Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc

pdf 30 trang yenvu 01/01/2024 2510
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về các 
vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam đồng thời nó vừa là sự kết tinh giữa tinh hoa 
văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể hiện được tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo 
của Người trong việc vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách 
mạng thuộc địa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc chiếm 
một vị trí lớn trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – 
Lênin, được Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng vào thực tiễn cách mạng nước 
ta để giải quyết vấn đề dân tộc, giải phóng đất nước ra khỏi ách thống trị của bọn đế 
quốc thực dân và thực hiện đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta trong thời gian qua. Hiện 
nay, việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao nhận thức về vấn đề dân tộc trong tư tưởng 
Hồ Chí Minh là rất cần thiết. Vì vậy em chọn đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn 
đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
2. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Làm rõ được thực chất, nội dung và động lực của vấn đề dân tộc thuộc địa, nêu 
lên được mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
Phân tích được tính chất, nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc 
đồng thời chỉ ra những quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử, phương 
pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh.
5. Kết quả của đề tài
Dựa vào các quan điểm của Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách 
mạng giải phóng dân tộc chúng ta thấy rõ được vấn đề dân tộc thuộc địa, tầm quan 
trọng của việc lựa chọn con đường phát triển của dân tộc; nhận thức đúng đắn hơn về 
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
2
Nắm rõ được tính chất, nhiệm vụ mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc và 
những quan điểm của Bác về cách mạng giải phóng dân tộc từ đó ý thức và nâng cao 
được tinh thần yêu nước cũng như đoàn kết toàn dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
3
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1 Vấn đề dân tộc thuộc địa
1.1.1 Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh không 
bàn về vấn đề dân tộc nói chung. Xuất phát từ nhu cầu khách quan của dân tộc Việt 
Nam, đặc điểm của thời đại, Người dành sự quan tâm đến các thuộc địa, vạch ra thực 
chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xóa 
bỏ ách thống trị, áp bức, bóc lột của người nước ngoài, giải phóng dân tộc, giành độc 
lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập.
Hồ Chí Minh viết nhiều tác phẩm như: Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm 
thuộc địa, Công cuộc khai hóa giết người, tố cáo chủ nghĩa thực dân, vạch trần cái 
gọi là “ khai hóa văn minh” của chúng. Người viết: “ Để che đậy sự xấu xa của chế độ 
bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn trang điểm cho cái huy chương 
mục nát của nó bằng những châm ngôn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng”. “ Nếu lối hành 
trình theo kiểu Linsơ của những bọn người Mỹ hèn hạ đối với những người da đen là 
một hành động vô nhân đạo, thì tôi không còn biết gọi việc những người Âu nhân danh 
đi khai hóa mà giết hàng loạt người dân châu Phi là cái gì nữa”. Trong những bài có 
tiêu đề Đông Dương và nhiều bài khác, Người lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, 
sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương trên các lĩnh vực chính trị, kinh 
tế, văn hóa, giáo dục. Người chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với chủ 
nghĩa đế quốc thực dân là mâu thuẫn không thể điều hòa được.
Nếu như C.Mác bàn về nhiều cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin 
bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh bàn về cuộc 
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C.Mác và V.I.Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai 
cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, thì Hồ Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng 
dân tộc ở thuộc đia.
Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc. Để giải phóng dân tộc cần xác định 
một con đường phát triển của dân tộc, vì phương hướng phát triển của dân tộc quy 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
4
định những yêu cầu và nội dung trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi 
phương hướng phát triển gắn liền với một hệ tư tưởng và một giai cấp nhất định.
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của cha ông ta và lịch sử nhân loại, Hồ Chí 
Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là 
chủ nghĩa xã hội.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một vấn đề hết sức 
mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều giai đoanh 
khác nhau. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí 
Minh viết: “ Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội 
cộng sản”. Con đường đó kết hợp cả nội dung dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội;xét 
về thực chất chính là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
“Đi tới xã hội cộng sản” là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trò lãnh 
đạo của Đảng Cộng sản, đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, tiến hành các cuộc cách 
mạng chống đế quốc và chống phong kiến cho triệt để.
Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Đó cũng là nét 
độc đáo, khác biệt với con đường phát triển của các dân tộc đã phát triển lên tư bản 
chũ nghĩa ở phương Tây.
