Tiểu luận Tự do hoá tài chính ở các nước đang phát triển và khả năng chuyển tổi tiền tệ của VND

pdf 38 trang yenvu 11/05/2024 850
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tự do hoá tài chính ở các nước đang phát triển và khả năng chuyển tổi tiền tệ của VND", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tự do hoá tài chính ở các nước đang phát triển và khả năng chuyển tổi tiền tệ của VND

Tiểu luận Tự do hoá tài chính ở các nước đang phát triển và khả năng chuyển tổi tiền tệ của VND
 ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM 
KHOA KINH TẾ - LUẬT 
TIỂU LUẬN MÔN HỌC 
NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG & CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 
ĐỀ TÀI 
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở CÁC NƯỚC ĐANG 
PHÁT TRIỂN VÀ KHẢ NĂNG CHUYỂN ĐỔI 0 
TIỀN TỆ CỦA VNĐ 
 Nhóm học viên: 1. Cù Xuân Tiến 
 2. Đoàn Thị Minh Thuận 
 3. Cao Nguyễn Diễm Thy 
 4. Võ Trần Anh Thư 
 5. Huỳnh Thị Đoàn Trâm 
 6. Nguyễn Thị Hồng Thúy 
 Lớp : Cao Học Khóa 9 
 Chuyên ngành : Kinh tế Tài chính – Ngân hàng 
TP.HCM, NĂM 2010 
PHẦN MỞ ĐẦU 
1/.Tính cấp thiết của đề tài: 
Trong một quốc gia, hoạt động của hệ thống tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự 
phát triển kinh tế – xã hội. Quốc gia có hệ thống tài chính mạnh sẽ thúc đẩy quá trình lưu thông 
tiền tệ, kích thích mọi thành phần kinh tế phát triển. 
Cho đến nay, có rất nhiều nhà kinh tế học nổi tiếng như (Levine (1997), Siddiki (1999a), 
Ghatak (1997) nghiên cứu về vấn đề tự do hoá tài chính ở các nước đang phát triển. Kết quả 
nghiên cứu của họ đều khẳng định rằng việc tự do hóa tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với vấn 
đề tăng trưởng kinh tế bền vững. Nói cách khác tự do hoá tài chính sẽ nâng cao chất lượng của 
nguồn nhân lực, gia tăng tiết kiệm và đầu tư, làm cho tỷ trọng tiết kiệm dành cho đầu tư ngày 
càng tăng, hiệu quả đầu tư; và do đó, sẽ kích thích sự tăng trưởng kinh tế và chất lượng của tăng 
trưởng kinh tế. 
Từ khi thực hiện chính sách mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể 
trong việc ổn định và phát triển trên cơ sở từng bước thâm nhập vào nền kinh tế thế giới. Việc 
chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN (năm 1995), kèm theo là 
những cam kết tham gia khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) (năm 1996), gia nhập Tổ chức 
thương mại thế giới (WTO) (năm 2006), Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường ở hầu hết các lĩnh 
vực, trong đó việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính là đáng quan tâm hơn cả vì mục tiêu phát 
triển kinh tế xã hội có đạt được hay không phụ thuộc phần lớn vào sự thành công của tiến trình 
tự do hoá tài chính. 
Việc tìm hiểu cơ sở lý luận về tự do hoá tài chính, học tập kinh nghiệm tự do hoá tài chính 
ở một số nước đang phát triển, từ đó có thể rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam là rất 
cần thiết trong tiến trình hội nhập hiện nay. Chính vì lý do đó , nhóm chúng tôi chọn đề tài 
nghiên cứu “ Tự do hoá tài chính ở các nước đang phát triển và khả năng chuyển tổi tiền tệ 
của VND” 
2/.Mục đích & nhiệm vụ nghiên cứu: 
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích và thực hiện các nhiệm vụ sau: 
 Tìm hiểu cơ sở lý luận về tự do hoá tài chính, làm rõ các tác động tích cực cũng như 
tiêu cực của tiến trình tự do hoá tài chính đến nền kinh tế các nước, để từ đó có thể 
giảm thiểu các tác động rủi ro trong tiến trình tự do hoá tài chính. 
 Học tập kinh nghiệm tự do hoá tài chính ở một số nước đang phát triển, từ đó có thể 
rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 
 Tìm hiểu thực trạng tự do hoá tài chính của Việt Nam và bài học kinh nghiệm rút ra 
 Trên cơ sở đó, đề tài còn tập trung nghiên cứu thực tiễn khả năng chuyển đổi tiền tệ 
của VNĐ để từ đó đề xuất giải pháp thích hợp cho việc nâng cao tính chuyển đổi 
của VND trong xu thế thương mai hoá và hội nhập hiện nay. 
3/.Phương pháp nghiên cứu: 
Phương pháp chủ yếu là tổng hợp và phân tích trên cơ sở so sánh đối chiếu các số 
liệu từ các nguồn tài liệu chính thống như các văn bản pháp định của ngành ngân hàng, 
sách báo, tạo chí, internetĐể từ đó có cái nhìn tổng quát hơn về tự do hoá tài chính ở 
một số nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. 
4/.Ý nghĩa của đề tài: 
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên nội dung nghiên cứu của đề tài còn hạn chế và 
không thể tránh khỏi sai sót. Tuy nhiên, với những vấn đề được trình bày trong đề tài có 
thể sử dụng làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và học tập của nhóm, làm cơ sở để 
nhóm tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về vấn đề “ Tự do hoá tài chính ở các nước đang phát triển 
và khả năng chuyển tổi tiền tệ của VND” . 
PHẦN 1: TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở 
CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 
I/.Khái quát về tự do hóa tài chính: 
1/.Khái niệm tự do hóa TC: 
Cho đến nay, vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về tự do hoá tài chính. Các học 
giả thường tiếp cận khái niệm đối nghịch là “kiềm chế tài chính”. Theo MCKinnon và 
Shaw, người đặt nền tảng lý thuyết về tự do hoá tài chính, trong tác phẩm “ Tiền và vốn 
trong phát triển kinh tế” (1973) mô tả hệ thống tài chính bị kìm hãm là hệ thống trong đó 
chính phủ đưa ra các quyết định về phân bổ tín dụng và lãi suất, quyết định cấp phép và 
hoạt động được phép của các tổ chức tài chính và kiểm soát luồng vốn quốc tế. 
Như vậy, đối lập với kiềm chế tài chính, tự do hóa tài chính thực chất là quá trình 
giảm thiểu và cuối cùng là xoá bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ 
thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo 
quy luật thị trường. 
2/.Nội dung của tự do hóa tài chính: 
 Tự do hoá tài chính trong nước: 
Mục đích của tiến trình tự do hoá tài chính trong nước là để tạo điều kiện cho 
các dòng vốn có thể tự do di chuyển đến khu vực hiệu quả nhất trong phạm vị 
quốc gia mà không bị vấp phải các rào cản phi kinh tế nào. Bao gồm: 
 Tự do hoá các dịch vụ ngân hàng 
 Bãi bỏ kiểm soát tín dụng hay tự do hoá hoạt động tín dụng 
 Tạo môi trường bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng trong nước 
 Tự do hoá tài chính quốc tế: 
Mục đích của tự do hoá tài chính quốc tế là để hội nhập thị trường tài chính 
trong nước với thị trường tài chính quốc tế, đề luồng vốn có thể di chuyển tự 
do trên phạm vi quốc tế. Bao gồm: 
 Mở cửa khu vực ngân hàng 
 Tự do di chuyển luồng vốn 
 Tự do hoá tỷ giá và thị trường ngoại hối 
3/.Trình tự tự do hoá tài chính: 
McKinnon (1982) lập luận rằng tự do hóa tài chính nói riêng và tự do hóa kinh tế 
nói chung phải được tiến hành theo trình tự. Lý thuyết “Second Best” (chính sách tốt nhất 
thứ hai) được áp dụng. Vấn đề phức tạp là ta có thể lập luận để ủng hộ cho bất cứ trình tự 
tự do hóa nào dựa vào cách đặt giả thiết và quá trình không chỉ phụ thuộc vào trình tự mà 
còn vào cả nhịp độ. 
