phương pháp quan 
trọng, được sử dụng thường xuyên trong quá trình nghiên 
cứu của luận văn. 
Phương pháp thống kê: sử dụng các kỹ thuật thống 
kê nhằm xử lý số liệu thu thập được và kết quả của các 
nghiên cứu, báo cáo,... tổng hợp theo các tiêu chí để đánh 
giá chất lượng cuộc sống. 
Nguồn tài liệu: Những tác phẩm chính mà đề tài 
tham khảo bao gồm: bộ Tư bản của Marx và Engels; các 
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần 
V,VI,VII,VIII,IX,X và XI. Tác giả cũng tham khảo những 
sách chuyên khảo, các giáo trình kinh tế-chính trị, tạp chí 
chuyên ngành, bài báo khoa học trong và ngoài nước, và 
các nguồn dữ liệu thông tin trên mạng thông tin toàn cầu 
(internet). 
6. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu 
Hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tăng 
trưởng GDP, chất lượng cuộc sống, mối quan hệ giữa tăng 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
12 
trưởng GDP và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống. Cụ 
thể, luận văn xây dựng khái niệm chất lượng cuộc sống 
trên bốn nội dung sau: 
1) Phát triển con người; 
2) Phát triển văn hóa; 
3) Xóa đói giảm nghèo; 
4) Công bằng xã hội. 
Và chỉ rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và vấn 
đề nâng cao chất lượng cuộc sống chính là việc xử lý tốt 
mối quan hệ với các thành tố tạo lên chất lượng cuộc sống. 
Bằng các số liệu thực tế, đề tài nghiên cứu tiểu luận 
chứng minh, phân tích rõ những bất cập trong tăng trưởng 
GDP, nâng cao chất lượng cuộc sống và mối quan hệ giữa 
tăng trưởng GDP và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống 
ở Việt Nam giai đoạn 1986-2010. 
Chỉ rõ nguyên nhân là do: 
1) Thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện; 
2) Mô hình tăng trưởng chậm đổi mới; 
3) Cấu trúc nền kinh tế chưa phù hợp; 
4) Chiến lược phát triển còn nhiều bất cập; và 
5) Chính sách KT-XH chưa tạo dựng tính công bằng thực 
sự cho mọi người dân, phát triển con người và nâng cao 
chất lượng cuộc sống chưa trở thành cam kết bắt buộc. 
Đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất 
lượng cuộc sống, đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa 
tăng trưởng GDP và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
13 
ở Việt Nam trong thời gian tới. Một số nội dung quan 
trọng là: nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; đẩy 
nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp 
hóa nông nghiệp, nông thôn; hoàn thiện mạng lưới y tế và 
công tác chăm sóc sức khỏe cho dân; gắn chặt công tác bảo 
vệ môi trường với công tác bảo vệ sức khỏe; cải cách giáo 
dục và đào tạo; bảo tồn và phát triển văn hóa; các chính 
sách phát triển của Nhà nước phải trước hết vì những 
người nghèo khổ và người thiếu may mắn trong xã hội; 
xây dựng và phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng; 
phát triển nhanh điều kiện sinh hoạt và cơ sở hạ tầng. 
8. Kết cấu của đề tài nghiên cứu 
Ngoài phần mở đầu và kết luận chung, phần nội dung 
đề tài bố cục thành ba chương: 
Chương 1: Lý luận cơ bản về tăng trưởng kinh tế, chất 
lượng cuộc sống và mối quan hệ của nó. 
Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP 
và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam giai 
đoạn 1986-2010. 
Chương 3: Quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu xử lý tốt 
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao 
chất lượng cuộc sống ở Việt Nam. 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
14 
CHƯƠNG 1 
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ-
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ 
MỐI QUAN HỆ CỦA NÓ 
1.1 Tổng quan về tăng trưởng kinh tế 
1.1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế 
Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự gia 
tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản 
lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia 
tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian 
nhất định. 
Qui mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản 
phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia 
(GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu 
nhập bình quân đầu người (Per Capital Income, PCI). 
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, 
GDP) hay tổng sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng 
tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản 
xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời 
gian nhất định (thường là một năm tài chính). 
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, 
GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch 
vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một 
thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm 
quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập 
ròng. 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
15 
Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm 
quốc nội chia cho dân số. Tổng thu nhập bình quân đầu 
người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số. 
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP 
hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian 
nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về 
lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ 
bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập 
bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống 
trong tình trạng nghèo khổ. 
