Tiểu luận Những vấn đề chung về PCA
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Những vấn đề chung về PCA", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Những vấn đề chung về PCA
1 TIỂU LUẬN Những vấn đề chung về PCA 2 I. GIỚI THIỆU CHUNG 1. Lịch sử - Hội nghị hoà bình thế giới lần thứ nhất tổ chức tại Hague năm 1899 đã thông qua công ước “giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế, thiết lập nên một cơ quan giải quyết tranh chấp toàn cầu: Trọng tài quốc tế (PCA).PCA là tiền thân của các cơ quan giải quyết tranh chấp quốc tế hiện nay bao gồm cả ICJ.Công ước 1899 được sửa đổi tại hội nghị hoà bình thế giới lần thứ 2 (còn gọi là công ước 1907) vào năm 1907 bằng việc thông qua công ước giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế thứ 2.Mặc dù đa số các quốc gia đều theo Công ước năm 1907,nhưng cả hai công ước này đều đang có hiệu lực.Hiện tại có 97 quốc gia thành viên. 2. Non - State Parties (các chủ thể phi quốc gia) - Được hình thành ban đầu như một công cụ để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia,PCA đã được ủy quyền, vào những năm 1930,sử dụng các khả năng để hòa giải, và làm trọng tài giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia và các chủ thể độc lập, do đó nó có quyền giải quyết các tranh chấp về thương mại và đầu tư.Vào năm 1962,PCA đã soạn thảo bộ luật “Những nguyên tắc của Trọng tài và Hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế giữa 2 bên,trong đó chỉ có một bên là quốc gia”, sau đó dẫn tới việc thông qua Hiệp định năm 1965 thành lập nên Trung tâm quốc tế về giải quyết tranh chấp đầu tư tại ngân hàng thế giới. 3 (- Tuy nhiên,trong những năm sau đó, sau 2 cuộc chiển tranh thế giới và sự thành lập ICJ và tổ chức tiền nhiệm - tổ chức PCIJ, PCA đã bị cộng đồng quốc tế sử dụng không đúng mức.) 3. Ủy ban LHQ về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL Link) - “The first stirrings of revitalization” của PCA bắt đầu vào những năm 1980.Vào năm 1976,Ủy ban LHQ về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), đã thông qua một bộ luật trọng tài phi nguyên tắc để sử dụng “trong việc giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong các mối quan hệ thương mại quốc tế,đặc biệt là các hợp đồng thương mại”.Luật này còn quy định việc chỉ định trọng tài và quyết định phản đối trọng tài. “Thẩm quyền chỉ định” được thiết lập bởi sự thoả thuận của các bên.Trong những trường hợp mà các bên không thể thống nhất về việc lựa chọn thẩm quyền chỉ định,thì cần thiết phải có một tổ chức quốc tế đáng tin cậy.Bởi vậy theo điều 6 khoản 2 và điều 7 khoản 2b của uỷ ban LHQ về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL rules): “ Nếu các bên không thống nhất được thẩm quyền chỉ định, hoặc nếu thống nhất được nhưng người có thẩm quyền chỉ định từ chối; hoặc không thể chỉ định trọng tài thì một trong các bên có thể yêu cầu Tổng thư ký của PCA chỉ định. 4. Iran-United States Claims – Tribunal ( toà thành lập theo yêu cầu của Iran và Mỹ) (ví dụ ) 4 - Vào năm 1981 Tổng thư ký lần đầu tiên được yêu cầu bổ nhiệm một thẩm quyền chỉ định, không phải cho một trọng tài thương mại,mà cho Iran- Hoa Kỳ Claims Tribunal.Sự cung cấp điều kiện vật chất và sự giúp đỡ đối với cơ quan đó trong quá trình hình thành cũng truyền sức sống mới cho PCA.Kể từ năm 1981, gần 200 yêu cầu cho sự bổ nhiệm một thẩm quyền chỉ định đã được đệ trình lên Tổng thư ký,phần lớn trong số đó là từ giữa những năm 1990.Sự tăng lên này,cũng như sự gia tăng của các trường hợp phức tạp,đã trực tiếp đưa PCA đến lĩnh vực trọng tài thương mại quốc tế.Tổng thư ký ngày càng được yêu cầu giải quyết trực tiếp như thẩm quyền chỉ định,hơn là chỉ đơn thuần bổ nhiệm tổ chức hoặc cá nhân khác. 5. Revitalization_(tái hoạt động) - Sự tái hoạt động của PCA bắt đầu vào đầu những năm 1990.Vào năm 1991,PCA đã triệu tập một nhóm những chuyên gia làm việc với mục đích đưa ra những khuyến cáo để cải thiện chức năng của nó .Kể từ đó, PCA đã mở rộng và quốc tế hóa bộ phận nhân viên của nó,làm tăng thêm sự nhận thức toàn cầu về khả năng và vai trò của nó, và thúc đẩy và hiện đại hóa chức năng của hệ thống giải quyết tranh chấp căn bản bằng việc thông qua những nguyên tắc về thủ tục mà hầu như dựa trên các quy tắc của UNCITRAL.PCA nhận thấy rằng,mặc dù nhưng những nguyên tắc của UNCITRAL đã phản ánh thực tiễn và nguyên tắc hoạt động được thừa nhận trong văn hoá trọng tài trên toàn thế giới và sẽ “ quy 5 định những thủ tục có hiệu quả và công bằng trong việc hoà bình giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia về việc giải thích, áp dụng, thực hiện điều ước và những thoả thuận khác mặc dù những thủ tục này được dùng trong trọng tài thương mại.” - Kể từ năm 1990,nhân viên của PCA đã tăng lên gấp 5 và đại diện cho hơn 10 quốc gia. II. CƠ CẤU TỔ CHỨC (ORGANIZATIONAL ASPECTS) 1.Trụ sở PCA có trụ sở tại Hague.Các quá trình giải quyết tranh chấp được tiến hành dưới sự bảo trợ của nó có thể diễn ra tại bất kỳ nơi nào khác mà được các bên và toà chấp thuận trong một trường hợp nào đó. 2. International Bureau_Ban quốc tế - Cơ cấu tổ chức cơ bản của PCA được thiết lập trong Công ước nămm 1899 và 1907. PCA không phải là một toà thực sự với các thẩm phán thường trực.Thay vào đó,một ban thư ký thường trực, ban quốc tế và đứng đầu là tổng thư ký,giúp đỡ các bên,trong mỗi vụ việc,thiết lập và quản lý một toà adhoc. Ban quốc tế là ban thư ký đang hoạt động của PCA.Nó duy trì danh sách thường trực những trọng tài tiềm năng,nhận những thông báo trực tiếp từ PCA (bao gồm những yêu cầu về quyền trọng tài), và quy định những 6 sự phục vụ hành chính đang diễn ra đối với các tòa trọng tài,bao gồm sự cung cấp các cơ sở cho việc xây dựng PCA. 3.