Sau đây là trình tự tự do hóa tài chính – giải pháp của McKinnon và Shaw được 
các nhà kinh tế chấp nhận: 
Tự do hoá tài chính 
Giảm 
dự trữ 
bắt 
buộc 
Bỏ 
kiểm 
soát 
lã i 
suất 
Đa 
dạng 
hoá 
sở 
hữu 
Tăng 
cạnh 
tranh 
Bỏ tín 
dụng 
chỉ 
định 
Cải cách thương mại 
Quản lý tỷ giá hối đoái 
Giảm 
thâm hụt 
ngân sách 
Cải cách 
tài khoản 
vốn 
Giảm thâm hụt ngân sách là bước đi cần thiết đầu tiên. Như đã trình bày, thâm hụt 
ngân sách không được giảm thì tự do hóa tài chính càng dẫn tới bất ổn định và cuối cùng 
sẽ bị đảo ngược. 
Tự do hóa tài chính có thể đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế bằng cách gia tăng về 
lượng và về hiệu quả vốn đầu tư. Tuy nhiên, lượng vốn gia tăng phải được phân bổ trên 
cơ sở các tín hiệu đúng về giá vào những ngành có lợi thế so sánh và có suất sinh lợi xã 
hội cao. Do vậy, cải cách thương mại cần phải được tiến hành song song để giảm thiểu 
những biến dạng về giá do các rào cản thương mại gây ra. 
Lý do cải cách thương mại phải được thực hiện trước việc nới lỏng kiểm soát 
ngoại hối và cải cách tài khoản vốn là tự do hóa tài khoản vốn thường dẫn tới dòng vốn 
chảy vào, rồi làm tăng đột ngột và tỷ giá hối đoái bị lên giá. Động thái này tạo ra các tín 
hiệu giá mâu thuẫn với cải cách thương mại: tỷ giá hối đoái lên giá làm suy giảm khu vực 
xuất khẩu trong khi cải cách thương mại là để tăng cường khu vực này. 
Quản lý tỷ giá hối đoái là nhiệm vụ cần được tiến hành trong suốt quá trình tự do 
hóa với vai trò vừa là công cụ, vừa là mục tiêu. Việc lựa chọn cơ chế tỷ giá hối đoái (thả 
nổi, cố định, biên độ giao động thay đổi,) tùy thuộc vào tình hình kinh tế cũng như 
bước đi cụ thể đang tiến hành trong quá trình cải cách. 
4/.Tác động của tự do hóa TC: 
a/.Tác động tích cực: 
Nhìn từ góc độ kinh tế, hoạt động dịch vụ tài chính cũng giống như các hoạt động 
trao đổi mua bán các hàng hoá và dịch vụ khác, có thể có những tác động tích cực đến thu 
nhập và sự tăng trưởng của tất cả các đối tác tham gia. Lợi ích của việc tự do hoá các 
hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính có thể có được nhìn nhận trên một 
số giác độ sau: 
 Tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực 
dịch vụ tài chính hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn, đồng thời giúp các tổ 
chức tài chính nội địa có điều kiện cải thiện năng lực quản lý. 
 Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài 
chính được cung cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được 
hưởng những sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chi phí và thời gian 
ít nhất. 
 Tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho việc 
chuyển giao công nghệ và làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống. 
 Tự do hoá các dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc thiết lập một 
chính sách kinh tế vĩ mô có hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong 
một nền kinh tế mở, trên cơ sở đó thực hiện phân phối nguồn lực một cách có 
hiệu quả trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế kinh tế trong nước và thế giới. 
b/. Tác động tiêu cực: 
Tiềm năng lợi ích của tự do hoá tài chính là rất lớn, tuy nhiên tự do hoá tài chính 
cũng có những mặt trái nhất thiết phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt trong điều kiện 
xu thế tự do hoá tài chính cũng mới chỉ dừng lại ở những bước đi ban dầu. Những hạn 
chế của tự do hoá tài chính thông thường được nhìn nhận như sau: 
 Tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng 
hoảng tài chính nếu tiến trình tự do hoá được thực hiện một cách nôn nóng, sai 
trình tự hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc 
gia và quốc tế. 
 Việc tự do hoá tài chính có thể làm trầm trọng thêm những yếu kém 
trong thể chế và các chính sách tài chính vĩ mô vốn dĩ đã tiềm ẩn do những 
yếu kém của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của hệ thống chính sách 
quản lý vĩ mô, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát, kiểm tra có hiệu quả và 
sự sai lệch trong đường lối cải cách 
 Việc mở cửa thị trường tài chính có thể là nguy cơ làm xao nhãng 
hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành công cụ tài chính của nhà nước để 
thực hiện những mục tiêu quan trọng của 1 quốc gia vì các tổ chức, doanh 
nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn là mục 
đích lợi nhuận. 
 Trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh 
kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp tài 
chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống chế và điều khiển thị trường 
tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể phương hại đến 
mục tiêu chiến lược của quốc gia. 
 Hơn nữa, việc mở cửa thị trường tài chính nếu không được chuẩn bị 
kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như lừa 
đảo, phá sản, đổ vỡ... gây thiệt hại đến lợi ích của người tiêu dùng. 
II/. Kinh nghiệm về tự do hóa tài chính ở một số nước: 
Kinh nghiệm tự do hóa tài chính cho thấy tầm quan trọng của việc xử lý ngay từ 
đầu những vấn đề liên quan đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính – ngân hàng, góp 
phần nâng cao hiệu quả phân bổ các nguồn lực và ngăn ngừa nguy cơ khủng hoảng. 
Nguyên nhân cơ bản của các cuộc khủng hoảng tài chính thường bắt nguồn từ các biện 
pháp tự do hóa tài chính. Ở một chừng mực nhất định, việc tham khảo kinh nghiệm và 
những bài học thực tế về việc mở cửa thị trường ở một số nước là cần thiết cho những 
nước đi sau. 
1/.Kinh nghiệm của Trung Quốc: 
Đối với Trung Quốc đã xây dựng lộ trình tự do hóa tài chính dựa trên cách tiếp 
cận của ADB. Trình tự mở cửa thị trường tài chính của Trung Quốc được xây dựng trên 
cơ sở thừa nhận sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng, đánh giá mức độ rủi ro và 
thực hiện tự do hóa thận trọng, đầu tiên là khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiếp 
theo là đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán, cuối cùng là tự do hóa 
các khoản vay nợ nước ngoài, cụ thể là: 
- Giải quyết nợ xấu để hạn chế rủi ro cho các ngân hàng; 
- Xây dựng thể chế để có hệ thống luật pháp công khai minh bạch; 
- Từng bước tự do hóa tài chính nội địa; 
- Từng bước tự do hóa lãi suất; 
- Tổ chức lại và củng cố các TCTD để tăng cường năng lực cạnh tranh; 
- Thực hiện cơ chế tỷ giá theo hướng linh hoạt hơn; 
- Giải quyết khó khăn tài khóa để giảm bớt tình trạng thất nghiệp. 
Tự do hóa tài khoản vốn là mục tiêu cuối cùng, nhưng Trung Quốc chưa đủ điều 
kiện nên được thực hiện có giới hạn với sự giám sát chặt chẽ, nhất là đối với dòng vốn 
ngắn hạn vào thị trường chứng khoán và dòng vốn ra. Vì vậy, đối với tài khoản vốn, 
nguyên tắc cơ bản của Trung Quốc là mở cửa có giới hạn, các dự án sử dụng vốn nước 
ngoài và đầu tư bằng vốn nước ngoài đều được thẩm tra, đặc biệt nhấn mạnh giám sát 
chặt chẽ chu chuyển của dòng vốn ngắn hạn, bao gồm các giao dịch vốn trên thị trường 
chứng khoán và hạn chế việc chuyển vốn ngoại hối ra nước ngoài. 