Bản chất của tăng trưởng kinh tế thực chất là sự gia 
tăng về thu nhập (mặt lượng của nền kinh tế). Sự gia tăng 
này được đo bằng mức và tỷ lệ của thu nhập tính theo hiện 
vật và giá trị. 
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế 
Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bề 
ngoài của tăng trưởng và được phản ánh qua các chỉ tiêu 
đánh giá quy mô và tốc độ tăng trưởng. 
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy 
chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô 
kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ 
tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %. 
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức: 
y = dY/Y × 100(%), 
Trong đó Y là qui mô của nền kinh tế 
y là tốc độ tăng trưởng. 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
16 
Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) 
danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) 
danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP 
(hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay 
GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ 
tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa. 
Hiện tại, có các chỉ tiêu đo lường như: 
1. Tổng giá trị sản xuất (GO); 
2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP); 
3. Tổng thu nhập quốc dân (GNI); 
4. Thu nhập quốc dân sản xuất (NI); 
5. Thu nhập quốc dân sử dụng (DI); 
6. GDP bình quân đầu người. 
Tuy nhiên, chỉ tiêu thường được sử dụng nhất và được 
đánh giá là chính xác nhất: GDP và GDP/người. Và hiện 
nay, các nước đang phát triển có nhu cầu và khả năng đạt 
tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn các nước phát triển. 
Vì vậy trong phạm vi đề tài này chúng tôi tập trung 
nghiên cứu và đi sâu hơn về vấn đề này vì trong thực tiễn 
và lý luận, để so sánh trình độ phát triển của một quốc gia 
qua các thời kỳ hay giữa các quốc gia khác nhau có thể sử 
dụng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng 
sản phẩm quốc nội (GDP) làm thước đo các nguồn lực và 
phúc lợi vật chất. 
Từ các khái niệm trên đây, chúng ta có thể hiểu tăng 
trưởng GDP là: mức độ tăng trưởng bằng giá trị tổng sản 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
17 
lượng hàng hóa (kể cả hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô 
hình) cuối cùng được sản xuất trong một năm trong phạm 
vi lãnh thổ của một quốc gia. Hay nói cách khác là toàn bộ 
thu nhập của công dân trong nước sáng tạo ra (cũng có thể 
hiểu là tất cả các loại chi tiêu trong nền kinh tế: tiêu dùng, 
đầu tư, mua sắm hàng hóa của cá nhân, hộ gia đình và 
chính phủ). 
Tăng trưởng GDP tạo điều kiện cho xã hội tiêu dùng 
hàng hoá-dịch vụ tư cũng như hàng hoá-dịch vụ công 
nhiều hơn, đồng thời góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. 
Nhưng chỉ số GDP/người hay mức tăng GDP hàng năm 
cũng chỉ đại diện mức cải thiện thu nhập thuần túy, nó còn 
rất nhiều hạn chế để đánh giá tiêu chuẩn sống của mỗi cá 
nhân. GDP chưa tính đến các yếu tố của sự tăng trưởng 
bền vững, chưa bù đắp cho những tổn thất của hệ sinh thái 
và môi trường. 
Nâng cao chất lượng cuộc sống chính là sự phát triển 
tích cực các nhân tố cấu thành nên chất lượng cuộc sống. 
Song chất lượng cuộc sống là một khái niệm rộng, phức 
tạp nên cũng có nhiều cách tiếp tận khác nhau đối với vấn 
đề này. 
Theo từ điển về Con người (2009) thì: “Thuật ngữ chất 
lượng cuộc sống là được sử dụng để đánh giá sự hạnh 
phúc chung của các cá nhân và xã hội. Thuật ngữ này 
được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau như: kinh tế, y 
tế, và chính trị. Các chỉ số tiêu chuẩn về chất lượng cuộc 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
18 
sống bao gồm không chỉ sự giàu có vật chất và việc làm, 
mà còn là môi trường sinh hoạt, tình trạng thể chất và sức 
khỏe tâm thần, điều kiện giáo dục, giải trí và thời gian 
dành cho giải trí, và các quan hệ xã hội.” 
Ngay từ thời Cổ đại, phạm trù chất lượng cuộc sống đã 
được các tác giả đề cập phân tích. Aristotle trong sách về 
đạo đức học-chính trị học, đã lập luận rằng người dân sống 
tốt và đạt hạnh phúc thông qua học tập rèn luyện các đức 
tính tốt, và ông nhấn mạnh tầm quan trọng của lý do cho 
hạnh phúc của con người là con người cư xử có đạo đức và 
cố gắng để trở thành đạo đức. Ông cũng đưa ra mô hình 
quốc gia lý tưởng và cho rằng một quốc gia tốt nhất là một 
quốc gia có khả năng đảm bảo cho mọi người đều được 
sống hạnh phúc (có chất lượng cuộc sống cao). 
Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, Karl Marx và F. 
Engels cho rằng chất lượng cuộc sống là giải phóng loài 
người khỏi áp bức bóc lột, đảm bảo cho loài người thực sự 
sống trong hòa bình, tự do và hạnh phúc 
Với Hồ Chí Minh, vấn đề chất lượng cuộc sống và 
hạnh phúc của con người được đề cập ở những khía cạnh 
rất giản dị, mà trước hết là ở những lợi ích vật chất và 
những lợi ích tinh thần, làm cho con người sống thật sự 
xứng đáng là một con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy 
rằng: “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập... 
Chúng ta đã đấu tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ 
chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì? 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
19 
Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được 
ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho 
dân có ăn; Làm cho dân có mặc; Làm cho dân có chỗ ở; 
Làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi lên là 
4 điều đó” 
Có nhà kinh tế học cho rằng chất lượng cuộc sống liên 
quan đến sự phát triển và thỏa mãn nhu cầu của xã hội nói 
chung và nhu cầu của con người nói riêng. Ngoài ra, có 
cách tiếp cận nội dung chất lượng cuộc sống là tập hợp các 
điều kiện môi trường sống như kinh tế, chính trị, xã hội, 
văn hóa, môi trường,... (cách tiếp cận từ bên ngoài). Điển 
hình có Jigme Singye Wangchuck sử dụng khái niệm 
“Tổng hạnh phúc quốc gia” (General Nation Happiness) 
vào năm 1972 . Cách tiếp cận từ bên trong dựa trên năng 
lực của cá nhân trong việc thỏa mãn nhu cầu của con người 
làm cơ sở xem xét chất lượng cuộc sống như: Amartya Sen 
trong nghiên cứu đầu tiên công bố năm 1985 “hàng hóa và 
năng lực” và trong tác phẩm “Chất lượng cuộc sống” 
(1993) đã phát triển lý thuyết tiếp cận năng lực 
(capabilities approach); R.C Sharma (1988) trong “Dân số, 
tài nguyên, môi trường và chất lượng cuộc sống”; và Osho 
trong tác phẩm “Hạnh phúc tại tâm” (joy: The Happiness 
That Comes from Within) 
Trong xã hội hiện đại, khái niệm chất lượng cuộc sống 
thường được đồng nhất với khái niệm thoải mái tối ưu. 
Chất lượng cuộc sống là một khái niệm quan trọng trong 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
20 
lĩnh vực phát triển con người, nó liên quan đến sự phát 
triển và thỏa mãn nhu cầu của xã hội nói chung, và nhu cầu 
của con người nói riêng. Chất lượng cuộc sống cho phép 
phân tích về sự phát triển một cách đầy đủ hơn so với mức 
sống. Mức sống là thước đo về phúc lợi vật chất còn chất 
lượng cuộc sống là thước đo cả về phúc lợi vật chất và giá 
trị tinh thần. Theo EIU (The Economist Intelligence Unit) 
một tổ chức thuộc tập đoàn công ty-liên minh các nhà kinh 
tế có trụ sở tại Anh thì chất lượng cuộc sống được xác định 
trên các tiêu chí sau: 

1. Y tế: thể hiện ra là mức tuổi thọ (theo năm) của người 
dân. 
2. Đời sống gia đình: thể hiện ở tỷ lệ ly hôn (trên 1.000 
dân), với mức chỉ số bằng 1 (tỷ lệ ly hôn thấp nhất) đến 5 
(cao nhất). 
3. Đời sống cộng đồng: với giá trị 1 nghĩa là người dân có 
tỷ lệ cao tham dự các tổ chức công hội (nhà thờ hoặc công 
đoàn,...); ngược lại là có giá trị không. 
4. Mức sống (thu nhập): GDP thực tế trên đầu người 
(USD).
5. Ổn định chính trị và an ninh: thể hiện ra là tỉ lệ 
mức độ ổn định chính trị và an 
ninh xã hội. 
6. Khí hậu và địa lý: thể hiện ra là Vĩ độ, nhằm phân biệt 
giữa các vùng khí hậu ấm và lạnh. 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
21 
7. Bảo đảm Việc làm: thể hiện ở tỷ lệ thất nghiệp (.%).
8. 