1.1.2 Nội dung và động lực của vấn đề dân tộc thuộc địa
Cách tiếp cận từ quyền con người. Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con 
người.Người đã tìm hiểu và tiếp nhận những nhân tố về quyền con người được nêu 
trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 
1791 của Cách mạng Pháp như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do, và 
quyền mưu cầu hạnh phúc. Người khẳng định: “ Đó là những lẽ phải không ai chối cãi 
được”
Nhưng từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành quyền 
dân tộc: “Tất cả các dâm tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có 
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
5
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh 
nói: “Tự do cho đồng bài tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đây là tất cả những điều tôi 
muốn, đây là tất cả những điều tôi hiểu”.
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các đồng minh thắng 
trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất long trọng thừa nhận, thay mặt những người 
Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Vécxây bản Yêu sách gồm tám 
điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của 
Đảng, một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, có tư tưởng cốt lõi là 
độc lập dân tộc, tự do cho dân tộc.
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội Nghị lần thứ tám Ban Chấp hành 
Trung ương Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chĩ rõ: “trong lúc này quyền lợi dân tộc 
giải phóng dân tộc cao hơn hết thảy”. Người chỉ đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng 
minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo Mười chính sách của Việt Minh, trong đó mục 
tiêu đầu tiên là: “Cờ treo độc lập, xây dựng bình quyền”. Tháng 8-1945, Hồ Chí Minh 
đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân ta trong câu nói bất hủ: 
“Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho 
được độc lập!”’
Cách mạng Tháng Tám thành công, Người thay mặt Chính Phủ lâm thời đọc 
Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế giới:
“ Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành 
một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực 
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Trong quan niệm Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thật sự, 
hoàn toàn, gắn liền với với hòa bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và chính phủ các nước vào 
thời gian sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nhân dân 
chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
6
chiến đấu đến cùng để bảo vệ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc 
và độc lập cho đất nước”.
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ. Thể hiện quyết tâm 
bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi vang dội núi song: 
“Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định 
không chịu làm nô lệ”.
Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh, ồ ạt đổ quân viễn chinh và 
phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá 
hoại miền Bắc với quy mô và cường độ ngày càng ác liệt, Hồ Chí Minh nêu cao chân 
lý lớn nhất thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Độc lập dân tộc, cuối cùng, phải đem lại cơm no áo ấm, hạnh phúc cho mọi 
người dân.
Độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng 
của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, một tư tưởng lớn trong thời đại giải phóng dân 
tộc. “ Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là khẩu hiệu hành động của dân tộc 
Việt Nam, đồng thời là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đang đấu 
tranh cống chủ nghĩa thực dân. Vì thế, Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng giải phóng 
dân tộc của Việt Nam mà còn là “ Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của 
các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
Khi chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các cường quốc tư bản phương 
Tây ra sức tiến hành chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, thiết lập ách thống trị của chủ 
nghĩa thực dân với những chính sách tàn bạo.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự áp bức, bóc 
lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề thì phản ứng của 
các dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ quần chúng lao động (công nhân và 
nông dân), mà cả các giai cấp và tầng lớp trên trong xã hội (tiểu tư sản, tư sản và địa 
chủ) đều phải chịu nổi nhục của người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập, tự 
do.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
7
Cùng với sự lên án chủ nghĩa thực dân và cỗ vũ các dân tộc thuộc địa vùn lên 
đấu tranh, Hồ Chí Minh khẳng định vai của tiềm năng dân tộc trong sự nghiệp giải 
phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính của các dân 
tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm 
nào.
Theo Hồ Chí Minh, “ Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta 
đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực 
dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây một nước Việt Nam độc 
lập, thống nhất, dân chủ , tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân chủ mới”. Trong 
tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính “là một bô phận của tinh thần 
quốc tế”, “khác hẳn với tinh thần ‘vị quốc’ của bọn đế quốc phản động’.
