Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc

pdf 17 trang yenvu 01/01/2024 1780
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc 
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc 
ta và của nhân loại, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng 
về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối 
với quá trình phát triển của dân tộc ta và của toàn nhân loại. Đấy là tư tưởng xuyên suốt và 
nhất quán trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành 
chiến lược cách mạng của Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. 
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hình 
thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân 
tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác 
– Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách 
mạng. 
1-Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam. 
Đề cập đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh viết: ” Dân ta có một lòng 
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc 
bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, 
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. 
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng 
đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam đã hình thành và củng cố, tạo thành 
một truyền thống bền vững. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian đã trở thành lẽ sống của 
mỗi con người Việt Nam, làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng 
đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc. Nó là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, 
tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị 
tinh thần thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước 
và giữ nước, làm nên truyền thống yêu nườc, đoàn kết của dân tộc. Dù lúc thăng, lúc trầm 
nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng là 
tinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên nhiên 
và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống 
đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư 
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. 
2- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin 
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người 
sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách mạng phải trở thành 
dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Chủ 
nghĩa Mác-lênin đã ch ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lê-nin cho 
rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân với nông dân là hết sức 
cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Rằng nếu không có sự đồng tình và 
ửng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì 
cách mạng vô sản không thể thực hiện được. 
Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự 
đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, 
trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách 
mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. 
3- Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng Việt 
Nam và thế giới. 
Không ch được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn xuất phát từ thực 
tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm ở nước ngòai của Hồ Chí Minh. 
a-Thực tiễn cách mạng Việt Nam 
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc mình, Hồ 
Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến ch có những cuộc đấu tranh thay đổi triều 
đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng “Vua tôi 
đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền 
gốc là thượng sách giữ nước”. Chính chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc 
trong chiều sâu và bề dày của lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được 
người ghi nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình. 
Bác Hồ với các cháu thiếu nhi vùng cao Việt Bắc (1960) 
Năm 1 , thực dân háp tấn công bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong trào yêu nước , chống 
pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Hồ Chí Minh đã nhận ra được 
những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong 
việc nắm bắt những đòi h i khách quan của lịch sử trong giai đọan này. Đây cũng chính là lý 
do, là điểm xuất phát để Người quyết tâm từ Bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. 
b- Thực tiễn cách mạng thế giới 
Từ 1911 đến 19 1 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo nghiệm thực tiễn 
rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực: 
“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến 
thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với 
giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức” 
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 191 thành công đã đưa Hồ Chí Minh đến bước ngoặt 
quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành dân chủ cho nhân 
dân. Từ chỗ ch biết đến Cách mạng Tháng Mười theo cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu 
một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý 
báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là bài 
học về sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng công nông binh đông đảo để 
giành và giữ chính quyền cách mạng. 
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC 
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm, nguyên 
tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức cách mạng và tiến bộ, nhằm phát huy đến mức 
cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, 
dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng 
lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con 
người. 
1- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng. 
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Người cho 
rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình 
bằng cách mạng vô sản. 
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều ch nh chính sách 
và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại 
đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người coi là vấn đề sống còn của cách mạng. 
- Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên 
suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. 
- Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh, là then chốt của 
thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực 
lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất. Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối 
quan hệ chặt chẽ, qui mô của đoàn kết quyết định quy mô,mức độ của thành công. 
- Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. 
Tại sao Đế quốc háp có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại phải thua 
một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là vì đồng bào Việt Nam đã 
đoàn kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh kh ng định: 
“Toàn dân Việt Nam ch có một lòng: Quyết không làm nô lệ. Ch có một chí: Quyết không 
chịu mất nước. Ch có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập 
cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung 
quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, 
chúng cũng phải thất bại”. 
Chính sức mạnh của lực lượng toàn dân đoàn kết làm nên thắng lợi của Cách Mạng Tháng 
Tám. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: 
“ Vì sao có cuộc thắng lợi đó? 
Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của toàn dân đoàn kết. 
Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam 
để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc.Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. 
Không ai thắng được lực lượng đó”. 
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: 
“Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, 
tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. 
Và Người khuyên dân ta rằng: 
“Dân ta xin nhớ chữ đồng: 
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” 
Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do. 
2- Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng 
Hồ Chí Minh cho rằng “ Đại đoàn kết dân tộc không ch là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của 
đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc 
chính là nhiệm vụ của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức 
t nh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc 
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người. 
3-Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. 
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” ch mọi con dân đất Việt, con rồng cháu tiên, không phân 
biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già trẻ , 
gái, trai, giàu, nghèo. Nói dến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp mọi người dân 
vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “ ta đoàn kết để đấu 
tranh cho thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có 
tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. 
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước- nhân nghĩa- 
đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Xác định khối 
đại đoàn kết là liên minh công nông, trí thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi 
của dân. Người cho rằng: liên minh công nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại 
đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được 
mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc. 
4- Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận dân tộc 
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng 
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc: 
- Trên nền tảng liên minh công nông (trong xây dựng chế độ xã hội mới có thêm lao động trí 
óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng. 
- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi ích của 
tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. 
- Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. 
 hương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng 
tồn dị” – Lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. 
Đầu năm 19 1, tại hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn quốc, Người vạch rõ: “ Đại 
đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công 
nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, 
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng 
ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người ch rõ: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không 
phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ 
quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự 
tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Người còn nhấn mạnh: ”Đoàn kết rộng 
rại, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới 
tốt tươi. Trong chính sách đoàn kết phải chống hai khuynh hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi và 
đoàn kết vô nguyên tắc”. 
Cũng tại Đại hội đó, Người ch rõ: 
“Tôi rất sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc của Đại hội thống nhất 
Việt Minh – Liên Việt. Lòng sung sướng ấy là của chung toàn dân, của cả Đại hội, nhưng 
riêng cho tôi là một sự sung sướng không thể tả, một người đã cùng các vị tranh đấu trong 
bấy nhiêu năm cho khối đại đoàn kết toàn dân. Hôm nay, trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy 
đã nở hoa kết quả và gốc rễ của nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái 
tương lai “trường xuân bất lão”. Vì vậy cho nên lòng tôi sung sướng vô cùng.” 
Người đã nói lên không ch niềm vui vô hạn trước sự lớn mạnh của Mặt trận dân tộc thống 
nhất, mà còn là sự cần thiết phải mở rộng và củng cố Mặt trận cũng như niềm tin vào sự phát 
triển bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc lâu dài về sau. Điều này được thể hiện trong 
toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. 
III- NGUYÊN TẮC ĐẠI ĐOÀN KẾT CỦA HỒ CHÍ MINH 
Dù cách mạng Việt Nam trải qua những thời kỳ lịch sử khác nhau, song chiến lược đại đoàn 
kết dân tộc của Hồ Chí Minh luôn được xây dựng, hoàn thiện và tuân theo những nguyên tắc 
nhất quán sau. 
1- Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi 
ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người: 
Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác nhau. Mỗi giai 
cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có một 
điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay 
không còn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đoàn kết hay không và việc 
nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào. 
Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát huy những yếu 
tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn và Người bao 
giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự 
quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích. 
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là 
bình đ ng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là 
nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư 
tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong 
chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình. 
2- Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân 
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được Người kế thừa 
và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa mác-Leenin, cách mạng là sự 
nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. 
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắc vào sức 
mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng 
nhân dân. Người viết: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm 
được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một 
cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài gi i, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi 
không ra”. 
3- Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng rãi, lâu dài, bền 
vững 
Theo Hồ Chí Minh, có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng. Muốn đoàn kết thì 
trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngoài thì liên 
minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Như vậy, để đoàn kết và lãnh 
đạo cách mạng, điều kiện tiên quyết là phải có một Đảng cách mạng với tính cách là Bộ tham 
mưu, là hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước và tổ chức, giữ mối liên hệ với bè bạn ở 
ngoài nước. Đảng cách mạng muốn thống nhất về chính trị và tư tưởng, đảm bảo được vai trò 
đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp công nhân, phải được vũ trang bằng chủ nghĩa 
chân chính, khoa học và cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin: ”Để làm trọn trách nhiệm 
người lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông 
làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân. Có như thế mới phát 
triển và củng cố được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”. 