Về quản lý nợ vay nước ngoài, Chính phủ quyết định hạn mức vay nợ trung, dài 
hạn hàng năm, quy định thời hạn trả nợ và loại tiền vay và phân bổ cho các ngành nghề, 
khu vực. 
Nhìn chung cho đến nay, hệ thống dịch vụ tài chính ở Trung Quốc vẫn bị chính 
phủ khống chế và kiểm soát chặt chẽ. Mức độ mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt 
động còn rất hạn chế. Những đặc điểm chính của thị trường dịch vụ tài chính của Trung 
Quốc như sau: 
HỆ thống ngân hàng: 
- Các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước kiểm soát trên 80% thị phần và thực hiện 
việc phân phối tín dụng dựa trên kế hoạch tín dụng của trung ương, phần lớn các khoản 
tiền gửi nằm ngoài kênh gửi tiền chính thức nhằm mục đích đầu cơ. Các ngân hàng 
thương mại thực hiện hoạt động cho vay ngầm nhiều hơn hoạt động cho vay chính thức. 
- Các ngân hàng nước ngoài chỉ được phép hoạt động ở một số vùng kinh tế đặc 
biệt,. không cho phép các ngân hàng đầu tư nước ngoài mở chi nhánh. Ngân hàng nước 
ngoài có thể hoạt động dưới dạng liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài nếu được cơ 
quan có thẩm quyền cho phép và phải gửi 30% vốn tối thiểu vào Ngân hàng Nhân dân 
Trung Quốc. 
- Họat động giao dịch của ngân hàng nước ngoài chủ yếu hạn chế trong khuôn khổ 
các ngoại tệ mạnh (gần đây có cấp phép cho một số ít ngân hàng nước ngoài được thực 
hiện giao dịch bằng đồng nhân dân tệ).Ngân hàng nước ngoài chỉ được thực hiện các hoạt 
động dịch vụ bán buôn. 
-Trước khi mở chi nhánh, ngân hàng nước ngoài phải có ít nhất 3 năm hoạt động 
dưới dạng văn phòng đại diện và phải có số vốn ít nhất 100 triệu nhân dân tệ (NDT). 
Thị trường bảo hiểm: 
-Thị trường bảo hiểm còn nhỏ bé và thống trị bởi các công ty bảo hiểm Nhà nước. 
Nhà nước quyết định tỷ lệ hoa hồng bảo hiểm. Đa số tiền bảo hiểm thu được được gửi tại 
tài khoản có tính lãi. 
-Công ty bảo hiểm nước ngoài muốn được cấp phép hoạt động đầy đủ phải chờ 
đợi trong khoảng thời gian 3 năm thẩm định. Sở hữu vốn nước ngoài trong các công ty 
liên doanh chỉ giới hạn đến 49%. Việc hồi hương vốn bị hạn chế nghiêm ngặt. Các hãng 
bảo hiểm nước ngoài bị hạn chế trong việc cạnh tranh với các công ty bảo hiểm thương 
mại của Nhà nước. 
Thị trường chứng khoán: 
-Thị trường chứng khoán ở Trung Quốc chưa phát triển. Thị trường trái phiếu rất 
mỏng.Thị trường trái phiếu phi chính phủ không đáng kể. Trung Quốc chưa có Luật 
chứng khoán quốc gia. Chính phủ kiểm soát giao dịch chứng khoán của các công ty, 
doanh nghiệp sở hữu Nhà nước. Chỉ có khoảng 1/3 số cổ phiếu được giao dịch Quỹ hỗ 
tương không được phép thành lập. 
-Các công ty nước ngoài kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán không được phép 
thành lập chi nhánh hoặc công ty con, mà chỉ được phép thành lập dưới dạng liên doanh. 
Sở hữu vốn nước ngoài được phép đến 85%. 
-Các văn phòng đại diện không được phép thực hiện hoạt động kinh doanh chứng 
khoán của các công ty có vốn nước ngoài chỉ được phép đối với loại chứng khoán có 
mệnh giá bằng ngoại tệ. Không được phép thực hiện các giao dịch phái s inh. Việc hồi 
hương lợi nhuận phải được chính phủ phê duyệt. 
Như vậy, có thể thấy rằng việc cải cách kinh tế theo hướng mở cửa tuy đã được 
thực hiện trên hai thập kỷ, song Trung Quốc vẫn tỏ ra hết sức dè dặt trong việc mở cửa 
thị trường dịch vụ tài chính. Thị trường dịch vụ tài chính vẫn gần như được thống soái 
tuyệt đối bởi các tổ chức tài chính nội địa và chủ yếu là khu vực Nhà nước. Yếu tố cạnh 
tranh trong các hoạt động dịch vụ tài chính chưa phát triển thực sự , Trung Quốc cần có 
thời gian và những cải cách mạnh mẽ hơn, trước khi thực hiện việc tự do hoá theo những 
cam kết khi gia nhập WTO. 
 Trung Quốc có khá nhiều kênh tiêu thụ ngoại tệ. Trong khi phát triển TTCK, nước 
này theo đuổi chiến lược mang tên: “Phân khúc thị trường theo từng loại nhà đầu tư”. Với 
chiến lược này, Trung Quốc đã hình thành các thị trường khác nhau, trong đó có thị 
trường cổ phiếu loại B. Cổ phiếu loại B là những cổ phiếu do các công ty nội địa của 
Trung Quốc phát hành, dành riêng cho nhà đầu tư nước ngoài. Các cổ phiếu này được 
định danh bằng đồng NDT nhưng được chi trả cổ tức và mua bán bằng ngoại tệ (hiện 
nay, các nhà đầu tư trong nước đã được tham gia mua bán cổ phiếu loại B nên quy mô 
giao dịch tương đối lớn). Ngược lại, là cổ phiếu loại A vốn chỉ dành riêng cho nhà đầu tư 
trong nước. Cả hai loại cổ phiếu này được niêm yết trên các sàn giao dịch của Trung 
Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc còn các loại cổ phiếu khác như: H-shares; N-shares; S-
shares, Red chips 
 Việc hình thành cổ phiếu loại B đã làm giảm nhu cầu chuyển đổi từ ngoại tệ sang 
nội tệ để đầu tư. Do vậy, sẽ giảm áp lực cho ngân hàng trong việc thu gom ngoại tệ nhằm 
ổn định tỷ giá. Đối với thị trường các cổ phiếu loại A, Trung Quốc đã cấp hạn ngạch đầu 
tư cho nhà đầu tư nước ngoài. Tháng 11/2007, Trung Quốc đã mở rộng hạn ngạch từ 10 
tỷ USD lên 30 tỷ USD theo Luật QFII. Do vậy, đã hạn chế việc chuyển đổi sang nội tệ 
nhằm đầu tư vào cổ phiếu loại A. 
 Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc khá mạnh. Bên cạnh đó 
là hoạt động M&A các công ty nước ngoài.. Một số vụ M&A điển hình như chi 3 tỷ USD 
để mua 10% cổ phiếu Quỹ đầu tư Blackstone hay như vụ Công ty Đầu tư Trung Quốc 
(CIC) mua 5 tỷ USD cổ phiếu của Morgan Stanley. 
 Trung Quốc cũng hướng tới việc đầu tư vào TTCK các nước nhằm tìm kiếm lợi 
nhuận và giảm áp lực tăng giá đồng nội tệ, Uỷ ban Pháp chế Trung Quốc cho phép các 
ngân hàng được đầu tư tiền mặt mua cổ phiếu nước ngoài. 
 Tóm lại, Trung Quốc đã có những kênh tiêu thụ để giảm bớt lượng ngoại tệ đổ 
vào. Trong vòng 10 năm qua, Trung Quốc đã tung ra số NDT bằng 40% lượng cung tiền 
để mua vào gần 1.000 tỷ USD ngoại tệ mạnh, nhưng lạm phát bình quân chưa đến 1%, 
trong khi tốc độ tăng cung tiền lên đến 16% và tốc độ tăng dự trữ ngoại hối trên 24%. 