Ủy ban (hội đồng) hành chính - Administrative Council - Chức năng giám sát của PCA được giao cho hội đồng hành chính,cơ quan bao gồm các đại diện ngoại giao của các bên được cử tới Hà Lan dự hội nghị 1899 và 1907.Hội đồng đưa ra sự chỉ đạo chung cho công việc của PCA, và giám sát sự quản lý, ngân sách và chi tiêu của nó(PCA).(Ngân sách của PCA là sự đóng góp của các quốc gia thành viên, số lượng mà dựa trên hệ thống các đơn vị được duy trì bởi Hiệp hội bưu chính toàn cầu ( một trong số ít các tổ chức liên chính phủ tồn tại từ 1899).Do đó,năm 2003,sự đóng góp cao nhất của quốc gia đơn lẻ là 24,450 euros ( 50 đơn vị ) và thấp nhất là 244.50 euros (0.5 đv).)Tổng thư ký báo cáo thường niên với hội đồng hành chính về hoạt động của PCA,chức năng hành chính và chi tiêu của nó.(PCA). (- Vì thời kỳ tái hoạt động của PCA xảy ra đồng thời với một chính sách của chính phủ tuyên bố về sự phát triển không đáng kể trong các tổ chức quốc tế,phần lớn những sự phát triển và mở rộng mới đây của nó được tài trợ từ nguồn ngân sách dự trữ, bao gồm các khoản phí thu từ các tòa trọng tài.) 4.Thành viên của toà - Các nhà dự thảo công ước 1899 và 1907 đã dự tính việc các bên lựa chọn trọng tài của mình thông qua một danh sách đóng.Bởi vậy,2 công ước đó quy định rằng mỗi quốc gia ký kết Công ước có 7 thể chỉ định lên tới 4 thành viên của tòa: những người có đủ chuyên môn trong lĩnh vực luật quốc tế,có đạo đức tốt và tự nguyện chấp nhận các nghĩa vụ của một trọng tài (Đ44 CƯ 1907).Mặc dù công ước quy định rằng các trọng tài phải được lựa chọn từ danh sách thành viên (Đ45 CƯ1907), nhưng rõ ràng rằng,trong lịch sử của PCA,các bên muốn có sự tự do để chỉ định trọng tài ngoài cái danh sách đó. (- Ngoài việc thành lập một hội đồng trọng tài có khả năng, các thành viên của PCA từ mỗi nước ký kết chỉ định một nhóm quốc gia, mà các nhóm này có quyền cử các ứng viên tuyển vào ICJ.) 5.Các văn kiện pháp lý cơ bản - Công ước năm 1899 và 1907 tạo thành những văn kiện cơ bản của PCA.Trong khi các công ước cũng quy định một khung thủ tục cho các cách giải quyết tranh chấp dưới sự bảo trợ của PCA,thì một loạt các nguyên tắc thủ tục mới đã được ấn định vào những năm gần đây.Những văn kiện đó phần lớn dựa trên các văn kiện pháp lý của UNCITRAL, để phản ánh sự nhất trí trong các thủ tục giải quyết tranh chấp trên toàn thế giới.Các bộ luật dưới đây đều đang có hiệu lực: • Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài giữa 2 quốc gia.(1992) 8 • Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc giải quyết tranh chấp bằng trọng ttài giữa 2 bên mà chỉ có một bên là quốc gia (1993). • Các nguyên tắc không bắt buộc cho Trọng tài liên quan đến các tổ chức quốc tế và các quốc gia (1996) • Những nguyên tắc không bắt buộc cho trọng tài giữa các tổ chức quốc tế và các bên tư nhân.(1996) • Các nguyên tắc hòa giải không bắt buộc (1996) • Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc tìm hiểu tình hình thực tế của ủy ban điều tra (1997) • Các nguyên tắc của quy trình giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường. • Các nguyên tắc không bắt buộc cho sự hòa giải tranh chấp liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường. According to the introduction to the 1992 Optional Rules for Arbitrating Disputes between Two States: “Experience in arbitrations since 1981 suggests that the UNCITRAL Arbitration Rules provide fair and effective procedures for peaceful resolution of disputes between States concerning the interpretation, application and performance of treaties and other agreements, although they were originally designed for commercial arbitration.” 9 - Ngoài việc áp dụng các nguyên tắc dựa trên UNCITRAL,PCA thường thực hiện việc xét xử theo các nguyên tắc xét xử của UNCITRAL,hoặc theo các nguyên tắc adhoc được các bên đưa ra cho việc xét xử liên quan. - Vì vậy,đối với thủ tục của PCA,dường như không có một bộ luật thủ tục riêng nào áp dụng cho tất cả các trường hợp.Bởi vì ưu thế của việc xét xử là một phương pháp giải quyết tranh chấp quốc tế nằm trong hệ thống của PCA, những tranh cãi về vấn đề thủ tục trong bộ luật này giới hạn tính xét xử của trọng tài.Hơn nữa,bởi vì các bên hiếm khi dựa vào các nguyên tắc không hợp thời và không chi tiết, các nguyên tắc thủ tục đầu tiên trong công ước 1899 và 1907 nhấn mạnh vào các điều khoản trong các bộ luật hiện đại của PCA. 6.Tòa - Vì vậy, không có một tòa thực sự nào.Một tòa án hoặc một bộ phận giải quyết tranh chấp khác được thiết lập theo từng vụ việc được đệ trình, và phương pháp thành lập của nó sẽ dựa trên luật áp dụng. 7. Registry Services - Ban thư ký của PCA _ International Bureau_ có một nhóm nhân viên hành chính và pháp luật thông thạo nhiều thứ tiếng và có kinh nghiệm.Nó có thể cung cấp dịch vụ đăng ký và hỗ trợ pháp lý cho 10 các tòa và các ủy ban,ví dụ, cung cấp các nguồn thông tin chính thức và đảm bảo sự an toàn của các tài liệuNgôn ngữ chính thức được sử dụng trong PCA là tiếng Anh và tiếng Pháp, nhưng các vụ kiện có thể tiến hành bằng bất kỳ một ngôn ngữ nào được các bên đồng ý. III. THẨM QUYỀN 1. Jurisdiction of the Institution - PCA vốn được thiết lập để giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia, nhưng Các công ước La Hay lại cho phép sự linh hoạt trong việc thiết lập một “hội đồng trọng tài đặc biệt”(special Board of Arbitration). - Theo các quy định không bắt buộc, nói chung, những bên sau, có thể chấp thuận đưa vụ việc