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định 
hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang tính nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí 
Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà 
yêu nước Việt Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và trên thế giới. Đi 
vào quần chúng, thức t nh quần chúng, đoàn kết quần chúng vào cuộc đấu tranh tự giải phóng 
mình là mục tiêu nhất quán của Hồ Chí Minh. 
4- Đại đoàn kết chân thành, thân ái, th ng thắn theo nguyên tắc tự phê bình, phê bình vì sự 
thống nhất bền vững 
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng còn có 
những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường đối thoại, bàn bạc để đi đến sự 
nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải 
quyết vấn đề này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”; mặt 
khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết và 
căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đoàn kết xuôi chiều, nêu cao tinh thần phê bình 
và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết: 
“Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết 
thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học h i những cái tốt của nhau, phê bình những 
cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. 
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc thống nhất luôn 
đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, một chiều, chống coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những 
lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh huớng đoàn kết mà không có đấu 
tranh đúng mức trong khối đại đoàn kết dân tộc. “Chúng ta làm cách mạng nhằm mục đích 
cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải 
tạo bản thân chúng ta”. 
5- Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước chân chính 
phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân 
Ngay khi thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ 
phận của cách mạng thế giới và ch có thể giành được thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết 
chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Trong quá trình cách mạng, tư tưởng cuả Người 
về vấn đề đoàn kết với cách mạng thế giới càng được làm sáng t hơn và đầy đủ hơn. Cách 
mạng Việt Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, với các nước xã hội 
chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hoà bình thế giới. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân 
tộc; Mặt trận đoàn kết Việt-Miên-Lào và Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam 
trong cuộc đấu tranh chống thực dân háp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là sự phát triển rực 
rỡ và là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh kh ng định rõ: 
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, 
Thành công, thành công, đại thành công. 
Đoàn kết trong Đảng là cơ sở để đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở để thực 
hiện đại đoàn kết quốc tế. Tư tưởng Đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thực hiện 
thành công là một nhân tố quyết định cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến thắng lợi 
hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. 
IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG VIỆC 
ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 
1- Thực trạng 
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã thu được những thành tựu cơ bản. Dưới sự lãnh đạo 
của Đảng, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây 
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Việt Nam đang chủ 
động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong 
cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển. 
Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so với 
các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn định. 
Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được cải 
thiện. Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và lực của 
đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho ph p nước ta tiếp tục 
phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững. hấn đấu 
đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện 
đại. 
Mặt khác, nước ta đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau. 
Sự nghiệp đổi mới trong những năm tới có nhiều cơ hội để phát triển. Những cơ hội tạo cho 
đất nước ta có thể đi tắt, đón đầu, tiếp thu nhanh những thành tựu của cách mạng khoa học và 
công nghệ trên thế giới. Mặt khác, chúng ta rút ra được nhiều bài học từ cả những thành công 
và yếu k m của gần hai chục năm tiến hành sự nghiệp đổi mới để đẩy mạnh sự nghiệp cách 
mạng. Những thành tựu và thời cơ đã cho ph p nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa Việt Nam trở thành một nước công 
nghiệp, tiếp tục ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất 
phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy hơn nữa nội lực. 
Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những khó khăn lớn 
trên con đường phát triển của đất nước. Ví như nạn tham nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suy 
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nh cán bộ, đảng viên 
đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và 
Nhà nước, gây bất bình và làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản động không 
ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, chống phá sự nghiệp cách mạng 
của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức 
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng các vấn đề “nhân quyền”, “ dân tộc”, “tôn 
giáo” hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. 
Sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, 
dân chủ, văn minh” đang đòi h i toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện chiến lược đại 
đoàn kết toàn dân tộc ở chiều sâu. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai 
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan 
trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 
2- Nhiệm vụ và yêu cầu 
Hiên nay, hơn bao giờ hết phải quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại 
đoàn kết trong tình hình mới. Qua hơn một phần tư thế k thực hiện công cuộc đổi mới, với 
nhiều chủ trương lớn của Đảng, chính sách của Nhà nước hợp lòng dân, khối đại đoàn kết dân 
tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được 
mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định 
chính trị của đất nước. Các hình thức tập hợp nhân dân đa dạng hơn và có bước phát triển 
mới, dân chủ xã hội được phát huy; bước đầu đã hình thành không khí dân chủ, cởi mở trong 
xã hội. 
Có thể kh ng định chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng đã thực sự là một bộ phận 
của đường lối đổi mới và góp phần to lớn vào những thành quả của đất nước. 
Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân 
đang đứng trước những thách thức mới. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ 
phận nhân dân chưa vững chắc, tâm trạng của nhân dân có những diễn biến phức tạp, lo lắng 
về sự phân hoá giàu nghèo, về việc làm và đời sống. Nhân dân bất bình trước những bất công 
xã hội, trước tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí, v.v 
Sở dĩ có những khuyết điểm, yếu k m trên là do Đảng ta chưa kịp thời phân tích và dự báo 
đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu giai cấp – xã hội trong quá trình đổi mới đất nước và 
những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ nhân dân để kịp thời có chủ trương, chính sách phù 
hợp; có tổ chức đảng, chính quyền còn coi thường dân, coi nhẹ công tác dân vận – mặt trận; ở 
không ít nơi còn tư tưởng định kiến, hẹp hòi làm cản trở cho việc thực hiện chủ trương đại 
đoàn kết toàn dân tộc của Đảng; một bộ phận không nh cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến 
chất, v.v không thực hiện được vai trò tiên phong gương mẫu. 
Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta, luôn kích 
động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia 
rẽ nội bộ đảng, nhà nước và nhân dân ta. 
Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: phải củng cố và tăng cường khối đại 
đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự 
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. 
Một là, Đảng ta phải luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời 
của cách mạng thế giới, Việt Nam tiếp tục đoàn kết và giúp đỡ, ủng hộ các phong trào cách 
mạng, các xu hướng trào lưu tiến bộ của thời đại vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân 
chủ và tiến bộ xã hội. 
Hai là, giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, tự chủ tự cường, chủ trương phát huy sức mạnh 
dân tộc trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện 
thắng lợi mục tiêu mỗi thời kỳ 
3-Những chú ý khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh 
Lý luận gắn liền với thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của quá trình kết hợp chặt 
chẽ, nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn cách mạng từng thời kỳ. Hồ Chí 
Minh vạch rõ lý luận không được áp dụng vào thực tiễn là lý luận suông, đồng thời thực tiễn 
không có lý luận soi sáng là thực tiến mù quáng. 
Trong tình hình hiện nay, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng, củng cố, mở 
rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần chú ý những vấn đề sau đây: 
Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ 
yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 
Hai là, lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm tương đồng, xóa b mặc cảm, 
định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin 
cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. 
Ba là, bảo đảm công bằng và bình đ ng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp 
pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân- tập thể- 
toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn với giữ gìn k cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng 
phí; không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất 
tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng đất nước; xem đó là những yếu tố quan trọng để 
củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc. 
Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh 
đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ 
trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. 
4- Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của hồ chí minh 
Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với cách mạng 
nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị, biểu hiện tập trung ở những điểm chính sau: 
- Đoàn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định mọi thành công. Biết đoàn 
kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn kết, chia rẽ là thất bại. 
- Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn kết một chiều, đoàn 
kết hình thức, nhất thời. 
- Đoàn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá nhân và đoàn 
kết tổchứckhông tách rời nhau. 
- Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng thời kỳ. Đoàn 
kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân. 
- Đoàn kết đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai. 
- Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát huy sức 
mạnh của đảng, của toàn dân tộc. 
- Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải thực sự đoàn kết trong Đảng. 
- Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong Đảng – Đoàn kết toàn dân – Đoàn kết quốc tế. 
- Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước trên cơ sở bảo vệ và tôn 
trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, quốc tế. 
5- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay 
1- hát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc 
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng, 
Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức 
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. 
Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai 
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan 
trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước. 
Tuy nhiên, trong khi sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân 
dân thì việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các Đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn 
chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở 
một số vùng có đông đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số,v,v. 
Trong công cuộc đổi mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tính chất là một tổ chức liên minh 
chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng lớn nhất của nhân dân ta, nơi thể hiện ý chí và nguyện 
vọng của mọi tầng lớp nhân dân, nơi hiệp thương và thống nhất hành động của các thành 
viên, đã phối hợp với chính quyền giải quyết ngày càng có hiệu quả những vấn đề bức xúc 
của nhân dân, thực hiện dân chủ, đổi mới xã hội, chăm lo lợi ích chính đáng của các tầng lớp 
nhân dân; tham gia ngày càng thiết thực vào việc xây dựng, giám sát, bảo vệ đảng và chính 
quyền. 
Với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối 
hợp ngày càng nhiều hơn với chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương trong việc 
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại nhằm cùng nhau 
nỗ lực xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 
Trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải chủ động góp phần cùng 
Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn thiện một số chính sách chung để sức mạnh đại đoàn 
kết toàn dân tộc trở thành động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm 
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 
Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trương “đoàn kết 
rộng rãi, đoàn kết chân thành mọi thành viên trong xã hội có thể đoàn kết được, không phân 
biệt quá khứ, thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước hay ở nước ngoài trên cơ sở 
mục tiêu chung là giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia vì 
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”; đoàn kết giữa nhân 
dân với nhân dân các nước trên thế giới; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để trở 
thành động lực chủ yếu để xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc”. 
Trong những năm trước mắt, mặt trận tập trung đẩy mạnh hơn nữa các cuộc vận động, các 
phong trào thi đua yêu nước, nhất là cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống 
văn hoá ở khu dân cư” và cuộc vận động “ngày vì người nghèo”, phấn đấu xoá xong nhà dột 
nát cho người nghèo, góp phần cùng đảng và nhà nước thực hiện mục tiêu đến năm 2010 đưa 
đất nước ta ra kh i 
tình trạng nước k m phát triển. 
2- Khơi dậy và phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc 
Trong thực tiễn, việc chuyển sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời kỳ giữ nước sang thời kỳ 
dựng nước không phải là việc dễ dàng. Lịch sử đang đòi h i những nỗ lực lớn của Đảng và 
Nhà nước ta trong lĩnh vực này. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xu thế hiện nay là hội 
nhập kinh tế quốc tế, một loạt vấn đề đặt ra mà chúng ta phải chú ý: 
- Khơi dậy và phát huy cao độ sức manh nội lực, phải xuất phát từ lợi ích dân tộc, từ phát huy 
nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ 
được để xây dựng, phát triển đất nước. 
- Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa, để khơi dậy 
và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự cường dân tộc, trong chính sách đại đoàn kết, 
phải chú ý phát huy tính năng động của mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, 
quản lý, đến sản xuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả 
ngày càng cao. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc 
biệt tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh làm phai nhạt truyền thống đoàn 
kết, tình nghĩa tương thân tương ái của dân tộc, giải quyết đói nghèo, thu hẹp khoảng cách, 
ranh giới giữa kinh và thượng, giữa nông thôn và thành thị, cũng cố khối đại đoàn kết dân 
tộc anh em, chăm lo đời sống đồng bào dân tộc ít người, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, tôn 
trọng tín ngưỡng tôn giáo, các tập quán tốt đẹp của dân tộc, kiên quyết loại b những âm mưu 
lợi dụng tôn giáo, tà giáo để gây rối. 