 Tuy nhiên, không phải mọi việc đều trọn vẹn. Năm 2007, sự gia tăng của dòng vốn 
ngoại dù không tạo nên những áp lực quá lớn lên lạm phát và tỷ giá, nhưng Trung Quốc 
vẫn không thể tránh khỏi tác động của lý thuyết bộ ba bất khả thi. Việc tạo ra sự luân 
chuyển mạnh hơn trong dòng vốn đang tạo ra chiều hướng đi lên trong lạm phát và tỷ giá. 
Và để giải quyết vấn đề này, Trung Quốc buộc phải lựa chọn giữa hai mục tiêu: kiềm chế 
lạm phát và giảm bớt sự tăng giá của đồng nội tệ. Thành công của Trung Quốc có được là 
do nước này đã định giá đồng tiền ở mức thấp tạo ra lợi thế cạnh tranh ngoại thương cộng 
với một tiến trình cải cách thương mại và cải cách tài chính hợp lý. 
2/.Kinh nghiệm của Thái Lan: 
Thái Lan được xem là nơi châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại 
châu Á vào năm 1997-1998. Có thể thấy rằng khủng hoảng là điều tất yếu và một trong 
những nguyên nhân chính là do các nước trong khu vực đã quá vội vã trong việc tự do 
hóa tài khoản vốn và áp dụng cơ chế cố định tỷ giá khi mà nền kinh tế chưa thực sự ổn 
định, khu vực tài chính ngân hàng còn bộc lộ nhiều yếu kém cộng với những cải cách 
khác chưa được thực hiện theo tiến trình tự do hóa tài chính nêu trên. Một trong những 
sai lầm lớn nhất là việc Thái Lan đã mở tài khoản vốn quá sớm làm cho một dòng nợ, 
nhất là nợ ngắn hạn khổng lồ đổ vào kết hợp với chính sách cố định tỷ giá ở mức cao, 
đồng tiền kém sức cạnh tranh, thâm hụt thương mại gia tăng làm cho vấn đề trầm trọng 
hơn. 
Ở Thái Lan, khi tài khoản vốn được tự do cộng với kỳ vọng quá lớn của các nhà 
đầu tư và sự lỏng lẻo trong việc kiểm soát các khoản nợ vay đã làm cho dòng vốn ồ ạt 
chảy vào. Chỉ trong 10 năm từ 1987-1996, đã có đến 100 tỷ USD được đổ vào Thái Lan. 
Nghiêm trọng hơn, trên 70% số tiền này là vốn vay với hơn nửa là vay ngắn hạn do các tổ 
chức tài chính, nhất là các công ty tài chính trong nước vay để đầu tư dài hạn và bất động 
sản chiếm một tỷ trọng không nhỏ .Thêm vào đó, với tỷ giá được giữ gần như cố định ở 
mức 25 Baht/USD quá lâu khi mà thâm hụt thương mại kéo dài đã làm cho áp lực giảm 
giá đồng Baht ngày càng gia tăng. 
Những chỉ số kinh tế vĩ mô đẹp mắt tồn tại trong thời gian dài như: tốc độ tăng 
trưởng bình quân 9,5%, thất nghiệp dưới 2%, dự trữ ngoại hối tăng bình quân 26,2% với 
35 tỷ USD được mua thêm, trong khi tốc độ tăng cung tiền chỉ là 18,7% và tỉ lệ lạm phát 
bình quân 4,7%, năm cao nhất chỉ là 6%...Cuối cùng, áp lực của những khoản nợ đến 
hạn, áp lực của thâm hụt ngoại thương liên tục đã vượt quá sức chịu đựng của nền kinh 
tế, nhu cầu ngoại tệ gia tăng đột biến. Mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ USD trong gần 40 tỷ 
USD dự trữ ngoại hối, nhưng Thái Lan đã không đủ sức giữ được tỷ giá. Đồng Baht bị 
phá giá và khủng hoảng xảy ra với những hậu quả khôn lường. 
Sau cuộc khủng hoảng này, tuy có một số biện pháp xiết chặt, nhưng nhìn chung 
tài khoản vốn vẫn coi như được tự do cộng với một cái mới là tỷ giá được thả nổi. Điểm 
đáng chú ý nhất là sau khi phá giá đồng Baht, thặng dư thương mại ngày càng gia tăng. 
Hơn thế nữa, dòng vốn nước ngoài đang quay trở lại ngày một nhiều hơn. Hệ quả tất yếu 
của điều này là áp lực tăng giá đồng tiền trong nước tác động tiêu cực đến hoạt động xuất 
khẩu. Sự lo lắng đã biến thành hành động cụ thể khi mà vào ngày 18/12/2006, Thái Lan 
đã quyết định áp dụng các biện pháp hành chính nhằm hạn chế dòng dòng tiền đổ vào. 
Hậu quả tức thời là ngay ngày thứ Ba hôm sau, thị trường chứng khoán sụt giảm 15%, 
mức cao nhất kể từ năm 1990. Lo sợ một cuộc khủng hoảng xảy ra, ngay ngày hôm sau 
quyết định này đã được dỡ bỏ trong sự lúng túng đối với vấn đề đang cần giải quyết. 
Sau khủng hoảng tài chính, Thái Lan tái thực hiện kiểm soát luồng vốn ra trước áp 
lực lớn về tỷ giá, mục tiêu là ngăn chặn đầu cơ và ổn định thị trường ngoại hối trong bối 
cảnh dự trữ ngoại hối giảm mạnh, các cơ quan tiền tệ trong nước có khoảng thời gian 
nhất định để khắc phục những mất cân bằng về kinh tế vĩ mô và thực hiện cải cách hệ 
thống ngân hàng. Thái Lan áp dụng cơ chế “neo” tỷ giá tại thời điểm áp đặt kiểm soát, 
Thái Lan yêu cầu các tổ chức tài chính hạn chế và đình chỉ các giao dịch với người không 
cư trú (bao gồm cho vay đồng Baht qua giao dịch hoán đổi, giao dịch kỳ hạn về đồng 
baht và bán đồng baht lấy ngoại tệ), phải thanh toán bằng USD đối với giao dịch mua hối 
phiếu bằng đồng baht trước kỳ hạn và những công cụ nợ khác, cấm các nhà đầu tư cổ 
phiếu nước ngoài chuyển vốn về nước bằng đồng baht (nhưng được tự do chuyển vốn 
bằng ngoại tệ), người không cư trú phải áp dụng tỷ giá nước ngoài khi chuyển đổi lợi 
nhuận bằng đồng baht thu được từ việc bán chứng khoán. 
III/. Thực trạng tự do hóa TC và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam: 
1. Thực trạng tự do hoá tài chính ở Việt Nam: 
Việt nam bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới nền kinh tế và mở cửa năm 1986. 
Xu thế hội nhập của Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua các mối quan hệ 
liên kết kinh tế đã được thiết lập trong những năm tiếp theo như tham gia ASEAN 
(1995), APEC (1998), ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ (2000), là thành viên của 
WTO (2006),Song song với những cải cách kinh tế, hệ thống tài chính có nhiều thay 
đổi, hội nhập hơn theo hướng hiệu quả, cạnh tranh và mở cửa từng bước. 
 Hệ thống ngân hàng không ngừng cải cách để nâng cao hiệu quả phân bổ và sử 
dụng các nguồn lực tài chính. Việt nam cải cách kinh tế gắn chặt với tự do hoá tài chính 
trong mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau, mở ra nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển cho hệ 
thống ngân hàng. 