lên PCA: + Giữa hai quốc gia trở lên + Giữa Quốc gia và tổ chức quốc tế + Giữa hai tổ chức quốc tế trở lên + Giữa một quốc gia và một bên tư nhân + Giữa một tổ chức quốc tế và một bên tư nhân - (Các nguyên tắc của PCA trong việc giải quyết các tranh chấp và các quy định hoà giải không bắt buộc liên quan đến tài nguyên 11 thiên nhiên và môi trường không hề có yêu cầu một trong các bên phải là quốc gia hoặc tổ chức quốc tế.) 2.Thẩm quyền của toà Cơ sở cho việc xác định thẩm quyền của toà trọng tài do các bên thoả thuận.Các thoả thuận này có thể nằm trong các điều ước cụ thể liên quan đến tranh chấp đang diễn ra hoặc các điều ước ký kết,văn kiện pháp lý liên quan đến các tranh chấp trong tương. (Toà trọng tài được trao quyền quyết định đối với bất cứ phản đối nào không chấp nhận thẩm quyền của toà và quy định rằng để quyết định thẩm quyền của toà, một thoả thuận về việc xét xử bằng trọng tài có thể xem là tách biệt đối với các văn kiện chứa đựng nó.) 3.Thẩm quyền tư vấn/thẩm quyền tranh chấp. - Thực tiễn của PCA,không giống như ICJ, không có sự phân biệt giữa thẩm quyền tranh chấp và thẩm quyền tư vấn.Toà trọng tài luôn luôn có quyền xét xử và cần được phân biệt với các hình thức giải quyết tranh chấp không qua xét xử khác bằng những phán quyết cuối cùng và có tính ràng buộc. (.Vì thế những phương pháp giải quyết tranh chấp không mang tính ràng buộc bao gồm sự dàn xếp,hòa giải,và điều tra, có thể phù hợp hơn với các bên trong việc tìm kiếm một tuyên bố có tính tư 12 vấn hoặc không ràng buộc đối với quyền và nghĩa vụ chung của các bên.) 4. Subject Matter_Những vấn đề trọng tâm - Thẩm quyền xét xử của tòa PCA là không giới hạn.Tuy nhiên trong từng vụ việc,phạm vi của thẩm quyền xét xử bị hạn chế bởi cách diễn đạt trong thỏa thuận về việc xét xử bằng trọng tài.Những nguyên tắc thủ tục của PCA về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường quy định rõ ràng rằng “Sự mô tả tính chất của tranh chấp liên quan tới môi trường hoặc tài nguyên thiên nhiên là không cần thiết cho thẩm quyền xét xử,tất cả các bên đều đồng ý đặt một tranh chấp đặc biệt dưới sự điều chỉnh của các điều luật này”. 5.Thời hạn Các nguyên tắc khác nhau về thủ tục không đặt ra một quy định về thời hạn cho việc đưa tranh chấp lên tòa PCA.Những sự hạn chế đó có thể thấy trong thỏa thuận về xét xử bằng phương pháp trọng tài. IV – NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG 1. Luật áp dụng 13 1.1 – Nguyên tắc thủ tục - Ban đầu, Luật áp dụng trong quá trình xét xử sẽ do các bên lựa chọn bằng việc chấp thuận áp dụng những nguyên tắc thủ tục cụ thể. - Các nguyên tắc thủ tục hiện nay, cũng như các nguyên tắc của PCA (xuất phát từ các nguyên tắc của UNCITRAL) tạo ra sự linh hoạt trong vấn đề thủ tục cho toà trọng tài và các bên. Có rất ít các điều khoản bắt buộc, nghĩa là, các bên có thể thông qua thoả thuận để thay đổi những quy định thủ tục. Tất cả các nguyên tắc của PCA đều quy định, toà có thể điều hành việc xét xử theo cách mà toà cho rằng là thích hợp, miễn là thoả mãn yêu cầu được quy định tại điều 15 khoản 1 Uncitral : “the parties are treated with equality and that, at any stage of the proceedings, each party is given a full opportunity of presenting its case” . Trong các vụ thương mại tư nhân, và cũng có thể hình dung trong các vụ khác, toà trọng tài có thể áp dụng hoặc tham khảo luật trọng tài của nơi diễn ra xét xử để bổ sung vào phần “luật áp dụng”. Trong việc xét xử giữa các quốc gia, thoả thuận xét xử hoặc các nguyên tắc adhoc sẽ được các bên thảo ra, trình lên trọng tài để bổ sung vào các nguyên tắc chính mà không tham khảo đến luật của địa phương. 1.2 – Substantive - Một lần nữa, các bên lại có thể có sự linh hoạt trong việc quy định luật áp dụng giải quyết tranh chấp của họ. - Theo luật của PCA, toà án trọng tài sẽ áp dụng luật do các bên thoả thuận, nếu không có sự thoả thuận nào, toà sẽ áp dụng: hoặc là các nguyên tắc áp dụng của luật quốc tế thông thường, hoặc là bất cứ phần luật nào được quy định theo nguyên tắc chọn luật. 14 - Trong trường hợp, vụ việc liên quan đến tổ chức quốc tế, toà sẽ áp dụng trực tiếp các quy định thích hợp của tổ chức có liên quan và luật của các tổ chức quốc tế; trong trường hợp các bên trong vụ việc là tư nhân, toà sẽ chú ý trực tiếp vào các thuật ngữ trong ký kết, thoả thuận được nhắc đến 2. CÁC VẤN ĐỀ THỦ TỤC 2.1- Lập thủ tục Theo nguyên tắc của PCA, phía nguyên đơn – bên đề xướng tranh chấp - phải có thông báo về việc tranh chấp cho phía bên kia - bên bị đơn. Thông báo phải bao gồm những thông tin sau: - Yêu cầu tranh chấp phải được giao cho trọng tài xét xử. - Tên và địa chỉ của các bên. - Liên hệ đến một điều khoản hay thoả thuận về tranh chấp. - Liên hệ tới điều ước, thoả thuận, ký kết hoặc các văn kiện pháp lý khác có liên quan đến tranh chấp phát sinh. - Bản chất chung của vụ việc và chỉ ra mức độ liên quan - Tìm kiếm sự hỗ trợ và biện pháp khắc phục. - Đề nghị số lượng trọng tài. Những quy định trên gần như được dẫn nguyên văn các nguyên tắc giải quyết tranh chấp của UNCITRAL, bởi các quy định này được thực hiện trong tranh chấp thương mại, hướng tới 15 thừa nhận giải quyết tranh chấp dựa trên điều khoản tranh chấp trong tương lai có trong hợp đồng thương mại. Trong trường hợp tranh chấp được đưa ra theo thoả thuận, đặc biệt liên quan đến các quốc gia, không bên nào được chỉ định là nguyên đơn hay bị đơn. 2.2 – Thành lập trọng tài - Các bên có thể thoả thuận đưa ra quy định thành lập toà án trọng tài. Theo như Công ước 1899 và 1907, các bên chỉ có thể lựa chọn trọng tài theo danh sách mà PCA