- hải xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. hải chống các tệ nạn xã hội, nhất 
là tệ nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, phải biết lắng nghe 
những ý nguyện chính đáng của nhân dân, phải kịp thời giải quyết những oan ức của nhân 
dân, làm cho lòng dân được yên. hải tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, 
đặc biệt coi trọng việc xây dựng mặt trận, đổi mới, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách 
tôn giáo, chính sách đối với công nhân, với nông dân, với trí thức, chính sách đối với cộng 
đồng người việt nam ở nước ngoài, chính sách đối với các thành phần kinh tế, tập hợp đến 
mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa 
đất nước. 
- Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa 
quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển, đòi h i 
phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời phải nắm vững 
phương châm ngoại giao mềm dẻo, có nguyên tắc nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối 
ngoại hiện nay của Đảng và Nhà nước ta là: Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất 
cả các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển. 
Trong tình hình thế giới hiện nay, đòi h i chúng ta phải có những chủ trương đúng đắn, sáng 
tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, đẩy lùi nguy cơ, để vừa nâng cao hiệu quả 
hợp tác quốc tế, vừa giữ vững bản sắc dân tộc, giữ vững đinh hướng xã hội chủ nghĩa. 
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước ta phải chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc – sức 
mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, 
trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và vận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực 
lượng 
bên ngoài. 
3- Những bước làm cụ thể hơn 
a- Xác đinh hướng đi 
Đại đoàn kết dân tộc – Cội nguồn sức mạnh của đất nước là yếu tố quyết định cho phát triển. 
Một trong những kẻ thù của chúng ta hiện nay là sự nghèo nàn, lạc hậu. Lạc hậu thì sẽ tụt 
hậu. Tụt hậu thì khó thoát kh i vòng lệ thuộc. Tất cả những ai có thể góp một phần vào việc 
chống kẻ thù đó đều nên và có thể có mặt trong hàng ngũ của chúng ta. 
Từ ngày Đảng ta có chủ trương đổi mới, tư tưởng hòa hợp dân tộc lại được phục hưng và ứng 
nghiệm với nhiều kết quả khả quan. Quan điểm kinh tế nhiều thành phần, quan điểm kinh tế 
mở, tư tưởng vn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, kh p lại quá khứ, hướng về tương 
lai,v,v., đã giúp cho nước ta khai thác được cả nội lực và ngoại lực để vượt kh i khủng 
hoảng, liên tiếp thu được những thành quả về mọi mặt. 
Bây giờ, chúng ta đã có một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và đang trên đường tiến tới 
thực hiện lý tưởng dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta đã 
từng bước nâng cao uy tín quốc tế. Do đó, chúng ta càng có sức cảm hóa, thuyết phục nhiều 
hơn. Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng ch rõ thêm rằng nếu ch dùng đối đầu và bạo 
lực để giải quyết những thù hận thì ch đẻ ra thù hận. Nếu dùng cách đối thoại, thuyết phục, 
cảm hóa để giải quyết thù hận thì có thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày 
càng dồi dào hơn. Nhìn ra thế giới, càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc 
gia chính là tài nguyên con người. Nếu quy tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác cũng 
có thể được quy tụ. Con người mà không quy tụ thì mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng. 
b- Xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh: 
- Xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam vững mạnh 
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong sạch, vững 
mạnh, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. 
- Luôn luôn chăm lo xây dựng Mặt trận và các Đoàn thể nhân dân 
Hệ thống chính trị ở Việt Nam hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và 
nhân dân làm chủ. Đây là một cơ chế có sự thống nhất, không có đối lập và không tách rời 
nhau.Vấn đề làm chủ của nhân dân được thể hiện rõ qua quyền giám sát của dân thông qua 
việc các đại biểu Quốc hội chất vấn các thành viên chính phủ tại mỗi kỳ họp Quốc hội; người 
dân có quyền tham gia vào các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể. Việc thực hiện quy chế dân 
chủ ở cơ sở cho ph p người dân được tham gia trực tiếp vào việc lập kế hoạch, quản lý và 
thực thi các chính sách phát triển tại địa phương. Người dân cũng được tạo điều kiện phát 
triển kinh tế trong khuôn khổ pháp luật. 
b- Dựa vào sức mạnh của toàn dân,lấy dân làm gốc 
Sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, cho nên mọi chủ trương chính sách 
của Đảng ta đều xuất phát từ dân, dựa vào dân mà thực hiện. Do đó, cần phải phát triển nguồn 
nhân lực con người, đào tạo đội ngũ cán bộ tốt, đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khơi dậy, phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, coi dân chủ 
là mục tiêu, là động lực để xây dựng đất nước, chú trọng nâng cao ý thức làm chủ cho nhân 
dân. 