Tự do hoá tài chính ở Việt Nam gồm: tự do hoá lãi suất, tự do hóa tỷ giá hối đoái, 
tự do hoá tài khoản vốn và xoá bỏ các chỉ thị trong việc điều hành chính sách tài chính 
tiền tệ. 
a/. Tự do hoá lãi suất: 
Quá trình tự do hoá lãi suất ở VN là quá trình thay đổi cơ chế điều hành lãi suất 
qua các thời kỳ phát triển của nền kinh tế, quá trình đó được thể hiện như sau: 
Nội 
dung 
Trước 1992 1992 – 1995 1996 – 2000 2000 – 2002 2002 – 2005 2006 – 2009 
Cơ 
chế 
lãi 
suất 
Lãi suất cố 
định 
Lãi suất trần 
và lãi suất 
sàn 
Lãi suất trần 
Lãi suất cơ 
bản 
Lãi suất thoả 
thuận 
-Lãi suất thoả thuận 
-Lãi suất trần 
-Lãi suất cho vay 
<=150% 
lãi suất cơ bản 
Cách 
điều 
chỉnh 
Cách ly với 
lãi suất thế 
giới 
Điều chỉnh 
theo CPI và 
lãi suất ngoại 
tệ 
Chênh lệch 
trần, sàn là 
0.35%/tháng 
-Kèm theo 
biên độ (0.3-
0.5%/tháng) 
-Theo lãi 
suất thị 
trường quốc 
tế 
Sử dụng cho 
hoạt động tín 
dụng 
-01/2008: trần huy 
động là 11% 
-04/2008: trần huy 
động là 12% 
-05/2008: bỏ trần 
huy động 
-12/2009: trần huy 
động là 10.5% 
Tác 
động 
-Lãi suất 
thực âm 
-Lạm phát 
cao 
-Ngân hàng 
không bảo 
toàn vốn và 
lãi 
-Giảm lãi 
suất thực âm 
-Lạm phát 
giảm 
-Nh bảo toàn 
vốn và có lãi 
-Giảm lãi 
suất thực âm 
-NH hoạt 
động hiệu 
quả 
-Khởi đầu 
của tự do 
hoá lãi suất 
-Chính sách 
lãi suất theo 
hướng tự do 
hoá 
-Kiểm soát 
lạm phát 
-Chính sách 
lãi suất theo 
hướng tự do 
hoá 
-Kiểm soát 
lạm phát 
-NHTW quay lại sử 
dụng công cụ hành 
chính để tác động 
trực tiếp vào lãi suất 
nền kinh tế 
-Lãi suất không 
hình thành trên cơ 
sở cung cầu 
 Quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt Nam từ khi có mô 
hình ngân hàng hai cấp (1988) đến nay trải qua 6 giai đoạn chuyển đổi cơ bản, đó là bước 
đi khá thận trọng và khẳng định xu hướng tất yếu của quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt 
Nam. 
Tác động của quá trình tự do hoá lãi suất ở VN: 
 Những mặt đạt được: 
Chính sách lãi suất qua các giai đoạn biến đổi đã tiến dần đến tự do hoá lãi suất. 
Quyết định 546/2002 QĐ – NHNN về cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín 
dụng, đây là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự khởi đầu cho tự do hoá lãi suất trong nền 
kinh tế và lãi suất cơ bản công bố của Ngân hàng nhà nước dần dần sẽ mang tính chất 
tham khảo đối với các tổ chức tín dụng trong việc xác định lãi suất từng thời kỳ. 
Điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền kinh tế trở thành công cụ 
quan trọng của nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm 
soát lạm phát. 
Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, tăng tiết kiệm và khuyến 
khích đầu tư. Việc xoá dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã dần dần tạo điều kiện cho hệ 
thống ngân hàng thương mại kinh doanh chủ động và thuận lợi. 
Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn bị 
cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới. 
 Những mặt còn hạn chế: 
Cơ chế điều hành lãi suất từng bước được đổi mới và tự do hoá theo cơ chế thị 
trường: từ lãi suất áp đặt sang lãi suất trần, sàn, đến khống chế lãi suất trần và cuối cùng 
là lãi suất thoả thuận. Tuy nhiên, song song với cơ chế lãi suất thỏa thuận, NHTW liên 
tục sử dụng lãi suất trần như một công cụ hành chính để tác động trực tiếp vào lãi suất 
của nền kinh tế, khiến cho lãi suất trên thị trường không hình thành theo đúng quy luật 
cung cầu, trái với tiến trình tự do hóa lãi suất. 
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn thấp kém, chưa phát triển, diễn biến lãi suất 
chưa phản ánh xác thực tương quan cung cầu trên thị trường, chưa có lãi suất chuẩn trên 
thị trường tiền tệ. 
NHNN chưa có cơ chế nắm bắt đầy đủ và kịp thời diễn biến lãi suất liên ngân 
hàng. 
Tự do hóa lãi suất sẽ dẫn đến tình trạng chạy đua tăng lãi suất huy động vốn của 
các NHTM. Thực tế các NHTM liên tục tăng lãi suất cao từ năm 2007, mặt bằng lãi suất 
huy động vốn chung của các ngân hàng ở mức 14%-15%, trong khi lãi suất cho vay tối là 
18% sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Để đảm bảo kinh 
doanh có lợi nhuận, buộc các ngân hàng phải tăng các loại phí cấp tín dụng và phí thực 
hiện giao dịch tiền tệ làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp cũng 
như gián tiếp đến nền kinh tế. 
b/. Tự do hóa về tỷ giá hối đoái: 
Hiện nay trên thế giới, xu hướng tiến tới tự do tỷ giá hối đoái đang được chính phủ 
các quốc gia theo đuổi. Xét trên bình diện quản lý vĩ mô, NHNN Việt Nam đang thực 
hiện chế độ tỉ giá linh hoạt có sự kiểm soát của Nhà nước, đây có thể là một sự lựa chọn 
đúng đắn của Nhà nước trong điều kiện quá trình hội nhập của Việt Nam với thế giới còn 
nhiều cách biệt. Nếu lựa chọn chế độ tỉ giá thả nổi tự do thì điều kiện phát triển kinh tế xã 
hội hiện nay của chúng ta chưa cho phép, còn nếu lựa chọn chính sách tỉ giá theo kiểu 
“an toàn” thì không thể tránh khỏi những áp đặt mang tính hành chính vào quản lý tỷ giá, 
điều mà chúng ta đang cố gắng thay đổi để thích ứng dần với việc điều hành nền kinh tế 
theo quy luật phát triển. 
Điều kiện nêu trên đặt ra những yêu cầu đối với nhà nước trong việc lựa chọn và 
điều hành tỷ giá phải hết sức linh hoạt theo cơ chế thị trường, thích ứng dần với hội nhập 
và phát triển kinh tế. NHNN đã thực hiện việc công bố tỷ giá trên cơ sở tỷ giá bình quân 
chung trên thị trường liên ngân hàng và kèm theo biên độ giao động cho phép. 
Năm 2001 2002 - 
2005 
2006 2007 2008 2009 
Biên độ tỷ 
giá (% ) 
+ 0.1 ± 0.25 ± 0.5 ± 0.75 ± 1 
± 2 
± 3 
± 5 
Năm 1991 thành lập 2 trung tâm giao dịch ngoại tệ (nền móng của thị trường hối 
đoái) là bước ngoặt của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi mới điều hành theo cơ 
chế thị trường. Thông qua việc mua bán trên thị trường này, NHTW kịp thời nắm bắt 
cung cầu ngoại tệ để điều hành tỷ giá theo thị trường. 
Năm 1992-1993, tỷ giá VND với ngoại tệ ổn định thu hút lượng lớn ngoại tệ từ 
kiều hối và đầu tư nước ngoài 
Sự ra đời của thị trường Liên ngân hàng (1994) nhằm đáp ứng nhu cầu giao dịch 
ngoại tệ tăng cao. Tỷ giá hình thành trên thị trường Liên ngân hàng mang tính thị trường 
cao, linh hoạt. Từ đó tỷ giá VND với ngoại tệ được hình thành một cách khách quan hơn 
và phản ánh thực tế hơn sức mua của VND. 
Từ 12/1999, thay bằng việc công bố tỷ giá chính thức, NHTW công bố tỷ giá giao 
dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: từ quản lý có tính chất hành chính 
sang điều hành theo hướng thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đây là bước đổi cơ 
bản trong việc điều hành tỷ giá của NHTW, giúp VND được hình thành trên cơ sở giao 
dịch thị trường và phản ánh tương đối sức mua của VND so với ngoại tệ 
Quá trình tự do hóa tỷ giá của VN thay đổi từ cơ chế điều hành tỷ giá cố định sang 
tỷ giá có điều chỉnh và đến tỷ giá công bố theo mức hình thành cuối ngày trên thị trường. 