đưa ra. Tuy nhiên, quy định này đã không còn từ rất lâu. - Cách thành lập một toà án trọng tài cơ bản được phản ánh trong Công ước 1899 và 1907 và nhiều nguyên tắc của PCA liên quan đến sự sắp xếp của mỗi bên. Trong số các trọng tài mà các bên chỉ định sẽ lựa chọn ra một trọng tài chủ trì. Các bên có thể thoả thuận số lượng trọng tài (trọng tài duy nhất, ba trọng tài). Thường chỉ trong trường hợp tranh chấp giữa các quốc gia thì toà sẽ có 5 trọng tài. - Nếu các bên không thể lựa chọn, toà sẽ có 3 trọng tài. Nếu thiếu sự đồng tình của trọng tài thứ 3 hoặc do một trong hai bên không thể chỉ định trọng tài, các bên sẽ cùng xác định thẩm quyền lựa chọn trọng tài hoặc theo như quy định của UNCITRIAL, thư ký thường trực của PCA sẽ thực hiện vấn đề này. - Nếu các bên đồng ý giải quyết tranh chấp của họ trước trọng tài duy nhất, họ có thể lựa chọn dựa trên thoả thuận chung, nếu thoả thuận thất bại, họ sẽ uỷ thác cho người có thẩm quyền. Theo các nguyên tắc của UNCITRIAL, thẩm quyền trong việc sắp xếp trọng 16 tài là việc sử dụng một “list procedure”, qua đó, các bên nhận được một danh sách chính có ít nhất tên của 3 người, và nhiệm vụ của họ là phải phản đối hoặc chấp nhận những ai trong danh sách đó. - Tuy nhiên, các bên có thể đưa ra một giải pháp khác trong việc lựa chọn các trọng tài. Các bên có thể quy định bất kỳ các trọng tài có chuyên môn đặc biệt trong lĩnh vực đang xảy ra tranh chấp và giới hạn quốc tịch của họ. Vấn đề quốc tịch đặc biệt quan trọng trong các trường hợp nhạy cảm về mặt chính trị, vì vậy, UNCITRIAL quy định, việc lựa chọn trọng tài phải được cân nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo cho sự độc lập, công bằng của trọng tài. Ví dụ, các quy định không bắt buộc trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường năm 2001 quy định thành lập hội đồng trọng tài có kinh nghiệm và chuyên môn về luật môi trường hoặc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên do các quốc gia hoặc Tổng thư ký bổ nhiệm, nhưng cũng không yêu cầu nhất thiết phải lựa chọn trọng tài từ hội đồng này. 2.3 – Phản đối trọng tài Theo quy định của PCA, một bên có thể phản đối một trọng tài nếu họ có nghi ngờ chính đáng về tính công bằng hay độc lập của trọng tài đó. Nếu bên kia cũng đồng tình với sự phản đối này, hoặc bản thân trọng tài đó tự rút khỏi vụ việc thì một trọng tài mới sẽ được chỉ định theo cách mà trọng tài trước đó đã được chỉ định. Mặt khác, phản đối sẽ được quyết định một lần nữa bởi người có 17 thẩm quyền trong hội đồng trọng tài, cũng như sự chấp thuận lẫn nhau giữa các bên hoặc sự chấp nhận của Tồng thư ký PCA. 2.4 – Các biện pháp tạm thời Theo quy định của PCA, Toà có thể yêu cầu một bên áp dụng những biện pháp tạm thời cần thiết cho việc bảo đảm quyền lợi riêng của từng bên hoặc những vấn đề chính trong tranh chấp thông qua việc đưa ra các tuyên bố tạm thời. Hầu hết, các nguyên tắc của PCA đều quy định rằng, các bên đều có thể hạn chế quyền này của toà bằng những thoả thuận chung. Trong các tranh chấp thương mại, các biện pháp tạm thời có thể bao gồm việc gửi hàng hoá nhờ một bên thứ 3 hoặc bán các loại hàng hoá có thể bị hư hại. Ví dụ, trong các quy phạm về Tài nguyên thiên nhiên và môi trường có quy định toà được phép đưa ra bất cứ yêu cầu nào về việc áp dụng “các biện pháp tạm thời để đảm bảo quyền lợi của mỗi bên và ngăn ngừa sự nguy hại nghiêm trọng đến môi trường nằm trong các vấn đề chính của vụ tranh chấp.” Trong mọi trường hợp, toà có thể yêu cầu các bên phải đảm bảo đầy đủ chi phí liên quan tới việc thực hiện các biện pháp tạm thời đó. Bởi toà án trọng tài thường gặp nhiều khó khăn trong việc ép buộc áp dụng các biện pháp tạm thời, tất cả các quy tắc giải quyết tranh chấp của PCA đều dựa vào các quy tắc giải quyết của UNCITRIAL: việc yêu cầu biện pháp tạm thời của bất cứ bên nào 18 tới người có thẩm quyền xét xử sẽ không được xem là không hợp với thoả thuận xét xử hoặc sự từ bỏ thoả thuận đó. 2.5 – Preliminary Objections Các quy tắc của PCA có quy định thủ tục ban đầu về việc xác lập thẩm quyền xét xử. Những viện lẽ cho việc thiếu thẩm quyền xét xử của toà phải được đưa ra trước khi quá trình biện hộ hoặc được đề cập trong sự phản hồi đối với tuyên bố phản đối. 2.6 – Nơi tiến hành xét xử Việc xét sử sẽ diễn ra tại Hague, Hà Lan nếu các bên không có thoả thuận khác. Tuy nhiên, vẫn có sự linh hoạt đáng kể cho các bên và toà trọng tài trong việc quyết định cụ thể nơi xét xử cho các phiên điều trần, phiên gặp gỡ, tranh cãi. Như đã được nhắc tới ở trên, trong các vụ việc cụ thể, nơi xét xử có thể ảnh hưởng tới luật thủ tục áp dụng. 2.7 – Tranh tụng viết (written pleadings) Nguyên đơn sẽ phải trình đơn kiện và sau đó thì bị đơn đưa ra ý kiến phản bác. Đơn kiện phải bao gồm những thông tin sau: a. Tên và địa chỉ của các bên b. Trình bày sự việc 19 c. Các vấn đề đang tranh cãi d. Hỗ trợ và biện pháp khắc phục Kèm theo đơn kiện là những văn kiện có liên quan, bao gồm cả việc chấp thuận thẩm quyền xét xử của toà. Ý kiến phản bác của bị đơn phải bao gồm các mục b, c, d như trong đơn kiện của nguyên đơn, kèm theo các văn kiện, chứng cớ có liên quan mà bị đơn có ý định đưa ra. Đơn phản bác cũng có thể có một “counter – claim” phát sinh từ một điều ước, thoả thuận, ký kết hoặc các văn kiện pháp lý tương tự hoặc một tuyên bố phản kiện. Cả hai đều phải thoả mãn những yêu cầu thủ tục của một tuyên bố phản bác bình thường. Các bên có thể sửa đổi, bổ sung văn bản đệ trình bất cứ lúc nào trừ khi toà thấy việc sửa đổi, bổ sung là không thích đáng và làm chậm trễ sự trình bày của các bên, gây thiệt hại cho các bên. Không có trường hợp việc sửa đổi, bổ sung vượt quá thẩm quyền xét xử của toà. Toà có thẩm quyền quyết định có nên bổ sung thêm một văn bản đệ trình nào không. Mặc dù PCA có quy định thời hạn của việc trình lên các văn bản tranh tụng, nhưng trong vấn đề này, toà thường họp các bên lại, tham khảo ý kiến để đưa ra quyết định. Điều này không được quy định trong luật nhưng trong thực tế vẫn thường được áp dụng. Nếu tranh tụng viết có quá nhiều phần, các bên thường hỏi ý kiến toà và xin đăng ký quyết định có đưa trực tiếp các pleadings cho nhau và các thành viên của toà hay không. 