Tự do chính trị: mức trung bình của các chỉ số về quyền tự 
do chính trị và tự 
do dân sự. Thang đo từ 1 (hoàn toàn tự do) đến 7 (không tự 
do). 
9. Bình đẳng giới: đo bằng cách sử dụng tỷ lệ thu nhập 
trung bình nam và nữ. 
Phân tích về chất lượng cuộc sống cũng có thể được 
đề cập trên những khía cạnh khác như: mức sống, tiêu 
chuẩn sống, lẽ sống, lối sống,... Dưới góc độ đề tài nghiên 
cứu này, chúng tôi tiến hanh nghiên cứu chất lượng cuộc 
sống được thể hiện trên bốn nội dung sau: 
1) Phát triển con người(PTCN); 
2) Phát triển văn hóa(PTVH); 
3) Công bằng xã hội(CBXH);
 
4) Xóa đói giảm nghèo(XĐGN). 
Trong đó: 
Phát triển con người là một quá trình nhằm mở rộng 
khả năng lựa chọn của dân chúng (bao gồm sự tự do về 
kinh tế, xã hội, chính trị) để con người có được các cơ hội 
trở thành người lao động sáng tạo, có năng suất, được tôn 
trọng cá nhân và được bảo đảm quyền con người. Thước 
đo là chỉ số phát triển con người – HDI (Human 
Development Index) là chỉ số so sánh, định lượng về mức 
thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác 
của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
22 
tổng quát về sự phát triển của một quốc gia. Chỉ số này 
được Mahbub ul Haq phát triển vào năm 1990 
Phát triển văn hóa là nhiệm vụ quan trọng được đề ra 
trong Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2020 của Việt 
Nam. Mục tiêu trọng tâm của Chiến lược là: hướng mọi 
hoạt động văn hoá vào việc xây dựng con người Việt Nam 
phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, 
thể chất; tuân thủ pháp luật; và có ý thức cộng đồng, lòng 
nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, lối sống văn hoá,... 
Xóa đói giảm nghèo là một nội dung toàn diện, phù 
hợp với các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của 
Liên Hợp Quốc đã công bố; là giảm dần tỉ lệ phần trăm 
giữa số dân sống dưới mức tối thiểu với tổng số dân. Một 
chỉ số được thiết kế nhằm đo lường những sự thiếu thốn 
nghiêm trọng ở các khía cạnh y tế, giáo dục và mức sống, 
kết hợp số lượng người nghèo túng và mức độ nghèo túng 
của họ là chỉ số “Nghèo đa chiều – MPI”. Chỉ số nghèo 
khổ đa chiều (MPI) được phát triển, ứng dụng bởi OPHI 
(Oxford Poverty and Human Development Initiative) trực 
thuộc trường đại học Oxford và UNDP (xem cách tính 
MPI trong phụ lục 5). 
Công bằng xã hội là tình trạng mà mọi quyền lợi, 
nghĩa vụ của các thành viên xã hội có và được thực hiện 
phù hợp với các giá trị xã hội để khuyến khích tối đa khả 
năng đóng góp và hạn chế tối thiểu khả năng gây hại của 
mỗi cá nhân cho xã hội trong dài hạn 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
23 
Hạnh phúc là khái niệm chỉ trạng thái con người thoả 
mãn với cuộc sống đầy đủ và có ý nghĩa của mình. Hạnh 
phúc là một khái niệm có tính chất đánh giá, gắn liền với 
nhân sinh quan, tức là quan niệm về cuộc sống phải như 
thế nào, cái gì là niềm vui trong cuộc sống; hạnh phúc là 
hình thức cảm tính của lí tưởng, lí tưởng nói lên khát vọng 
của con người, còn hạnh phúc là sự thoả mãn khát vọng ấy. 
Nguồn gốc của hạnh phúc là sự phát triển đầy đủ và sự 
phát huy tất cả năng lực sống của con người trong hoạt 
động sáng tạo nhằm phục vụ con người. Đấu tranh cho tiến 
bộ xã hội, vì tương lai tươi sáng hơn của loài người, chính 
là ý nghĩa cao cả của cuộc sống, đem lại cho con người sự 
thoả mãn sâu sắc và cảm giác về hạnh phúc. 
Như vậy, nâng cao chất lượng cuộc sống chính là xây 
dựng con người toàn diện có đời sống văn hoá và tinh thần 
cao, phát huy những giá trị sống và đạo đức tốt đẹp trong 
xã hội; là tăng tiến chỉ số phát triển con người được biểu 
hiện cụ thể bằng các chỉ số về tuổi thọ, về y tế và giáo dục; 
là giảm dần tình trạng đói nghèo; và thực hành công bằng 
xã hội. 