Đây là những bước tiến của VN trong quá trình tự do hóa tỷ giá. Tuy nhiên trong giai 
đoạn 10 năm đổi mới, mặc dù VN công bố theo tỷ giá liên ngân hàng nhưng trên thực tế 
vẫn tồn tại chế độ 2 tỷ giá. Việc duy trì chế độ 2 tỷ giá khiến cho DN và người dân không 
muốn bán USD cho ngân hàng và làm cho quá trình chuyển đổi VND trở nên khó khăn 
hơn. 
Tóm lại, việc duy trì chế độ 2 tỷ giá như hiện nay thì VN không thể thực hiện tự 
do hóa tỷ giá và làm cho VND có tính chuyển đổi hơn trong thời gian tới. 
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia thì hiện nay VND đang được định giá khá cao 
so với rổ tiền tệ. Còn quan điểm của NHNN, chỉ mở rộng biên độ tỷ giá giao dịch liên 
ngân hàng với một con số khiêm tốn từ +/-0,1% → +/-2%. Như vậy, nó sẽ làm giảm sức 
cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế, ảnh hưởng xấu đến hoạt động 
xuất nhập khẩu, làm NHNN khó điều hành chính sách tiền tệ. Tỷ giá VND chủ yếu được 
đánh giá thông qua sự biến động của VND so với USD, điều này phản ánh đúng thực 
trạng giao dịch ngoại hối của nước ta, các hoạt động thanh toán bằng USD chiếm tỷ trọng 
cao. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào một ngoại tệ duy nhất là USD để xác định giá trị bản tệ 
thì quá mạo hiểm đối với hoạch định chính sách vĩ mô. Do đó, chúng ta nên xem xét khả 
năng xác định linh hoạt tỷ giá VND tương ứng với một rổ tiền tệ là các ngoại tệ mạnh có 
tham gia thương mại với Việt Nam. Có như vậy VND mới được xác định đúng giá trị và 
giảm thiểu tâm lý sùng bái USD. 
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (USD/VND) 
Năm Tỷ giá hối đoái danh nghĩa 
1997 12,292 
1998 13,890 
1999 14,028 
2000 14,514 
2001 15,084 
2002 15,368 
2003 15,608 
2004 15,739 
2005 15,875 
2006 16,091 
2007 16,131 
2008 16,977 
2009 17,941 
 (Nguồn: IMF Country Report No. 07/386 & IMF Country Report No. 
03/382) 
c/. Tự do hoá tài khoản vốn: 
Tự do hóa tài khoản vốn gồm tự do hóa giao dịch vãng lai và tự do hóa giao dịch 
vốn. 
- Tự do giao dịch vốn: 
Cột mốc lớn cho thấy sự tự do hóa tài khoản vốn của VN là sau khi có luật đầu tư 
nước ngoài tại VN (1988) về cơ bản VN là một nước “nhập khẩu tư bản” nước ngoài chủ 
yếu dưới hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. 
Đến đại hội IX của Đảng (2001), xem khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là một 
trong sáu thành phần kinh tế của VN. Tốc độ tăng đầu tư vào VN tuy không đều qua các 
năm, nhưng có xu hướng tăng liên tục, thể hiện qua bảng tổng kết sau: 
Bảng số liệu vốn đầu tư nước ngoài vào VN từ năm 2000 đến 2009 
Năm Giá trị (triệu USD) Tăng / giảm (% ) 
2000 2.7 
2001 4.9 + 81 
2002 4.5 - 8 
2003 3.100 + 688 
2004 4.500 + 45 
2005 6.800 + 51 
2006 11.900 + 75 
2007 20.300 + 71 
2008 64.000 + 215 
2009 19.000 - 70 
 Đặc biệt từ đầu năm 2006 đến nay, sau khi VN gia nhập WTO thì tốc độ tăng đầu 
tư nước ngoài vào VN đột biến so với những năm cuối thập niên 90. Tuy nhiên, năm 
2009 tốc độ vốn chảy vào VN giảm mạnh so với năm 2008, một phần vì lý do ảnh hưởng 
của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, và một phần lớn lý do là VN có thể đang mắc phải sai 
lầm của một số nước bị khủng hoảng tài chính khi tự do hóa tài khoản vốn như: lạm phát 
tương đối cao (10 – 13%) trong những năm gần đây, lãi suất danh nghĩa của vn cao, dự 
trữ ngoại hối thấp, thâm hụt tài khoản vãng lai thường xuyên, nợ nước ngoài tương đối 
cao, thâm hụt ngân sách, đặc biệt hệ thống tài chính còn yếu kém. 
Tiến trình Tự do hóa giao dịch vốn của VN thể hiện qua các điểm sau: 
 Nới lỏng quy định về chuyển vốn của các nhà đầu tư nước ngoài và việc vay nước 
ngoài của người cư trú là tổ chức. 
 Từ ngày 01/04/2007, các tổ chức tài chính nước ngoài được phép thành lập ngân 
hàng 100% vốn nước ngoài tại VN. 
Bảng số liệu về tình hình gia tăng ngân hàng nước ngoài thành lập ở VN 
Năm Số lượng chi nhánh NH 
nước ngoài 
Số lượng văn phòng đại 
diện 
Số lượng NH 100% vốn 
nước ngoài 
2007 26 50 0 
2008 36 38 2 
2009 42 53 5 
 Cũng trong năm 2007, nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ vốn sở hữu cổ phần 
của các công ty tài chính tăng từ 10% lên 30%. 
 Về thị trường chứng khoán: năm 2007 là năm đánh dấu việc hoàn thiện các văn 
bản quy phạm pháp luật về chứng khoán. Các biện pháp quản lý và giám sát thị 
trường chứng khoán ngày càng siết chặt. Hai biện pháp chính là việc không cho 
phép mở rộng tỷ lệ nắm giữ sở hữu nước ngoài và quy định đầu tư gián tiếp nước 
ngoài chỉ thực hiện bằng VND. 
 Đầu tư gián tiếp nước ngoài vào VN cũng bắt đầu hình thành và đang trở thành 
một làn sóng đầu tư thứ 3 từ nước ngoài (FDI,ODA) được khởi đầu chính thức từ 
khoản vay 750 triệu tổng giá trị trái phiếu chính phủ năm 2006 và dòng vốn đầu tư 
vào TTCK VN từ giữa năm 2006 đến nay liên tục gia tăng. 
- Đối với các giao dịch vãng lai: 
Ngày 13/12/2005, VN ban hành Pháp lệnh Ngoại hối. ngày 05/01/2006, IMF 
chính thức công nhận VN đã tự do hóa hoàn toàn giao dịch vãng lai cụ thể như sau: 
 Trong thanh toán XNK: được tự do mua ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán 
vãng lai. 
 Các quy định về kết hối đối với các nguồn vãng lai được dỡ bỏ. Đồng thời cũng 
xóa bỏ các quy định về hạn chế và cấp phép bán ngoại tệ cho doanh nghiệp có vốn 
đầu tư nước ngoài. 
 Người cư trú, không cư trú đều được mở tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng để 
chuyển lợi nhuận, vốn đầu tư và thu nhập hợp pháp khác mà không cần xuất trình 
chứng nhận đã hoàn thành nghĩa vụ thuế. 
 Kiều hối được chuyển về nước không hạn chế số lượng, số lần gửi và loại ngoại tệ. 
 Công dân VN thực hiện nhu cầu đi công tác, du lịch, học tập, chữa bệnh, ở nước 
ngoài thông thoáng hơn. 
 Mức ngoại tệ tiền mặt thực hiện khai báo hải quan cửa khẩu áp dụng với cá nhân 
tăng từ 3.000 USD lên 7.000 USD 
Hiện nay tự do hóa các giao dịch vãng lai về mặt pháp lý là thông thoáng hơn 
nhưng trên thực tế thủ tục vẫn còn rườm rà. Ví dụ: doanh nghiệp muốn chuyển tiền về thì 
NHNN yêu cầu phải có giấy phép kinh doanh loại hàng đó, doanh nghiệp đi xin giấy 
phép ở Sở Kế hoạch và Đầu tư thì yêu cầu phải được chấp nhận của NHNN về chuyển 
tiền. 