2.8 - Thẩm vấn trước toà (phiên điều trần) 20 Các bên được phép yêu cầu một phiên thẩm vấn trước toà. Trong trường hợp không có yêu cầu nào, toà sẽ quyết định có tổ chức thẩm vấn hay không hay là chỉ xét xử đơn độc hoặc hướng dẫn thủ tục dựa trên các văn bản đệ trình, các tài liệu và văn kiện liên quan. Tuy nhiên, trên thực tiễn, hiếm khi nào các bên hoặc toà bỏ qua phần “hearings”. Những chi tiết cụ thể về thủ tục trong phiên điều trần thường được các bên, toà án trọng tài đưa ra tỉ mỉ trong cuộc họp trước phiên điều trần. Toà có thể linh hoạt điều khiển các thủ tục đó. Điều 15: “provided that the parties are treated with equality and that at any stage of the proceedings each party is given a full opportunity of presenting its case.” Luật cũng quy định về việc trình bày của các nhân chứng và các chuyên gia. Nếu một bên có nhân chứng, thì họ phải báo cho toà và bên kia ít nhất là sớm trước 30 ngày về tên tuổi và địa chỉ của nhân chứng cũng như vấn đề mà họ làm chứng. 2.9 – Language of the Proceedings Có thể được các bên thoả thuận. Nếu không có thoả thuận nào, toà sẽ tự quyết định. 2.10. Sự can thiệp của bên thứ ba 21 Mặc dù, trong thủ tục xét xử của PCA không có quy định về sự can thiệp của bên thứ ba, tuy nhiện, nếu tranh chấp xảy ra giữa hai bên trở lên, các bên có thoả thuận, tranh chấp sẽ được giải quyết tại PCA. 3 – PHÁN QUYẾT CỦA TOÀ 3.1 – Phán quyết Phán quyết cuối cùng của toà được thông qua bởi đa số thành viên trong hội đồng trọng tài, được thể hiện trên văn bản, phải bao gồm lý do của phán quyết trừ khi các bên không có yêu cầu. Trong khi các Công ước 1899, 1907 đều quy định rằng, phán quyết phải công khai thì PCA lại yêu cầu các bên phải có thoả thuận về vấn đề các lý do có cần phải công khai hay không. Phán quyết là cuối cùng và ràng buộc các bên, các bên phải thi hành mà không có sự trì hoãn nào. Nếu các bên đã đạt được một thoả thuận nào đó trước khi toà kết thúc xét xử thì họ có thể yêu cầu toà ghi lại thoả thuận đó dưới dạng quyết định về những điều kiện đã thoả thuận. 3.2 - Giải thích và sửa đổi Sau khi phán quyết được đưa ra, các bên có thể yêu cầu toà giải thích phán quyết hoặc sửa các lỗi trong tính toán, biên chép, lỗi in hoặc yêu cầu một phán quyết bổ sung được đưa ra trong quá trình xét xử nhưng đã bị bỏ sót trong phán quyết. Toà cũng có quyền chủ động sửa lại các lỗi trong phán quyết trong vòng 30 ngày kể từ ngày đưa ra phán quyết. 22 3.3 - Kháng án Phán quyết là cuối cùng và có tính ràng buộc, vì vậy các bên không có quyền kháng án. 3.4 - Thi hành phán quyết Các bên phải đảm bảo thi hành phán quyết mà không có sự trì hoãn nào. Các phán quyết trong các vụ liên quan đến các bên tư nhân cũng được thi hành giống như các phán quyết giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Trong một chừng mực nào đó, luật giải quyết tranh chấp tại nơi xảy ra tranh chấp có quy định rằng, phán quyết phải được trình lên hoặc được đăng ký, các quy phạm có liên quan quy định rằng toà án phải có trách nhiệm trong vấn đề này. Việc từ bỏ quyền miễn trừ xét xử bởi các quốc gia và các tổ chức phi chính phủ đạt được từ một thoả thuận giải quyết bằng trọng tài theo quy chế của PCA không dẫn tới việc từ bỏ sự miễn trừ thi hành. B. Những case cụ thể B1. Eritrea/Yemen I) Giới thiệu chung Vụ Eritrea/Yemen là một trong số những vụ có tính chất quan trọng nhất trong lịch sử trọng tài thế giới. Tòa trọng tài gồm 5 thẩm phán trong vụ việc này đã đưa ra hai phán quyết trong hai giai đoạn: 23 Một là, phán quyết về “Chủ quyền lãnh thổ và phạm vi của tranh chấp” đưa ra ngày 9/10/1998. Hai là, phán quyết về “Phân định biên giới biển” đưa ra ngày 17/12/1999. II) Xác lập tòa trọng tài Dựa trên thỏa thuận trọng tài giữa chính phủ Eritrea và chính phủ Cộng hòa Yemen vào ngày 3/10/1996, thỏa thuận này là sự tiếp nối của thỏa thuận về những nguyên tắc chung giữa Eritrea/Yemen tại Paris ngày 21/5/1996. III) Thủ tục xét xử Eritrea và Yemen, hai bên cam kết không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và đường biên giới biển; đã quyết định thông qua thoả thuận trọng tài và thành lập Toà trọng tài. Toà mở phiên họp đầu tiên vào ngày 14 tháng 1 năm 1997 tại Luân đôn, Anh. [Phần 5, Phán quyết ] Bốn trọng tài viên của Toà trọng tài bàn bạc, trao đổi, phê chuẩn, thông qua các hoạt động được uỷ quyền. Theo điều 7.2 Thoả thuận trọng tài, Toà chỉ định Tổng thư ký Mr Jonkman của Toà trọng tài Thường trực (PCA) tại Hague và Thư ký thứ nhất của PCA, Ms Bette E. Shifman lần lượt là người 24 lưu trữ hồ sơ và thư ký của Toà. Địa điểm đăng ký hồ sơ của Tòa là tại Ban Quốc tế của PCA. [Phần 6, Phán quyết ] Toà thông báo với hai đại diện của Eritrea và Yemen về việc thành lập Toà và thảo luận một vài vấn đề thực tế liên quan đến quá trình tố tụng trọng tài. [Phần 7, Phán quyết] Điều 2 Thoả thuận trọng tài quy định: 1. Quyết định của Toà trọng tài phải phù hợp với những điều khoản của Luật quốc tế, theo 2 giai đoạn. 2. Giai đoạn 1, Toà sẽ đưa ra phán