Xuất phát từ sự phân tích mối quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền 
thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu 
nước mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy 
1.2 Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu 
nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn 
đề dân tộc Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí 
Minh thể hiện: khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo 
duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam; chủ trương đại 
đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí 
thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để 
chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù; thiết lập chính quyền nhà nước của dân, 
do dân, vì dân; gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Khác với các con đường cứu nước của cha ông gắn độc lập dân tộc với chủ 
nghĩa phong kiến (cuối thế kỷ XIX), hoặc chủ nghĩa tư bản (đầu thế kỷ XX), con 
đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã 
hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
8
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc 
theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất 
giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, dân tộc độc lập và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1960 Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải 
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giớ khỏi ách nô 
lệ”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải 
phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khắng khít 
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con 
người. Chỉ xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức bóc lột, thiết lập nhà nước thực sự của 
dân, do dân, vì dân đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thục hiện 
được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và 
hạnh phúc của con người, Hồ Chí Minh nói: “Nước được độc lập mà dân không được 
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Do đó, sau khi giành 
được độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh, 
mọi người được sung sướng, tự do.
Người khẳng định: “Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa 
xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày được no ấm thêm, 
Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng 
thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của 
chũ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải 
phục tùng lợi ích của dân tộc.
Tháng 5-1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này 
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh trưởng, tồn vong của quốc 
gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, 
không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia 
dân tộc còn mãi chiu kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm 
cũng không đòi được”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
9
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc 
lập của dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp 
bức,
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự 
quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc 
đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến 
chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và 
chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu: “giúp 
bạn là tự giúp mình” và chủ trương phải bằng thắng lợi của các mạng mỗi nước mà 
đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu 
sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước 
chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như Ph.Ăngghen từng nói: Những 
tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư 
tưởng quốc tế chân chính.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
10
CHƯƠNG 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG 
DÂN TỘC
2.1 Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
2.1.1 Tính chất
Bằng phương pháp lịch sử cụ thể, bám sát thực tiễn xã hội thuộc địa, Hồ Chí 
Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống 
như ở các nước tư bản phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, 
nhưng đều chung một số phận mất nước, giũa họ vẫn có sự tương đồng lớn: dù là địa 
chủ hay nông dân, họ đều chịu chung số phận là người nô lệ mất nước.
Nếu như mâu thuẫn chủ yếu ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây là mâu 
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, thù mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc 
địa phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân. Nó quy 
định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở các nước thuộc địa.
Dưới tác động của các chính sách khai thác kinh tế, bóc lột tô thuế và cướp đoạt 
ruộng đất, cùng với những chimhs sách cai trị của chủ nghĩa đế quốc, mỗi giai cấp ở 
thuộc địa có địa vị kinh tế, thái độ chính trị khác nhau, thậm chí có lợi ích phát triển 
ngược chiều nhau, hình thành nhiều mâu thuẫn đan xen nhau, nhưng nổi lên mâu thuẫn 
cơ bản và chủ yếu là là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với đế quốc xâm lược và bọn 
tay sai của chúng. Do vậy, “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương 
Tây”.
Hồ Chí Minh phân tích: xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét “về 
mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời 
cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”. Do mâu thuẫn chủ yếu 
khác nhau, tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa và các 
nước thuộc địa cũng khác nhau. Nếu như ở các nước tư bản chủ nghĩa phải tiến hành 
cuộc đâu tranh giai cấp, thì ở các nước thuộc địa trước hết phải tiến hành cuộc đấu 
tranh giải phóng dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
11
Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư bản bản xứ, 
càng không phải là giai cấp địa chủ nói chung mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản 
động.
Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã hội 
mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế 
quốc”, chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự bóc lột nói chung.
Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ bọn thực dân xâm lược với nhân dân các nước 
tư bản chủ nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước phản đối chiến tranh xâm lược 
thuộc địa, ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc. Trong 
phong trào cộng sản quốc tế, có quan điểm cho rằng “vấn đề cơ bản của cách mạng 
thuộc địa là vấn đề nông dân” và chủ trương nhấn mạnh về vấn đề ruộng đất, nhấn 
mạnh đấu tranh giai cấp.