Từ 12/2005, các giao dịch vãng lai đã được tự do hóa hoàn toàn và các giao dịch 
vốn đã được nới lỏng đáng kể với việc ban hành pháp lệnh ngoại hối. Hiện nay, các giao 
dịch vốn, nhất là dòng vốn ra vẫn được kiểm soát chặt chẽ nhằm đảm bảo sự ổn định của 
hệ thống tài chính và giảm thiểu rủi ro do việc rút vốn ồ ạt ra nước ngoài. 
d/. Xóa bỏ các chỉ thị trong việc điều hành chính sách tiền tệ: 
Bước ngoặt trong quá trình đổi mới và cải cách nền kinh tế VN trong lĩnh vực 
ngân hàng bắt đầu bằng 2 pháp lệnh: Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng chuyên 
doanh, hợp tác xã tín dụng và công ty cho thuê tài chính, có hiệu lực từ 01/10/1990 với 
nội dung: xoá bỏ mô hình ngân hàng một cấp, xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp phù 
hợp với mô hình của các ngân hàng ở các nước phát triển. 
- Xây dựng khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh và phù hợp với luật lệ quốc tế để tạo 
sân chơi bình đẳng cho các NHTM trên lãnh thổ Việt Nam cùng phát triển và cạnh tranh 
lành mạnh... 
- Chính sách quản lý ngoại hối từng bước được tự do hóa phù hợp dần với thông lệ 
quốc tế đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính, tạo sự thông thoáng cho hoạt động kinh 
tế đối ngoại. thực hiện chính sách quản lý ngoại hối theo hướng đẩy mạnh phân cấp, ủy 
quyền quản lý để nâng cao trách nhiệm và hiệu quả hoạt động. 
- Phải chủ động tự do hoá tài chính trên cơ sở: Minh bạch hoá mối quan hệ giữa 
CSTT và CSTK, làm cho cả 2 chính sách này ngày càng lành mạnh bằng cách trao nhiều 
quyền lực cho NHTW trong việc hoạch định và thực thi CSTT. NHTW phải đủ sức và đủ 
công cụ để bảo đảm ổn định sức mua của đồng tiền Việt nam; Đủ sức kiểm soát và làm 
chủ các nghiệp vụ chính của NHTW như: Điều hành thị trường tiền tệ; Điều hành và 
kiểm soát toàn bộ hệ thống thanh toán quốc gia; Đảm bảo trên đất Việt nam chỉ tiêu tiền 
VN và nhanh chóng thực hiện lộ trình tự do chuyển đổi cho đồng tiền VN; Đổi mới cơ 
chế và quyền lực trong hoạt động thanh tra – giám sát hoạt động Ngân hàng của mọi loại 
Định chế tài chính (ngay cả khi có Uỷ Ban giám sát tài chính ngoài NHTW) 
Tuy nhiên, trong quá trình điều hành chính sách tài chính tiền tệ ngân hàng nhà 
nước thường xuyên dùng các chỉ thị mang tính đối phó với những biến đổi lớn của nền 
kinh tế trong nước dưới ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế. đặc biệt trong năm 2007 và 
2008 mặc dù đã chính thức áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận, nhưng ngân hàng nhà 
nước liên tục sử dụng lãi suất trần huy động và cho vay (theo số liệu của bảng trên). Điều 
đó cho thấy sự lúng túng của ngân hàng nhà nước trong công tác dự báo, điều hành. 
2/.Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam: 
Dựa trên những phân tích về lợi ích mà rủi ro về việc tự doa hoá tài chính, kinh 
nghiệm mở cửa thị trường của Trung Quốc, Thái Lan,. và thực tiễn cải cách hệ thống 
tài chính của Việt Nam trong thập kỷ vừa qua, một số khuyến nghị nhóm có thể rút ra là: 
a/. Kinh nghiệm về tự do hóa lãi suất: 
Trong bối cảnh hậu suy giảm kinh tế,việc tiếp tục sử dụng lãi suất cơ bản là thích 
hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, NHTW nên hạn chế dần tác động của lãi 
suất cơ bản đến lãi suất của nền kinh tế để đi đến mục tiêu xóa bỏ lãi suất cơ bản trong 
thời gian tới. Lãi suất được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu của nền kinh tế. Theo 
kinh nghiệm của quá trình tự do hóa lãi suất một số nước và nước ta trong nhiều năm 
qua, có thể rút ra một số điều kiện để nước ta thực hiện tự do hóa lãi suất là: 
 Kinh tế vĩ mô ổn định 
 Thị trường tài chính – tiền tệ minh bạch và hiệu quả 
 Mục tiêu chủ yếu của chính sách tiền tệ là ổn định thị trường tài chính – tiền tệ. 
 Phát triển hệ thống thanh toán có khả năng kiểm soát được hầu hết các luồng 
vốn khả dụng của ngân hàng, chứng khoán và các định chế tài chính khác 
 Hệ thống NHTM có năng lực cạnh tranh và khả năng đảm bảo an toàn hoạt 
động cao hơn. 
 Ngân sách nhà nước thâm hụt ở mức thấp. 
Khi các điều kiện đã hội đủ, nước ta sẽ chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất 
nhưng không phải là cơ chế tự do hoá hoàn toàn. Ngân hàng nhà nước với là tư cách là 
người điều hành chính sách tiền tệ quốc gia sẽ sử dụng các lãi suất tái chiết khấu, lãi suất 
tái cấp vốn để tham gia điều chỉnh gián tiếp lãi suất thị trường nhằm phát huy vai trò của 
lãi suất đối với sự phát triển của nền kinh tế. 
b/. Kinh nghiệm về tự do hóa tỷ giá: 
Từ năm 2010, VN nên xóa bỏ biên độ dao động, NHTW chỉ can thiệp vào thị 
trường ngoại tệ liên ngân hàng khi thật cần thiết. 
Về lâu dài, nước ta nên chuyển sang cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái linh hoạt để 
đối đầu với sự phát triển khá nóng của dòng vốn nước ngoài 
Neo tỷ giá VND theo một rổ tiền tệ bao gồm USD, EURO, Yên Nhật, chứ không 
chỉ theo USD như hiện nay. 
c/. Kinh nghiệm về tự do hóa tài khoản vốn: 
Về lộ trình tự do hóa, VN nên tiếp tục tập trung vào tự do hóa đầu tư trực tiếp 
nước ngoài trước đầu tư gián tiếp và các khoản vay ngân hàng. Nên thu hút đầu tư trực 
tiếp nước ngoài vào trước khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Luồng vốn ngắn hạn được 
tự do sau luồng vốn dài hạn. Trước thực tế thị trường tài chính VN mới phát triển, VN 
không nên tự do hóa hoàn toàn các giao dịch vốn. 
Xóa bỏ các rào cản còn tồn tại đối với tự do hóa hoàn toàn giao dịch vãng lai. 
Cho phép doanh nghiệp VN chủ động tiếp cận thị trường vốn quốc tế thông qua 
phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu 
Tăng cường dự trự ngoại hối để bảo đảm thanh khoản, bảo vệ nền kinh tế tránh 
khủng hoảng cán cân thanh toán và khủng hoảng tài chính. 
Đảm bảo thâm hụt ngân sách ở mức vừa phải, giảm thiểu các áp chế tài chính của 
nhà nước vào hệ thống ngân hàng 
Tiếp tục phát triển thị trường vốn thành một kênh huy động vốn dài hạn, an toàn, 
hiệu quả cao cho đầu tư và phát triển, từng bước hội nhập với thị trường vốn khu vực và 
thế giới. 
Tự do hóa thương mại (WTO) cần tiếp tục thực hiện song song với tự do hóa tài 
chính và là nền tảng vững chắc của tự do hóa tài chính. 