quyết về chủ quyền lãnh thổ và định nghĩa về phạm vi tranh chấp giữa Eritrea và Yemen. Toà sẽ quyết định chủ quyền lãnh thổ phù hợp với những nguyên tắc, quy định và thực tiễn luật quốc tế áp dụng trong vụ việc này; cụ thể trên cơ sở các danh nghĩa lịch sử. Toà sẽ quyết định về định nghĩa phạm vi tranh chấp trên cơ sở quan điểm của 2 bên. 3. Giai đoạn 2, Toà sẽ đưa ra phán quyết về phân định đường biên giới biển. Toà sẽ quyết định cân nhắc quan điểm của mình về các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, Công ước Luật biển của Liên Hợp quốc và những nhân tố phù hợp khác. [Phần 8, Phán quyết ] Các bên cùng nộp Bản tranh tụng liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và phạm vi tranh chấp vào ngày 1 tháng 9 năm 1997 và Bản phản biện vào ngày 1 tháng 12 năm 1997. Phiên tranh tụng giai đoạn 1 sẽ diễn ra tại Luân đôn từ ngày 26 tháng 1 đến ngày 06 tháng 2 năm 1998. Theo bốc thăm, Eritrea sẽ trình bày trước. [ Phần 9, Phán quyết ] Vào cuối phiên họp ngày 6 tháng 02 năm 1998, theo điều 8.3 của Thoả thuận trọng tài, Toà kết thúc phần tranh tụng trong giai đoạn 1 của quá trình tố tụng trọng tài giữa 25 Eritrea và Yemen. Tuy nhiên, vào cuối phiên tranh tụng, toà yêu cầu 2 bên phải nộp văn bản trả lời những câu hỏi của Toà trước ngày 23 tháng 02 năm 1998, trong đó bao gồm câu hỏi liên quan đến sự tồn tại của các thỏa thuận về thăm dò và khai thác dầu mỏ. Cũng theo điều 8.3, Toà có quyền yêu cầu các bên thể hiện quan điểm của mình bằng văn bản để làm sáng tỏ bất kỳ khía cạnh nào của các vấn đề trước Toà. [Phần 10, 11 Phán quyết ] Theo thoả thuận của 2 bên, Yemen sẽ trình bày lập luận trước liên quan đến nhượng quyền thăm dò và khai thác dầu mỏ liên đới tới phán quyết về chủ quyền lãnh thổ trong các phiên tranh tụng . + Toà đặt ra một loạt câu hỏi về việc giải thích bằng chứng nhượng quyền và yêu cầu 2 bên trả lời bằng văn bản trong vòng 7 ngày kể từ khi kết thúc phiên tranh tụng. Và như vậy, theo quy định, 2 bên phải nộp văn bản trả lời vào ngày 17 tháng 7 năm 1998. Nhưng trên thực tế, Eritrea đã nộp muộn vì có bản phụ lục đi kèm. Ban Quốc tế của PCA đã nhận được bản phụ lục vào ngày 22 tháng 7 năm 1998; còn Yemen nộp văn bản muộn hơn nữa: ngày 30 tháng 7 năm 1998. Eritrea phản đối việc nộp hồ sơ muộn này của Yemen. [Phần 12, Phán quyết ] Trong quá trình tranh tụng bổ sung vào tháng 11 năm 1998, Toà thông báo cho các bên ý định liên hệ với Tổng thư ký Liên đoàn Ả Rập để đảm bảo cho sự tồn tại và muốn lấy bản copy của bất kỳ báo cáo chính thức nào của Liên đoàn về các chuyến viếng thăm đến một vài hòn đảo đang bị tranh chấp, đặc biệt vào những năm 70. + Ngày 20 tháng 7, Toà gửi fax đến Tổng thư ký Liên đoàn Ả Rập. 26 + Ngày 28 tháng 7, Văn bản trả lời của Tổng thư ký đã được chuyển tới các đồng đại diện của 2 nước và các thành viên của Toà. I IV) Cơ cấu của hội đồng xét xử Theo điều 1 của thỏa thuận trọng tài, Eritrea đã chỉ định hai trọng tài viên là thành viên là chủ tịch và thẩm phán của ICJ là ngài Stephen M.Schwebel và Rosalyn Higgins, phía Yemen chỉ định hai luật sư đó là ngài Keith Highet và tiến sĩ Ahmed Sadek El- Kosheri. Ngày 14/1/1997 bốn trọng tài viên đã đề cử cựu chủ tịch của ICJ Sir Robert Y.Jennings là chủ tịch của tòa trọng tài. Ngài tổng thư kí của tòa PCA (Permanent Court of Arbitration) Hans Jonkman được đề cử là người lưu trữ các tài liệu và thư kí tòa là cô Bette Shifman. London được chọn là nơi diễn ra quá trình xét xử của tòa trọng tài. V) Yêu cầu của các bên Theo quy định của điều 2 thỏa thuận trọng tài, Eritrea và Yemen yêu cầu tòa phân định tranh chấp theo hai giai đoạn. Giai đoạn 1, tòa được yêu cầu quyết định xem những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ trên cơ sở những chủ quyền có tính chất lịch sử theo những quy định, thủ tục và thực tiễn luật pháp quốc tế có thể được áp 27 dụng cho vụ việc đồng thời xác định phạm vi của tranh chấp trên cơ sở quan điểm rõ ràng của các bên. VI) Phán quyết về vụ Eritrea/Yemen giai đoạn 1: Bản phán quyết này được nhiều chuyên gia đánh giá là một “kiệt tác” về luật với 157 trang chia thành 528 đoạn được phân bổ trong 11 chương. Chương I: Việc tổ chức toà trọng tài và lập luận của các bên Mở đầu 1. Phán quyết này được đưa ra theo thỏa thuận về việc thành lập tòa trọng tài ngày 3 tháng 10 năm 1996 giữa chính phủ Eritrea và chính phủ Yemen. 2. Eritrea và Yemen đã kí trước đó thỏa thuận về các nguyên tắc chung tại Paris ngày 21 tháng 5 năm 1996, có chính phủ CH Pháp, Ethiopia và CH Arab Ai Cập. Các bên đã tuyên bố sẽ nhờ vậy vào luật pháp để bảo đảm với nhau việc hòa giải các tranh chấp về các vấn đề chủ quyền lãnh thổ và việc giới hạn biên giới trên biển một cách hòa bình. Các bên đã đồng ý thiết lập một thỏa thuận về việc thành lập một tòa trọng tài. Thỏa thuận về các nguyên tắc chung còn quy định rằng: 1) Tòa trọng tài được yêu cầu đưa ra những quyết định phù hợp với luật quốc tế theo hai giai đoạn. 28 2) Giai đoạn đầu tiên sẽ đi đến một quyết định về chủ quyền lãnh thổ và về việc xác định phạm vi tranh chấp giữa Eritrea và Yemen. Tòa phải quyết định chủ quyền lãnh thổ theo các nguyên tắc, luật định và thực tiễn của luật quốc tế có thể được áp dụng với vấn đề đó và đặc biệt là trên cơ sở những văn tự có giá trị lịch sử (historic titles). Tòa phải quyết định về việc xác định phạm vi của tranh chấp trên cơ sở quan điểm tương ứng của mỗi bên (on the basis of the respective positions of the two Parties). 