1.1.3. Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế 
Qua quá trình nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của 
các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, những 
nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển 
kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân 
tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
24 
nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở 
mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau 
đưa đến kết quả tương ứng. 
Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức 
là kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động, là 
yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các 
yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có 
thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì 
khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc 
thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể 
phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình 
độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. 
Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu 
tố sản xuất cổ điển, những tài nguyên quan trọng nhất là 
đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn 
nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát 
triển kinh tế, có những nước được thiên nhiên ưu đãi một 
trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao 
gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, 
các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy 
luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú 
không quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản 
là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên 
nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng 
lao động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế 
đứng thứ hai trên thế giới về quy mô. 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
25 
Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo 
mức độ tư bản mà người lao động được sử dụng những 
máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao 
động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, 
phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương 
lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài 
hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao 
thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy 
nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân 
đầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những 
thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư 
bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần 
như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng 
dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: 
hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện 
quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi.... 
Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng 
kinh tế rõ ràng không phải là sự sao chép giản đơn, là việc 
đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó 
là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. 
Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và 
tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình 
sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng 
nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ 
sinh học, công nghệ vật liệu mới... có những bước tiến như 
vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
26 
Giữa tăng trưởng GDP và nâng cao chất lượng cuộc 
sống có mối quan hệ khăng khít với nhau. Tuy nhiên, tùy 
thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, 
trong mỗi thời kỳ mà mối quan hệ này được thể hiện ra là 
không giống nhau. Trong nhiều trường hợp, tăng trưởng 
GDP là nhân tố quyết định đến tăng chất lượng cuộc sống. 
Song cũng có rất nhiều quốc gia có mức tăng trưởng GDP 
khá hoặc cao nhưng thiếu bền vững làm cho chất lượng 
cuộc sống không được tăng lên tương ứng, thậm chí còn bị 
suy giảm. 
Nâng cao chất lượng cuộc sống có tác động trở lại 
tăng trưởng GDP ở nhiều mức độ và khía cạnh khác nhau. 
Nâng cao CLCS vừa là động lực, vừa là mục tiêu của tăng 
trưởng GDP. Cụ thể, phát triển con người (với chỉ số đại 
diện HDI), xóa đói giảm nghèo (thể hiện ra là tỉ lệ người 
nghèo đói) một cách bền vững sẽ thúc đẩy tăng trưởng 
kinh tế do tăng năng suất lao động (sức khỏe người lao 
động ngày và kỹ năng lao động ngày càng được cải thiện); 
phát triển văn hóa và thực hành công bằng xã hội tạo môi 
trường nhân văn cho các hoạt động kinh tế, giảm thiểu các 
tệ nạn và khuyến khích người dân tích lũy vốn vật chất và 
vốn con người cho tăng trưởng kinh tế. 
Nhận thức rõ tầm quan trọng của mối quan hệ giữa 
tăng trưởng kinh tế với vấn đề nâng cao chất lượng cuộc 
sống, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra mục tiêu: 
“... phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
27 
vật chất, tinh thần của nhân dân;...”. Mục tiêu này là sự 
phản ảnh thực tiễn trong suốt tiến trình đổi mới của Việt 
Nam sau một phần tư thế kỷ và qua sáu kỳ đại hội của 
Đảng cộng sản Việt Nam. Mỗi kỳ đại hội là một dịp để tư 
duy đổi mới của Việt Nam được kiểm chứng, được đúc kết 
và tiếp tục hoàn thiện sâu sắc hơn để trở thành lý luận, 
cương lĩnh chỉ đạo phát triển đất nước. Tiến trình đổi mới 
được xác định là toàn diện, được thực hiện trên tất cả các 
mặt của lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Trong đó, tư 
duy về tăng trưởng kinh tế luôn là tiền đề cơ bản, tiên 
quyết được đặt ra dưới sự định hướng, dẫn dắt của sứ 
mạng, của mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống cho 
người dân. 
Trong các nội dung của chất lượng cuộc sống đã nêu: 
(1) phát triển văn hóa; (2) phát triển con người; (3) Xóa đói 
giảm nghèo; và (4) Công bằng xã hội, thì sự kết hợp giữa 
tăng trưởng GDP với vấn đề nâng cao chất lượng cuộc 
sống chính là: (1) sự kết hợp tăng trưởng GDP với phát 
triển con người và phát triển văn hóa; (2) sự kết hợp tăng 
trưởng GDP với công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo. 