Ở các nươc thuộc địa, nông dân luôn là lực lượng đông đảo nhất. Thực dân 
Pháp thống trị và bóc lột nhân dân Việt Nam thì chủ yếu là thống trị và bóc lột nông 
dân. Nông dân là nạn nhân chính của các chính sách khai thác thuộc địa, bóc lột tô 
thuế và cướp đoạt ruộng đất. Vì thế, kẻ thù số một của nông dân là bọn đế quốc thực 
dân. Nông dân có hai yêu cầu: độc lập dân tộc và ruộng đất, nhưng họ luôn đặt yêu cầu 
độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất
Cùng với nông dân, tất cả các giai cấp và tầng lớp khác nhau đều có nguyện 
vọng chung là “cứu giống nòi” ra khỏi cảnh “nước sôi lửa bỏng”. Việc cứu nước là 
việc chung của cả dân tộc bị áp bức.
2.1.2 Nhiệm vụ
Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc, quy định tính chất và 
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc phân biệt ba loại cách 
mạng: cách mạng tư sản, cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc; đồng thời, 
Người nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải 
phóng dân tộc. Người giải thích:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
12
Giai cấp nông dân là bộ phận có số lượng lớn nhất trong dân tộc nên giải phóng 
dân tộc chủ yếu là giải phóng nông dân. Nông dân có yêu cầu về ruộng đất nhưng 
nhiệm vụ ruộng đất cần tiến hành từng bước thích hợp. Khi đánh đổ ách thống trị của 
chũ nghĩa đế quốc, yêu cầu đó được đáp ứng một phần vì ruộng đất của bọn đế quốc 
và tay sai sẽ thuộc về nông dân. Đế quốc và tay sai là kẻ thù số một của nông dân, lật 
đổ chế độ thuộc địa là nguyện vọng hàng đầu của nông dân.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, xác định 
những nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, nhưng nổi lên nhiệm vụ hàng 
đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Trong tư duy của Hồ Chí Minh, 
giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5-1941) do Hồ 
Chi Minh chủ trì đã kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh đó 
là “nhiệm vụ bức thiết nhất”, chủ trương tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruông đất” và 
chỉ tiến hành nhiệm vụ đó ở một mức độ thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giải 
phóng dân tộc.
Trong nhiều bài nói, bài viết thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế 
quốc Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Trong kháng 
chiến chống thực dân Pháp, Người khẳng định: “Trường kỳ kháng chiến nhất định 
thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất định thành công”. Trong kháng chiến chống Mỹ, 
Người nêu rõ: “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ 
sum họp một nhà”.
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực 
dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước với ý chí quyết giải phóng gông 
cùm nô lệ cho đồng bào. Người tin theo V.I.Lênin và Quốc tế thứ ba, vì Quốc tế thứ ba 
có chủ trương giải phóng dân tộc bị áp bức.
2.1.3 Mục tiêu
Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi riêng 
biệt của mỗi giai cấp, mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là mục tiêu của 
chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế thời đại cách mạng chống đế quốc, 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
13
thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân 
dân.
Tuy nhiên, do những hạn chế trong nhận thức về thực tiễn của cách mạng thuộc 
địa, lại chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo điều, “tả” khuynh, nhấn mạnh một chiều 
đấu tranh giai cấp, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10-
1930) đã phê phán những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc. Nhưng, với bản lĩnh cách 
mạng kiên cường, bám sát thực tiễn Việt Nam, kiên quyết chống giáo điều, tháng 5-
1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 
chủ trương “thay đổi chiến lược”, từ nhấn mạnh đâu tranh giai cấp sang nhấn mạnh 
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị khẳng đinh dứt khoát: “cuộc cách mạng 
Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách 
mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ 
phải giải quyết một vấn đề cần kíp “ dân tộc giải phóng”, vậy thì cuộc cách mạng 
Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”. Hội 
nghị chủ trương tiếp tục gác lại khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chỉ để lại công điền 
và ruộng đất “tịch thu ruộng đất của Việt gian phản quốc” cho dân cày nghèo, tức là 
ruộng đất đang nằm trong tay kẻ thù dân tộc, chứ không phải là giai cấp địa chủ nói 
chung, nhằm đánh lại kẻ thù của dân tộc cả về chính trị và kinh tế.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như những thắng lợi trong 30 
năm chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975) trước hết là thắng lợi của đường lối 
cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh.
2.2 Cách mạng giải phóng dân tộc phải theo con đường cách mạng vô sản, có 
Đảng Cộng sản lãnh đạo và tiến hành bằng con đường bạo lực cách mạng
2.2.1 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con 
đường cách mạng vô sản
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử 
dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng 
những vũ khí khác nhau.