” Dễ trăm lần không dân cũng chịu, 
Khó vạn lần dân liệu cũng xong “. 
Dân là gốc của nước. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta coi đại đoàn 
kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo 
là động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Vì vậy, chúng ta cần phải: 
c- Thường xuyên chăm lo xây dựng và phát triển nguồn lực con người. Cần xây dựng và phát 
triển nguồn nhân lực 
- Bồi dưỡng tư tưởng yêu nước kết hợp với tinh thần quốc tế chân chính 
- Có đạo đức, lối sống cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không 
tham nhũng và mắc các tiêu cực khác. 
- Đội ngũ nhân lực có trình độ cao 
* Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết tạo thành sức mạnh 
vô biên. Lịch sử nước nhà và lịch sử thế giới cho thấy rằng, thời kỳ nào dân tộc không đoàn 
kết thì thời kỳ đó dân tộc không phát triển lên được, thậm chí sẽ bị mất nước, bởi các thế lực 
ngoại bang xâm chiếm. 
d- Tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Xã hội càng phát triển thì trình độ dân chủ của một 
xã hội càng cao. Dân phải được tôn trọng, phải phát huy được tính tích cực của mình trong 
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kinh tế thị trường đã và đang tạo ra những mặt tích cực 
đáng kể cho sự phát triển kinh tế- xã hội nhưng đồng thời cũng có những mặt trái, làm trầm 
trọng thêm một số tiêu cực đã có trước đây và nảy sinh một số tiêu cực mới. Mọi âm mưu và 
hành động, dù là nh , làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc đều là có tội đối với đất 
nước, cần được lên án. Tạo điều kiện cho nhân dân làm tròn nghĩa vụ công dân. 
e- hát triển nguồn lực con người 
Trong thế giới ngày nay, nguồn lực hàng đầu là trí thức. Nói như thế không có nghĩa là đề cao 
những con người trí thức cụ thể, mà nói đến một điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển: 
trong cuộc đua tranh để phát triển, không thể ch dựa vào nhiệt tình và ý chí, mà phải dựa vào 
kiến thức, học vấn, sự nhận thức các quy luật của thiên nhiên và của xã hội. 
Theo kinh nghiệm lịch sử của thế giới và bản thân nước ta, nhất là qua những kinh nghiệm 
của Hồ Chí Minh, thấy rằng trí thức tận tụy hay không là tùy thuộc vào chúng ta có tin dùng 
trí thức hay không, có giao cho họ đảm nhiệm những trọng trách mà họ xứng đáng được đảm 
nhiệm hay không. 
Điều đó không tùy thuộc vào bản thân trí thức, mà vào lãnh đạo: có đủ khả năng thu phục 
nhân tâm và nhân tài hay không. Thu hút được nhân tài cũng là một tài năng. 
Hiện nay, nước ta đã có một giai cấp công nhân ngày càng đông đảo, hoạt động trong nhiều 
ngành công nghiệp khác nhau, trong các thành phần kinh tế khác nhau. Yêu cầu về trình độ 
nghề nghiệp ngày càng cao, nhất là trong điều kiện công nghệ ngày càng hiện đại, tin học hoá 
và tự động hoá ngày càng nhiều. Nếu có chính sách phù hợp thì người công nhân sẽ có những 
sáng kiến, sáng tạo lớn. Có thể nói sản xuất hiện đại vẫn đòi h i và rèn luyện người công 
nhân những phẩm chất ưu việt của riêng người công nhân. Đó là tính k luật, chính xác, tính 
tập thể, là ý thức chính trị tốt. Đó cũng là những phẩm chất mà người cán bộ, nhất là cán bộ 
lãnh đạo, quản lý cần có. Vì vậy hiện nay, chú ý phát triển đội ngũ cán bộ xuất thân từ giai 
cấp công nhân vẫn là một hướng đi đúng cần quan tâm. 