Đối với Việt Nam, nâng cao chất lượng cuộc sống 
người dân còn là tôn chỉ, mục đích xuyên suốt tiến trình 
đổi mới. Tại Đại hội Đảng toàn quốc XI, tư duy về nâng 
cao chất lượng cuộc sống cũng được Đảng thể hiện cụ thể 
trong nhiệm vụ: “Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và 
thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
28 
và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực 
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, 
giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ 
cho nhân dân.” 
* Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và phát triển con 
người 
Phát triển con người không chỉ là mục tiêu theo đuổi 
của các quốc gia phát triển trên thế giới. Đối với các quốc 
gia đang phát triển và kém phát triển, phát triển con người 
còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tăng trưởng kinh tế 
phải phục vụ cho con người, phải vì mục tiêu phát triển 
con người, trong đó, các chính sách về giáo dục, giải quyết 
việc làm và tạo cơ hội cho mỗi cá nhân tự phát triển là 
nhiệm vụ cơ bản và cấp thiết. Do đó, thuật ngữ “phát triển 
con người” đã xuất hiện vào những năm đầu thập niên 80 
của thế kỷ trước nhằm hạn chế sự chỉ trích ngày càng tăng 
đối với các mục đích và phương pháp phát triển kinh tế 
đang thịnh hành. Khái niệm này đề cập tới mục đích, yêu 
cầu liên kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế của quốc gia 
và khả năng mở rộng sự lựa chọn cá nhân của mỗi con 
người. Sau đó vào năm 1990, khái niệm và mô hình phát 
triển con người được xây dựng và được áp dụng phổ biến 
toàn cầu (Mahbub ul Haq, 1990). UNDP đưa ra một quan 
niệm về con người được gói gọn trong mệnh đề “Con 
người là tài sản thật sự của quốc gia” .Từ quan niệm này, 
UNDP đã khẳng định: “Phát triển con người không chỉ là 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
29 
sự tăng lên của thu nhập quốc dân, mà còn tạo ra một môi 
trường mà trong đó mọi người có thể phát triển mọi khả 
năng của mình và làm chủ một cuộc sống sáng tạo hữu ích, 
phù hợp với lợi ích và nhu cầu của họ”. Trong đó phát 
triển an sinh xã hội thông qua các chính sách cụ thể về y tế, 
giáo dục và việc phân phối sao cho hiệu quả các yếu tố này 
đến mỗi người dân là những yêu cầu cơ bản nhất. 
1.2.1.1 Tăng trưởng GDP với phát triển y tế và bảo vệ 
môi trường 
Tăng trưởng GDP cùng với một nền y tế tốt, một nền y 
tế tiên tiến là cơ sở để chất lượng cuộc sống người dân 
được nâng lên. Như trên đã đề cập chất lượng cuộc sống 
được thể hiện trên nhiều tiêu chí, trong đó có vấn đề tuổi 
thọ bình quân. Một nền y tế tiên tiến chắc chắn giúp cho 
tuổi thọ bình quân của người dân tăng lên và ngược lại. 
Tuổi thọ bình quân là một trong ba thành tố cơ bản phản 
ánh các thành tựu về phát triển con người. Tuổi thọ bình 
quân cao thể hiện con người có sức khỏe tốt, có cuộc sống 
dài lâu và khỏe mạnh. Sở dĩ có được như vậy là vì sự tác 
động rất lớn bởi mức sống của mỗi cá nhân ngày càng cao 
và môi trường sống tự nhiên tốt hơn. 
Chính từ mối quan hệ cơ bản đó, việc chăm lo sức khỏe đã 
được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Ngay từ Đại 
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra mục tiêu: “cải thiện 
từng bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, 
thực hiện công bằng xã hội” và “đáp ứng tốt hơn nhu cầu 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
30 
bảo vệ sức khoẻ của nhân dân.”. Đến kỳ đại hội VIII, vấn 
đề bảo vệ môi trường cũng đã được đặt ra cùng với các 
quan điểm về tăng trưởng kinh tế: “- Công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa; - Xây 
dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu; - tăng 
trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, 
phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công 
bằng xã hội, bảo vệ môi trường.”. 
Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP với y tế và môi trường 
được các nhà kinh tế học trên thế giới quan tâm. Đầu 
những năm 1990 của thế kỷ XX, các nhà kinh tế học đã có 
một sự đồng thuận trong lý thuyết phát triển con người và 
kinh tế sinh thái. Họ cho rằng mỗi sự tăng trưởng trong 
cung tiền đều dẫn đến sự mất mát dần các giá trị tinh thần 
và giảm chất lượng cuộc sống. Theo mô hình của Lawn 
[30, tr 108], các "chi phí" của hoạt động kinh tế bao gồm 
các hiệu ứng có hại tiềm tàng sau: (1) chi phí của sự suy 
giảm nguồn tài nguyên; (2) chi phí của tội phạm; (3) chi 
phí của sự suy giảm tầng ôzôn; (4) chi phí của gia đình tan 
vỡ; (5) chi phí của ô nhiễm không khí, nước, và ô nhiễm 
tiếng ồn; (6) mất đất nông nghiệp; (7) mất đất ngập nước. 
Năm 1995, nhà kinh tế học Robert Costanza cho rằng việc 
tăng trưởng kinh tế nếu không giải quyết tốt mối quan hệ 
với tài nguyên thiên nhiên sẽ dẫn đến sự suy thoái khả 
năng tái tạo môi trường như: xử lý chất thải, chống xói 
mòn, xanh hóa cây trồng,... Chính sự tận dụng tài nguyên 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
31 
nhằm mang lại lợi nhuận và gia tăng giá trị tiền tệ cho 
GDP nhưng gây rất nhiều nguy cơ trong dài hạn đối với 
tình hình lở đất, năng suất giảm, các loài bị biến mất, ô 
nhiễm nguồn nước,... Những hiệu ứng như vậy đã được 
thấy rất rõ rệt trong các khu vực bị tàn phá rừng nghiêm 
trọng như là ở Haiti, Indonesia, và rừng ngập mặn ven biển 
một số khu vực của Ấn Độ và Nam Mỹ. 
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển y tế và 
bảo vệ môi trường không chỉ là đơn thuần biểu hiện ở các 
nhân tố tác động trực tiếp mà còn là những nhân tố có tác 
động gián tiếp. Chẳng hạn sự tác động từ tăng trưởng kinh 
tế ảnh hưởng đến các hành vi tác động đến môi trường mà 
trong một nghiên cứu do NEF (New Economics 
Foundation - một tổ chức nghiên cứu kinh tế-xã hội có trụ 
sở chính tại Vương quốc Anh) đã công bố năm 2006 [54]. 
Những nghiên cứu trên cũng đã chỉ ra mối quan hệ giữa 
tuổi thọ, sự hài lòng cuộc sống và các hành vi tác động đến 
môi trường thông qua chỉ số Hành tinh hạnh phúc (HPI) 
(xem chi tiết trong phụ lục 4) . Chỉ số này biểu hiện dữ liệu 
phân tích các hành vi tác động đến môi trường thể hiện sự 
so sánh nhu cầu của con người vào thiên nhiên với khả 
năng của sinh quyển trong việc tái tạo nguồn lực. Các hành 
vi tác động đến môi trường của cuộc khảo sát được phân 
loại bao gồm: khí thải Carbon, thực phẩm, nhà ở, hàng hóa 
và dịch vụ,... cũng như các hành vi tác động môi trường 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
32 
cần thiết để duy trì dân số thế giới ở tại mức tiêu thụ của 
nó. 
1.2.1.2 Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP với phát triển 
giáo dục 
Đây là một trong những mối quan hệ cơ bản trong quá 
trình tăng trưởng GDP và chất lượng cuộc sống. Sở dĩ như 
vậy vì khi tốc độ tăng trưởng ngày càng cao, của cải được 
tạo ra ngày càng nhiều ắt hẳn chất lượng cuộc sống ngày 
càng có điều kiện nâng cao lên. Ngược lại chất lượng cuộc 
sống tốt hơn lại là cơ sở, điều kiện cần thiết cho tăng 
trưởng GDP. Trong các nhân tố quyết định đến tăng trưởng 
GDP và nâng cao chất lượng cuộc sống thì giáo dục đào 
tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. 
Trong điều kiện ngày nay cùng với sự phát triển nhanh 
như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thì 
giáo dục đào tạo là nhân tố hàng đầu, bởi giáo dục đào tạo 
không chỉ sáng tạo ra các thành tựu khoa học công nghệ 
mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng các thành 
tựu đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Chính vì lẽ 
đó, việc phát triển giáo dục đào tạo có vai trò quyết định 
đối với tăng trưởng GDP. 