Tất cả các phong trào yêu nước vào cuối thế kỷ XX, mặc dù diễn ra vô cùng 
anh dũng, với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”, nhưng rốt cuộc đều bị 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
14
thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đất nước lâm vào “tình hình đen tối tưởng như 
không có đường ra”. Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam 
vào đầu thế kỷ XX. Nó đặt ra yêu cầu bứt thiết phải tìm ra một con đường cứu nước 
mới.
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân 
phải chịu cảnh lầm than, Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào cứu nước của 
ông cha. Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa 
trước, rước beo cửa sau”; con đường Phan Châu Trinh cũng chẳng khác gì “xin giặc rủ 
lòng thương”, con đường của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn 
mang nặng cốt cách phong kiến.
Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ 
Chí Minh không tán thành các con đường của họ mà quyết tâm ra đi tìm một con 
đường cứu nước mới.
Trong khoảng mười năm vượt qua các đại dương, đến với nhân loại cần lao 
đang đấu tranh ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp 
tìm hiểu lý luận và khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư bản phát triển: Anh, Pháp, 
Mỹ.
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách 
mạng tư sảm Mỹ; đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp, tìm 
hiểu cuộc cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy: “Cách mệnh Pháp cũng như cách 
mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng cộng hòa và 
dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Bỡi 
lẽ đó, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.
Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc 
cách mạng vô sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm 
gương sáng về sự nghiệp giải phóng dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt họ thời đại 
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”
Người “hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba” bởi vì V.I.Lênin và Quốc 
tế thứ ba đã “bênh vực cho các dân tộc bị áp bức. Người thấy trong lý luận của 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
15
V.I.Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô 
sản.
Trong bài Cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh viết: “chỉ có giải phóng giai cấp vô 
sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp 
của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có 
xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ 
nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “ 
Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách 
mạng vô sản”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được 
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”
2.2.2 Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng 
sản lãnh đạo
Cuộc cách mạng giải phóng và phát triển dân tộc đó phải do một đảng tiên 
phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc, được vũ trang bằng 
một hệ tư tưởng cách mạng sáng tạo, có đường lối chính trị đúng đắn, và tổ chức chặt 
chẽ, có đội ngũ đảng viên tiên phong gương mẫu nguyện phấn đấu vì nhân dân, vì Tổ 
quốc lãnh đạo
Nguyễn Ái Quốc phân tích: “Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kì lớn bé, bất kỳ 
khó dễ, nếu không ra sức thì chắc không thành côngviệc giải phóng gông cùm nô lệ 
cho đồng bào, cho nhân loại” là “việc to tát” nên phải cố gắng sức. “Việc gì khó cho 
mấy, quyết tâm làm thì chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp 
lực mà làm thì phải nổi. Đời này chưa làm xong thì đời sau nối theo làm thì phải 
xong”. Muốn làm cách mạng thì phải bền gan, đồng chí, đồng lòng và quyết tâm, “lai 
phải biết cách làm thì mới chóng”.
“Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội mới, ấy là rất khó. Nhưng biết 
cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì chắc làm được, thế thì không khó. Khó dễ 
cũng tại mình, mình quyết chí làm thì làm được”.
Nhưng muốn làm cách mệnh, “trước hết phải làm cho dân giác ngộ phải 
giảng giải lý luận và chủ nhiac cho dân hiểu”. “Cách mệnh phải hiểu trong triều thế 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
16
giới, phải bày sách lược cho dânVậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập 
trung phải có đảng cách mệnh”.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng 
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc 
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng 
như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính Đảng của 
giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”, có tổ 
chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và mật thiết liên lạc với quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, 
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. 
Kết hợp lý luận Mác – Lênin về Đảng Cộng sản với thực tiễn cách mạng Việt 
Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trên một 
loạt vấn đề về cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng nên một lý luận giải phóng dân 
tộc. Lý luận đó không chỉ được truyền bá trong phong trào công nhân, mà cả trong 
phong trào yêu nước, giải quyết vấn đề đường lối cứu nước gắn liền với sự chuẩn bị 
những điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời một chính đảng cách 
mạng Việt Nam, sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về Đảng Cộng sản, Người cho rằng, 
Đảng Cộng sản Việt Nam là “ Đảng của giai cấp vô sản”, đồng thời là “Đảng của dân 
tộc Việt Nam”. “Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những 
người thợ thuyền, dân cày, lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch 
nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”.