3) Giai đoạn thứ hai phải đi đến một quyết định về giới hạn biên giới trên biển. Tòa phải quyết định tính đến ý kiến 8) Theo bảng thời gian đã quy định trong thỏa thuận trọng tàu cho những giai đoạn khác nhau của xét xử, các bên trình bản kiến nghị liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và phạm vi tranh chấp đồng thời vào ngày 1/9/1997 và bản phản-kiến nghị vào 1/12/1997. Theo quy định trong điều 7.1 thỏa thuận trọng tài, tòa trọng tài đặt tại London. Lập luận của các bên về chủ quyền lãnh thổ 13) Eritrea dựa trên những tuyên bố của họ về chủ quyền lãnh thổ đối với những hòn đảo trên biển Đỏ theo một loạt những tuyên bố trải dài hơn 100 năm và những nguyên tắc về chiếm giữ hữu hiệu (effective occupation) của luật quốc tế. Eritrea quả quyết rằng quốc gia này kế thừa quyền sở hữu những hòn đảo này vào năm 1993 khi mà Eritrea tuyên bố độc lập hợp pháp từ Ethiopia. Ethiopia về phần mình đã thừa kế quyền sở hữu của chính nó từ 29 Italy, mặc cho một giai đoạn bị quân Anh chiếm đóng Eritrea trong toàn bộ CTTG II. Quyền sở hữu của Italy được tuyên bố 15) Eritrea quả quyết rằng, không tranh chấp chủ quyền của đế chế Ottaman, Italy cũng đã duy trì một sự có mặt tích cực (active presence) ở những hòn đảo trên biển Đỏ khác vào thời gian đó. Những con tàu lớn của Italy đã tuần tiễu ở những vùng nước xung quanh khu vực đó để truy quét hải tặc, bọn buôn bán nô lệ và những nhóm phiến loạn và quyền quản lý thuộc địa có vẻ đã gây ra sự nhượng bộ cho việc khai thác thương mại. Theo Eritrea, lúc đó không có một tuyên bố hoặc sự hiện diện nào của Yemen trên và xung quanh những đảo đó trong suốt thời gian đã nêu. Iman Yahya, người đã thành lập nhà nước Yemen hiện đại đã chiếm cứ một vùng cao nguyên có tên là Gebel và theo Eritrea, Iman Yahya đã công khai thừa nhận những vùng đất thấp duyên hải có tên là Tiham không phải thuộc chủ quyền của ông ta. Việc dàn xếp về đất đai đã được xác nhận thông qua “Hiệp ước Da’an” vào năm 1911, một biên bản hiểu biết giữa Đức vua và Đế chế Ottaman. 16) Eitrea quả quyết rằng sự suy yếu của Đế chế Ottoman trong nhiều năm bởi CTTG I đã khiến cho Italy lên kế hoạch xâm chiếm một tập hợp các đảo có tên gọi là “Zuqar-Hanish”. Những mưu đồ này đã không trở thành hiện thực bởi việc chiếm đóng của quân đội Anh namư 1915 17) Vấn đề về chủ quyền đối với những hòn đảo được hình thành trong thời kì hậu CTTG I đã lên đến cực điểm khi Hiệp ước Lausanne được kí kết vào năm 1923. Trong khi các vùng đất cũ của Đế chế Ottoman bại trận được chia đều cho những kẻ thống trị bản địa đã có công ủng hộ Đồng Minh, Eritrea cho rằng không một nhà cầm quyền nào ở bán đảo Arab đã ủng hộ Đồng Minh có 30 sự gần gũi thích hợp về mặt địa lý đối với những hòn đảo này để được xem xét như những người nhận đất hợp pháp. 18) Eritrea chỉ ra rằng sự thất bại của Anh trong việc thuyết phục những nước Đồng Minh còn lại để chuyển giao những hòn đảo này cho những kẻ thống trị Arab được nước Anh lựa chọn hoặc cho chính bản thân quôc gia này thông qua hiệp ước Sèvres chưa được phê chuẩn năm 1920 và những cuộc đàm phán đã dẫn đến việc kí kết Hiệp ước Lausanne vào năm 1923. Eritrea tin rằng điều 6 và 16 Hiệp ước Lausanne đã mở đường cho việc Italy chiếm đóng những hòn đảo này. Điều 6 đã thiết lập một quy tắc chung rằng trong những điều khoản của Hiệp ước, “những đảo lớn và đỏa nhỏ nằm trong phạm vi 3 dặm tính từ bờ biển là thuộc chủ quyền của quốc gia duyên hải”. Eritrea giải thích điều khoản này 19) Điều 16 của Hiệp ước Lausanne chứa đựng một sự từ chối rõ ràng của Thổ Nhĩ Kì về mọi quyền lợi và sở hữu đối với những vùng đất đai và đảo của Đế chế Ottoman cũ và đã quy định rằng tương lai của những lãnh thổ đó sẽ được dàn xếp bởi các bên có liên quan. Eritrea lập luận rằng bởi vì điều 16 không hề chuyển những hòn đảo này cho bất cứ một nhà nước đặc biệt nào và không chỉ rõ bất cứ một thủ tục nào để chuyển nhượng quyền sở hữu đối với những hòn đảo này, việc này hoàn toàn thuộc về những tiêu chuẩn chung của luật quốc tế về chiếm hữu lãnh thổ bao gồm chinh phục, chiếm hữu hữu hiệu và sự định vị trong lãnh hải. 22) Hiệp định giữa Anh và Italy năm 1938 cũng chứa đựng một cam kết rõ ràng về cả hai phía với sự tôn trọng những hòn đảo trên biển Đỏ của Đế chế Ottoman rằng không được phép thiết lập chủ quyền và có những hành động mạnh mẽ hoặc tự vệ. Trong quan 31 điểm của Eritrea, điều này không phải đã cấu thành một sự từ bỏ (relinquishment) của những quyền đang tồn tại mà đơn giản đó chỉ là một thỏa ước về cách cư xử trong tương lai. Eritrea còn chứng minh vào thời điểm thỏa thuận Anh-Italy được kí kết, chủ quyền của Italy đã được thiết lập thông qua những sắc lệnh số 1446 vào tháng 12 năm 1938 23) Eritrea cho rằng việc quân Anh chiếm đóng nước này trong thời gian đầu của CTTG II là hoàn toàn phù hợp với luật chiếm đóng trong quá trình xung đột. Mọi biên giới lãnh thổ của Eritrea, bao gồm các hòn đảo là không đổi và quyền sở hữu của chúng đơn giản là chuyển giao cho Ethiopia khi hai thực thể sáp nhập thành nhà nước liên bang. 24) Eritrea còn cho rằng Hiến pháp 1952 của mình đã xác nhận các hòn đảo đó là thuộc về lãnh thổ của Eritrea. Hơn nữa, người viết câu “Eritrea bao gồm các hòn đảo” là một cố vấn pháp lý của Ethiopia, ông John Spencer. 