Nhận thức được mối quan hệ và tầm quan trọng của 
vấn đề này không chỉ ở Việt Nam mà các nước trên thế 
giới đều quan tâm đến sự nghiệp giáo dục đào tạo. Đối với 
Việt Nam, Đảng rất quan tâm đến vấn đề giáo dục và trong 
các văn bản quan trọng đều nhấn mạnh vấn đề này. Giáo 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
33 
dục đã trở thành quốc sách hàng đầu, là một trong những 
đột phá quan trọng nhằm đưa đất nước tiến nhanh và vững 
chắc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước. Giáo dục là nâng cao tri thức cho con 
người, làm cho con người phát triển toàn diện. Giáo dục là 
một trong ba thành tố trong mục tiêu phát triển con người 
được đo bằng chỉ số học vấn (tỉ lệ số người lớn biết chữ và 
tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục). 
 Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt quan tâm đến vấn đề 
giáo dục đào tạo, đến phát triển con người, Người đã nêu 
ra câu nói nổi tiếng: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi 
ích trăm năm trồng người”. Khi viết thư cho học sinh nhân 
ngày khai giảng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa, Hồ Chí Minh viết: “Ngày nay các em được cái 
may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một nền giáo dục 
của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các 
em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, 
một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực 
sẵn có của các em” [7, tr 40]. Hồ Chí Minh từng căn dặn 
“muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những 
con người xã hội chủ nghĩa” [9, tr 310]. Khi nhấn mạnh 
vai trò của con người mới XHCN, Hồ Chí Minh đã chỉ ra 
một loạt các phạm trù đạo đức cơ bản cần có là “thiện, 
trung-hiếu, nhân-trí-dũng, tình-nghĩa”, “yêu thương con 
người”, “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Hồ Chí 
Minh cũng để lại rất nhiều những lời dạy cho các công bộc 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
34 
của dân thuộc mọi lĩnh vực (quân đội, công an, công chức 
chính quyền, và giới doanh nhân, trí thức...) học tập, rèn 
luyện noi theo. Hiện nay, đó là những nội dung được tập 
hợp đầy đủ trong các cuộc vận động “Học tập và làm theo 
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tại Việt Nam. 
Nhận thức rõ tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế 
phải gắn liền với phát triển giáo dục, coi giáo dục vừa là 
động lực, vừa là mục tiêu giúp con người vươn lên cải 
thiện đời sống, văn kiện Đại hội IX của đảng đã chỉ rõ: 
“Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch 
mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá 
đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội; ổn định 
và cải thiện đời sống nhân dân” .Trong suốt tiến trình đổi 
mới ở Việt Nam, đường lối chính sách của Đảng đã rất 
kiên định và ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Những 
tư duy, quan điểm mới trong việc giải quyết mối quan hệ 
giữa tăng trưởng kinh tế và mục tiêu nâng cao chất lượng 
cuộc sống cũng được điều chỉnh cho phù hợp hơn với hoàn 
cảnh mới. Trong văn kiện đại hội đảng XI, quan điểm đó 
được tiếp tục thể hiện cụ thể như sau: 
Một là, thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng 
bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. 
Đây là quan điểm chỉ đạo cơ bản và nhất quán xuyên suốt 
quá trình đổi mới và trong thời gian tới. 
21 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
35 
Hai là, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển 
văn hóa, y tế, giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì 
mục tiêu phát triển con người và nâng cao chất lượng cuộc 
sống. 
Ba là, phát triển vì con người, lấy con người là trọng 
tâm là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế. Tăng trưởng 
kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống vừa là mục tiêu 
vừa là động lực của sự phát triển xã hội. 
Việc phát triển con người bao giờ cũng gắn với lợi ích 
của chính con người, là vấn đề đáp ứng những nhu cầu 
sống của từng cá nhân trong xã hội và cuối cùng là đem lại 
cho mỗi người dân cái quyền được sống một cuộc sống 
thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu tinh thần và vật 
chất. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) cũng 
thể hiện quan điểm rất rõ về con người khi tuyên bố: “Con 
người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là 
chủ thể phát triển.”. Trên cơ sở nhìn nhận thực tiễn đó, 
trong văn kiện đại hội XI, Đảng CSVN tiếp tục hoàn thiện 
tư duy thể hiện trong mục tiêu tổng quát: “phát triển kinh 
tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần 
của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng 
cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ 
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến 
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo 
hướng hiện đại” từ đó đề ra nhiệm vụ: “Tập trung giải 
Tiểu luận Kinh Tế Phát Triển 
36 
quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, 
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo 
bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, 
bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều 
kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.” 
Trong “

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_tang_truong_kinh_te_va_van_de_nang_cao_chat_luong.pdf