Khi khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và 
dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu một luận điểm quan trọng, bổ sung thêm cho 
lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về đảng cộng sản, định hướng cho việc xây dựng 
Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công 
nhân, với nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam trong mọi thời kỳ của cách mạng 
Việt Nam. Mọi người Việt Nam yêu nước, dù là đảng viên hay không, đều thật sự cảm 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
17
nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của Bác Hồ, là Đảng của mình và đều gọi 
Đảng là “Đảng ta”.
Hồ Chí Minh đã xây dựng đươc một Đảng cách mạng tiên phong, phù hợp với 
thực tiễn Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng một dạ phụng sự Tổ 
quốc, phục vụ nhân dân, được nhân dân, được dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của 
mình.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được lực 
lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đó là một 
đặc điểm, đồng thời là một ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng 
đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố 
hàng đầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng.
2.2.3 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường 
cách mạng bạo lực
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để lâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp 
dã man các phong trào yêu nước. “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành 
động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi” . Chưa đánh bại được lực lượng và đè 
bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế, con đường 
để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực.
Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí 
Minh vạch rõ tĩnh tất yếu của bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ 
chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo 
lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, coi sự nghiệp cách mạng là 
sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là bảo lực của 
quần chúng.
Trong thời kỳ vận động giải phóng dân tộc 1940-1945, Người với Trung ương 
Đảng chỉ đạo xây dựng cơ sở của bạo lực cách mạng bao gồm hai lực lượng: lực lượng 
chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Theo sáng kiến của Người, Mặt 
trận Việt Minh được thành lập. Đó là nơi tập hợp, giác ngộ và rèn luyện lực lượng 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
18
chính trị quần chúng, một lực lượng cơ bản và giữ vai trò quyết định trong tổng khởi 
nghĩa vũ trang.
Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh 
vũ trang, nhưng phải “Tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh 
cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang 
và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng”.
Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực cách mạng thể hiện bằng khởi nghĩa vũ 
trang với lực lượng chính trị là chủ yếu. Đó là công cụ để đập tan chính quyền của bọn 
phát xít Nhật và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí 
quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu 
quân sự và chính trị của chúng. Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu 
tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần 
chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng 
vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của 
các thế lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh 
mạng con người, Người luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. 
Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết 
cung đột bằng bằng biện pháp hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận 
nhượng bộ có nguyên tắc.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buột cuối cùng. Chỉ khi không 
còn khả năng hòa hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn 
giành thắng lợi bằng quân sự thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh.
Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo, hòa bình thống nhất biện 
chứng với nhau. Yêu thương con người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ 
mọi khả năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi 
chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách 
mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình vì 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
19
độc lập tự do. Đánh giặc không phải là tiêu diệt hết lực lượng, mà chủ yếu là đánh bại 
ý chí xâm lược của chúng, kết hợp giành thắng lợi về quân sự với giải pháp ngoại giao 
để kết thúc chiến tranh.
Theo Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc “lực lượng chính là 
ở dân”. Người chủ trương tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.
Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí 
Minh không chủ trương tiến hành kiểu chiến tranh thông thường, có chiến tuyến rõ rệt, 
chỉ dựa vào lực lượng quân dội và dốc toàn lực vào một số trận sống mái với kẻ thù, 
mà chủ trương phát động chiến tranh nhân dân, dựa vào lực lượng toàn dân, có lực 
lượng vũ trang làm nòng cốt, đấu tranh toàn diện với kẻ thù đế quốc với tư tưởng chiến 
lược tiến công, phương châm chiến lược đấu tranh lâu dài và dựa vào sức mình là 
chính. Hồ Chí Minh nói: “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng 
phó, không thể nào thắng lợi được”.
Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí 
Minh về hình thái của bạo lực cách mạng.
Trong chiến tranh, “quân sự là việc chủ chốt”, nhưng đồng thời phải kết hợp 
chặt chẽ với đấu tranh chính trị. “Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng 
lợi chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn”.
Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, có tác dụng 
thêm bạn bớt thù, phân hóa và cô lập kẻ thù, phát huy yếu tố chính nghĩa của cuộc đấu 
tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quốc tế. 
Hồ Chí Minh chủ trương “vừa đánh vừa đàm”, “đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ”.
Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển 
kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. Người kêu gọi “hâu phương thi đua với tiền 
phương”, coi “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ”, 
“tay cày tay súng, tay búa tay súng, ra sức phát triển sản xuất để phục vụ kháng chiến”.
Chiến tranh về mặt văn hóa hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không 
kém quan trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
20
Mục đích của cách mạng và chiến tranh chính nghĩa là vì độc lập, tự do, làm 
cho khả năng tiến hành chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự 
giác tham gia kháng chiến.
Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm 
chiến lược đánh lâu dài.
Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm 
phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự 
giúp đỡ bên ngoài. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn 
đề cao sức mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi sự nỗ lực của dân tộc, đề 
cao tinh thần dân tộc, tự chủ.
Độc lập, tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một 
quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống 
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Người đã động viên sức mạnh toàn dân tộc, đồng thời 
ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả cả về vật chất và 
tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức manh thời đại để kháng chiến thắng lợi.
2.3 Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo; lực 
lượng của cách mạng giải phóng dân tộc.
2.3.1 Cách mạng giải phóng dân tộc ta cần được tiến hành chủ động, sáng 
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền (đế quốc chủ nghĩa), 
nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó là 
nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lực thuộc địa. Các nước thuộc 
địa trở thành một trong những nguồn sống của chủ nghĩa đế quốc.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản đế quốc đều 
lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy 
của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thu hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân lao động của 
nó, và nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của 
nó”. “ nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các 
thuộc địa”. Người thẳng thắn phê bình một số đảng cộng sản không thấy được vấn đề 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
21
quan trọng đó. Người chỉ rõ: “Bàn về khả năng và biện pháp thực hiện cách mạng, đề 
ra kế hoạch của cuộc chiến đấu sắp tới, các đồng chí Anh, Pháp cũng như các đồng chí 
ở Đảng khác hoàn toàn bỏ qua luận điểm cực kì quan trọng này. Chính vì thế, tôi hết 
sức kêu gọi các đồng chí: Hãy chú ý!”.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cách mạng 
thuộc địa có tầm quan trong đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách 
mạng có khả năng cách mạng to lớn . Theo Hồ Chí Minh, phải “Làm cho các dân tộc 
thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để 
đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một 
trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.
Tại phiên họp thứ 22 Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1-7-1924), Nguyễn Ái Quốc 
phê phán các đảng cộng sản ở Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ và các đảng cộng sản ở các nước 
có thuộc địa chưa thi hành chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc địa, trong khi 
giai cấp tư sản nước đó đã làm tất cả để kìm giữ các dân tộc bị chúng nô dịch trong 
vòng áp bức,
Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản quan tâm đến cách 
mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc 
địa chỉ có thể thực hiện bằng sự nổ lực tự giải phóng.
Vận dụng công thức của C.Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là 
sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm: “Công cuộc giải 
phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa – TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nổ lực 
của bản thân anh em”.
Người đánh giá rất cao sức mạnh của một vùng dân tộc vùng dậy chống đế 
quốc thực dân. Người chủ trương phát huy nổ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng 
bị động, trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Tháng 8-1945, khi thời cơ cách mạng 
xuất hiện, Người kêu gọi: “ Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta ra mà tự 
giải phóng cho ta”.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói: “Kháng chiến trường kỳ 
gian khổ đồng thời phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mìnhCố nhiên sự giúp đỡ 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
22
của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ 
người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ 
thì không xứng đáng được độc lập”.
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của 
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. 
Quan điểm này, vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào 
cách mạng ở thuộc địa.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách 
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn 
nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan 
hệ bình đẳng chứ khống phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính – phụ.
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh 
dân tộc, Nguyễn Áí Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể 
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Đây là một điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến 
rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đã 
được thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thập 
kỉ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
2.3.2 Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân. 
Người cho rằng: “Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: 1-
phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. 
Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng”. Cách mạng giải phóng và 
phát triển là sự nghiệp đại đoàn kết lực lượng toàn dân tộc, được giác ngộ và tổ chức 
chặt chẽ đứng lên đấu tranh để giải phóng giành lại quyền độc lập tự do, xây dựng một 
nhà nước pháp quyền của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc để quản lý xã hội và phát 
triển đất nước.
Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non 
làm phương thức hành động, “hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức; 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
23
hoặc làm cho dân quen ỷ lại, mà quên tính tự cường”. Người khẳng định “cách mệnh 
là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”.
Trong Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống thực 
dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm 
“lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. “Có dân là có 
tất cả”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Khi còn 
hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh nói: “Đối với tôi, câu trả lời rõ ràng: trở về 
nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huần luyện họ, đưa họ 
ra đấu tranh giành tự do độc lập”.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa 
vũ trang, Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là 
nhân tố then chốt bảo đảm thắng lợi. Người khẳng định: “ Dân khí mạnh thì binh lính 
nào, súng ổng nào cũng không chống lại nổi”. “ Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân 
thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được”. “Chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực 
lượng của quần chúng, của dân tộc”.
Dưới chế độ cai trị của chủ nghĩa tư bản Pháp, từ một xã hội phong kiến thuần 
túy, Việt Nam biến thành một xã hội thuộc địa với những tàn tích phong kiến nặng nề. 
Mặc dù thực dân Pháp còn duy trì một phần quan hệ kinh tế và giai cấp địa chủ, phong 
kiến, song khi đã thành một chế độ thuộc địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn 
hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội 
đó. Ngoài giai cấp công nhân và nông dân, giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận địa 
chủ vừa và nhỏ mặc dù có mặt hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao động, nhưng 
trong quan hệ với thực dân Pháp thì họ cũng là những người Việt Nam chịu nỗi nhục 
mất nước. Đó không phải là những giai cấp thống trị, mà trái lại, họ là những giai cấp 
bị trị và có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh phân tích: “ dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là 
sĩ, công, nông, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách 
mạng bao gồm cả dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp 
đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
24
cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nôngđi vào phe vô sản; đối 
với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng 
thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản 
cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động lực 
cách mạng của công nhân và nông dân. Người phân tích: các giai cấp công nhân và 
nông dân có số lượng đông nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp bức bóc lột 
nặng nề nhất, nên “lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyếtcông nông 
là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế 
giới, cho nên họ gan góc”. Từ đó, Người khẳng định: công nông “là gốc cách mệnh”. 
Khẳng định vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân là một vấn đề hết 
sức mới mẻ so với nhận thức của những nhà yêu nước trước đó.
Trong khi hết sức nhấn mạnh vai trò của công nhân và nông dân, Hồ Chí Minh 
không coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng 
lớp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn 
đồng minh của cách mạng. Người chỉ rõ: “học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng 
bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách 
mệnh của công nông thôi”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
25
PHẦN C. KẾT LUẬN
Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, xác định con đường cứu nước theo khuynh 
hướng chính trị vô sản, nhưng con đường cách mạng giải phóng dân tộc là do Hồ Chí 
Minh hoạch định, chứ không phải đã tồn tại từ trước. Hồ Chí Minh không tự khuôn 
mình trong những nguyên lý có sẵn, không rập khuôn máy móc lý luận đấu tranh giai 
cấp vào điều kiện lịch sử ở thuộc địa, mà có sự kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc và vấn 
đề giai cấp, gắn độc lập dân tộc và phương hướng xã hội chủ nghĩa.
Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống 
những quan điểm sáng tạo, độc đáo. Lý luận đó phải trải qua những thử thách hết sức 
gay gắt. Song, thực tiễn đã chứng minh lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ 
Chí Minh là đúng đắn. Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một 
đóng góp lớn vào kho tàng lý luận cách mạng của thời đại, làm phong phú thêm chủ 
nghĩa Mác – Lênin về cách mạng thuộc địa.
Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh hết sức 
độc đáo và sáng tạo, thấm nhuần tính nhân văn đó là phương pháp khởi nghĩa toàn dân 
và chiến tranh nhân dân. Hồ Chí Minh đã sử dụng quan điểm toàn diện, biện chứng để 
phân tích, so sánh lực lượng giữa ta và địch. Phát huy và sử dụng sức mạnh toàn dân 
tộc để tiến hành khở

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_van_de_dan_toc_va_cach_man.pdf