Đất nước ta cũng có một đội ngũ trí thức khá lớn. Họ có mặt trong nhiều ngành, nhiều lĩnh 
vực từ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, 
khoa học công nghệ, văn hoá nghệ thuật,v,v,. Họ xuất thân từ các giai cấp và tầng lớp khác 
nhau kể cả nông dân, công nhân. Họ có mối liên hệ khá gần gũi với các giai cấp và tầng lớp 
khác, với quần chúng lao động. Họ có thể hiểu rõ tâm tư nguyện vọng, những giá trị của quần 
chúng lao động. Rất nhiều người trong số đó có khả năng lãnh đạo, quản lý. 
Để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp hiện nay, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao, chúng 
ta phải khắc phục những định kiến vẫn còn rơi rớt. Đó là tâm lý coi thường những người xuất 
thân từ các giai cấp lao động, đặc biệt từ giai cấp công nhân, nghĩ rằng họ quen lao động chân 
tay, ít chữ nghĩa, ít hiểu biết, hạn chế tầm nhìn đối với những vấn đề đại sự quốc gia. Do đó 
ch chú ý vào những người “có học”, đã qua trường lớp chính quy, bài bản. 
Ngược lại, có tâm lý coi thường hoặc kỳ thị những người trí thức, coi họ ch sách vở, quan 
liêu, không thực tế, thiếu hiểu biết cuộc đời. Thậm chí coi họ là điển hình của thói tiểu tư sản, 
cá nhân chủ nghĩa, yếu đuối. Do đó ch chú ý đối với những người đã từng kinh qua “thực 
tiễn”. 
Tuy nhiên, nhìn một cách thực tế, hậu quả của cả hai khuynh hướng đều không tốt. Chúng ta 
phải đề phòng một khuynh hướng nửa vời trong đội ngũ cán bộ, một mặt chạy theo v trí 
thức, với những văn bằng, học vị nọ kia chứ không thực sự là trí thức, mặt khác cũng không 
có lập trường quan điểm, tác phong công nhân thực sự. Đây là một tình trạng chứa đựng nguy 
cơ của chủ nghĩa cơ hội trong đội ngũ cán bộ của chúng ta. 
f- Để ngọn lửa yêu nước và đại đoàn kết dân tộc sáng mãi 
Chúng ta cần ôn lại mấy bài học lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: 
Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam cùng mọi thành quả của nền văn hóa Việt Nam 
không phải là của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi 
người Việt nam, của cả dân tộc Việt Nam. 
Mọi người Việt Nam đều có trách nhiệm và có quyền được đóng góp vào việc tô điểm cho 
giang sơn đó, làm giàu thêm và đẹp thêm cho nền văn hóa đó. 
 hải làm sao để cho mọi người Việt Namn đều được sống với giang sơn gấm vóc 
này, được hưởng mọi giá trị vật chất và tinh thần của nền văn hóa này. 
V. KẾT LUẬN 
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn 
tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đ nh cao 
sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc 
của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ 
chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí 
thức làm nòng cốt do Đảng cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh 
phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt 
có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương 
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. 
Cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới có sự khác biệt về chất so với thời kỳ đấu 
tranh bảo vệ tổ quốc và giải phóng đất nước, thậm chí cũng đã khác rất nhiều so với thời kỳ 
trước đổi mới. Đại hội XI của Đảng ta xác định: Hơn bao giờ hết cần phát huy sức mạnh đại 
đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy 
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước 
Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, 
công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá b mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành 
phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề 
cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người 
vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ 
sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là 
hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp u đảng và 
chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học h i, tiếp thu ý kiến, giải quyết các 
khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt 
công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày t chính kiến, nguyện vọng và thực 
hiện quyền làm chủ của mình./. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_dai_doan_ket_dan_toc.pdf