Bảng lộ trình tự do hóa thị trường tài chính VN trong WTO 
Năm Các biện pháp thực hiện 
2011 
- Xóa bỏ hết hạn chế hoạt động ngân hàng 100% vốn nước ngoài 
- Cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài, chi 
nhánh công ty chứng khoán nước ngoài. 
2015 
Hoàn thành phát triển thị trường vốn, tự do hóa tài khoản vốn, tự do hóa 
tài chính 
Tóm lại: Khu vực dịch vụ tài chính trên thế giới đã thể hiện rõ xu hướng toàn cầu 
hoá trong vòng hai thập kỷ gần đây. Tự do hoá tài chính toàn cầu đã mang lại những lợi 
ích to lớn xét trên cả khía cạnh hiệu quả và chất lượng dịch vụ và bài học kinh nghiệm 
đối với việt Nam là: 
 Việt Nam nên tiếp tục tiến hành việc mở cửa dần dần thị trường tài chính 
với một phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho vừa đảm bảo 
nâng dần năng lực và khả năng cạnh tranh vừa thích nghi và tiến gần hơn 
đến những tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. 
 Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay không thể 
không gắn liền với một tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài 
chính nội địa vì dù rằng đã có 10 năm cải cách song hệ thống dịch vụ tài 
chính ở nước ta vẫn còn ở điểm xuất phát thấp, kém hiệu quả và vẫn mang 
nặng dấu ấn của thời kỳ bao cấp và đây là một trong những nguyên nhân 
tiềm ẩn của nguy cơ khủng hoảng tài chính tiền tệ khi thi hành chính sách 
mở cửa do tình trạng hỗn loạn, bất lợi và mất khả năng kiểm soát của chính 
phủ đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính. 
 Cải cách hệ thống dịch vụ tài chính phải được tiến hành toàn diện cả về 
quan điểm và phương pháp điều hành vĩ mô của toàn bộ hệ thống gắn với 
những điều kiện quốc tế. Trong đó, những cải cách về hệ điều hành chính 
sách tỷ giá, quản lý ngoại tệ và chính sách lãi suất phải được coi là đặc biệt 
quan trọng vì chúng hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế. 
 Cải cách tài chính song song với việc mở cửa dần dần thị trường dịch vụ tài 
chính cần phải được hỗ trợ đồng thời bằng việc hoàn thiện hệ thống luật 
pháp, nhằm tạo ra một hành lang pháp lý ổn định, hiệu quả và minh bạch, 
tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước với các doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt chú ý đến những cơ sở pháp lý 
đảm bảo quyền giám sát kiểm tra của chính phủ và các cơ quan bảo vệ pháp 
luật đối với các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp nhằm đảm bảo sự 
khống chế của Nhà nước trong việc duy trì sự ổn định và sự lành mạnh của 
thị trường dịch vụ tài chính. 
 Cần tập trung tối đa vị thế của một nước đang phát triển trong các cuộc đàm 
phán song phương và đa phương để được hưởng những ưu đãi hoặc nhượng 
bộ trong việc thực hiện nghĩa vụ với tư cách thành viên, để cơ cấu, cải tổ lại 
và tăng cường tiềm lực cạnh tranh sao cho có thể đứng vững trước sự du 
nhập của các thế lực cạnh tranh quốc tế khi thị trường được tự do hoá hoàn 
toàn. 
 Khi tiến hành đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, chúng ta cũng 
không nên loại bỏ những hạn chế cần thiết về tỷ lệ sở hữu vốn của người 
nước ngoài (cá nhân hoặc tổ chức), đồng thời kèm theo những ràng buộc về 
hình thức đầu tư và nhân sự điều hành hoặc sử dụng lao động để đảm bảo 
lợi ích chủ quyền quốc gia và duy trì sự kiểm soát của Nhà nước đối với thị 
trường tài chính. 
 Việc mở cửa thị trường nên được tiến hành rộng rãi trước hết đối với thị 
trường bảo hiểm. Đối với lĩnh vực ngân hàng và thị trường chứng khoán 
cần phải có những bước đi hết sức thận trọng, bằng những biện pháp bảo vệ 
thận trọng để tiến tới việc mở cửa một cách toàn diện khi đủ điều kiện cho 
phép. 
PHẦN 2: KHẢ NĂNG CHUYỂN ĐỔI TIỀN TỆ VND 
I. KHÁI QUÁT VỀ KHẢ NĂNG CHUYỂN ĐỔI CỦA VNĐ 
1. Khái niệm về khả năng chuyển đổi tiền tệ: 
Khả năng chuyển đổi tự do của đồng tiền hay đồng tiền có tính chuyển đổi cao 
chính là đồng tiền mạnh, có uy tín, ở trong nước dễ dàng đổi ra ngoại tệ, ở ngoài nước có 
thể sử dụng trực tiếp làm phương tiện thanh toán quốc tế, được mua bán trên thị trường 
ngoại hối, thậm chí còn có thể sử dụng làm dự trữ ngoại hối của các quốc gia. 
Hiểu một cách đơn giản thì một đồng tiền tự do chuyển đổi như USD, Euro, Yên 
Nhật là đồng tiền có thể sử dụng tại nhiều nước trên thế giới, hay nói cách khác là 
được các nước khác chấp nhận trong giao dịch thanh toán. 
Với VNĐ thì điều này là chưa thể đạt được, cái đích hướng tới khiêm tốn hơn đó 
là nâng cao khả năng chuyển đổi của VNĐ như: bước đầu xây dựng cơ chế để VNĐ tham 
gia thanh toán xuất nhập khẩu; tiếp tục tự do hóa có lựa chọn các giao dịch vốn, bước đầu 
cho VNĐ tham gia quan hệ vay, trả nợ nước ngoài và đầu tư của nước ngoài vào Việt 
Nam, nâng cao niềm tin của người dân và các nhà đầu tư nước ngoài với VNĐ. 
Một đồng tiền được chuyển đổi phụ thuộc vào 4 yếu tố. Cụ thể là tự do hoá các 
giao dịch vãng lai; nới lỏng các giao dịch tài khoản vốn (nguồn vốn vào – ra không gặp 
trở ngại); thả nổi tỷ giá hối đoái; và cuối cùng là phải có thị trường tài chính, đặc biệt là 
thị trường hối đoái mở. 
2. Ý nghĩa của việc nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền 
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, việc nâng cao tính chuyển đổi của 
VNĐ có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và quá trình hội nhập 
quốc tế thể hiện: 
- Đồng tiền có tính chuyển đổi cao sẽ liên kết kinh tế trong nước với quốc tế, thúc 
đẩy kinh tế đối ngoại phát triển. 
- Thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nước ngoài, tạo vị thế cho quốc gia trên thị 
trường quốc tế. 
- Đồng tiền có tính chuyển đổi cao cũng sẽ làm giảm hiện tượng ĐLH, qua đó 
nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá, ổn định nền 
kinh tế. 
3. Mối quan hệ giữa tăng tính chuyển đổi của VNĐ và khắc phục hiện tượng đôla 
hóa trong nền kinh tế. 
a. Khái quát về hiện tượng ĐLH. 
Đô la hóa là tình trạng mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% trong 
tổng khối tiền tệ mở rộng bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền 
gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ. 
Đô la hoá có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế khi ngoại tệ 
được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số chức 
năng tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc một phần. 
Trong những điều kiện cụ thể, ĐLH có thể phát huy những mặt tích cực như tăng 
cung ngoại tệ, giảm áp lực lạm phát hoặc làm chỗ dựa cho nền kinh tế khi đồng bản tệ 
quá suy yếu. Nhưng nếu lạm dụng, để kéo dài với mức độ cao thì ĐLH sẽ gây tác hại ở 
thời kỳ sau, đặc biệt khi đồng nội tệ đã phục hồi và nền kinh tế đang phát triển. 
b. Mối quan hệ giữa tăng tính chuyển đổi của VNĐ và khắc phục hiện tượng 
đôla hóa (ĐLH) tr

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_tu_do_hoa_tai_chinh_o_cac_nuoc_dang_phat_trien_va.pdf