25) Một căn cứ pháp lý khác mà Eritrea căn cứ vào đó là luật tập quán quốc tế. Rằng tất cả các hòn đảo đều nằm trong lãnh hải của Eritrea. Các hòn đảo này đều nằm trong lãnh hải 12 hải lý của Eritrea và đương nhiên thuộc về chủ quyền lãnh thổ của nước này. 26) Trong vòng 35 năm từ 1953 cho đến khi Eritrea tuyên bố độc lập vào năm 1991, nước này cho rằng mình đã có những hành động thể hiện chủ quyền đối với những hòn đảo này. Bao gồm rất nhiều tàu tuần tiễu trên vùng biển này tăng một cách liên tục có hệ thống mà không hề gặp một cản trở nào, thêm vào đó vào năm 1967, căn cứ theo việc chuyển giao quyền quản lý những hải đăng cho Asmara bởi Ban thương mại Anh, Ethiopia đã tiến một bước dài trong việc củng cố chủ quyền của mình lên các đảo này 32 27) Eritrea cho rằng trong suốt những năm 1970 cả hai nước Yemen và những đồng minh trong khu vực đều thừa nhận sự kiểm soát ccủa Ethopia đối với những hòn đảo bằng những tuyên bố và hành động. Nước này viện dẫn rằng, mãi đến những năm 70 của thế kỉ XX, Bắc Yemen và Nam Yemen mới có những thể hiện về quyền lợi của hai nước này đối với những hòn đảo Để chứng minh cho những quan điểm của mình, Eritrea đưa ra lập luận rằng những quốc gia arab này không cáo buộc Ethiopia “dâng” những hòn đảo này cho Israel nhưng đã cho phép Ethiopia xem xét những hòn đảo để thanh tra những hoạt động quân sự của Israeli. 28) Eritrea nhận định rằng trong những năm cuối trong giai đoạn 1970 trước khi Eritrea tuyên bố độc lập, đã có những cuộc thanh sát bằng đường không và đường thủy bởi quân đội Ethiopia một cách rõ ràng. 29) Eritrea cho rằng mãi đến tháng 12/1995, nước này mới nhận thấy sự “hiện diện chính thức” của một số ít hải quân của Yemen và điều này đã làm nổ ra xung đột giữa hai quốc gia và kết quả cuối cùng là mỗi quốc gia chiếm một trong những đảo chính ở vùng biển này. Điều này chứng tỏ bất chấp những hoạt động có tính truyền thống và lâu đời của những ngư dân Eritrea cũng như lực lượng chức năng của nước này nhằm duy trì an ninh và sự ổn định cho vùng biển có những hòn đảo thì Yemen vẫn có chủ quyền thông qua chiến tranh 31) Về phần mình, Yemen chủ yếu dựa trên những lập luận về những tuyên bố có tính chất lịch sử, truyền thống và riêng biệt của mình. Yemen viện dẫn điều 2(2) của thỏa thuận trọng tài trong đó nhấn mạnh tính quan trọng của những “tuyên bố có tính chất lịch sử” (historic titles) từ thế kỉ thứ VI trước công nguyên căn cứ vào 33 những chứng cứ về hải đồ, tuyên bố của vua Iman xứ Yemen và “thái độ của những quốc gia thứ ba trong suốt một thời gian dài.” 32) Yemen cho rằng bất chấp những lần sáp nhập của nước này vào đế chế Ottoman, bao gồm hai lần vào giai đoạn 1538 circa 1635, và 1872 đến 1918 không hề làm mất đi những chủ quyền lịch sử của nước này đối với những hòn đảo. Yemen quả quyết rằng việc đế chế Ottoman thành lập một tỉnh (vilayet) Yemen đồng nghĩa với việc Ottoman thừa nhận tính chất riêng biệt của Yemen như một đơn vị hành chính và lãnh thổ đơn lẻ, không dính líu tới đế chế này. Lập luận này có cơ sở khoa học là những văn của thế kỉ 17, 18, 19 và một số bản đồ. 33) Để tăng thêm tính thuyết phục cho những khẳng định của mình, Yemen còn dẫn ra việc vua Imam đã bị Anh quốc từ chối lời đề nghị bổ sung một phần phụ lục bí mật liên quan đến những hòn đảo này trong hiệp định với Anh quốc năm 1934. Và yêu cầu rằng vấn đề liên quan đến những hòn đảo này sẽ được giải quyết theo điều 16 của hiệp ước Lausanne. 34) Yemen cho rằng điều đó không cấu thành sự từ chối chủ quyền mang tính truyền thống của mình bởi những tài liệu nêu trên trong giai đoạn 1933 đến 1937 của nhà cầm quyền Anh quốc chỉ là một sự miễn cưỡng không thừa nhận chủ quyền của Yemen. Yemen còn cho rằng hiệp ước Lausanne không có ảnh hưởng đến chủ quyền của mình đối với những hòn đảo bởi vì Yemen không phải là một thành viên của hiệp wocs này và sự từ bỏ quyền của Thổ Nhĩ Kì không thể làm thay đổi lợi ích của những quôc gia thứ 3. Yemen cho rằng những quy định trong điều 16 hiệp ước Lausanne không làm cho những hòn đảo terra nullius, và chủ quyền đối với những hòn đảo này là chưa rõ ràng. Hơn nữa, điều 34 16 của hiệp ước đã ngừng tác động đến các quốc gia có liên quan bởi vì những lý do chủ quan của các bên và các nước thứ 3. 35) Một nguyên tắc ủng hộ tuyên bố về chủ quyền duy nhất của Yemen đối với những hòn đảo là “nguyên tắc về đơn vị tự nhiên và địa lý”. Yemen lập luận rằng đây là một hệ luận (corollary) của quan điểm về chủ quyền truyền thống. Căn cứ khoa học của Yemen về lập luận này đó là tài liệu về “Biển Đỏ và vịnh của Aden Pilot” đưa ra bởi Cục thủy văn học Anh quốc và bách khoa thư Britannica. 37) Chủ yếu nói về những chủ quyền lịch sử căn cứ trên những hoạt động liên quan đến những ngư dân và hoạt động của họ 38) Yemen cho rằng những hòn đảo này có những ngôi mộ của những nhà tu hành và nhiều nơi thờ cúng linh thiêng khác của người Yemen. Và những ngư dân Yemen ở đây còn hình thành phong tục là để lương thực vào mộ những người đã mất. 39) Thêm vào đó, Yemen cũng chỉ rõ ra rằng thẩm quyền về những hệ thống giải quyết những tranh chấp có tính truyền thống giữa những ngư dân bằng cách “ride the circuit” dọc theo những bờ biển và giữa hòn đảo này, để đảm bảo việc tiếp cận pháp lý đối với những những ngư dân không thể ra khơi. 40) Yemen nhấn mạnh mối liên hệ kinh tế giữa những hòn đảo này và ngư dân của Yemen, những người sống phụ thuộc vào vùng nước này, họ chỉ bán cá cho Yemen nội địa. Yemen đối sánh tình hình này với những ngư đân Eritrea và cho rằng bởi vì những khó khăn trong việc vận chuyển cá tươi về Eritrea nội địa (bao gồm thủ đô Asmara) nên Eritrea không có truyền thống ăn thủy sản. Theo Yemen, những ngư dân Eritrea vì lợi ích của mình đã tìm kiếm 35 một thị trường tốt hơn, và đó chính là những khu vực dọc theo bờ biển của Yemen. Yemen tin rằng qua nhiều thế kỉ, việc sử dụng những hòn đảo trong suốt một thời gian dài và gần như là riêng biệt (the long-standing, intensive and virtually exclusive use of the Islands) của những ngư dân Yemeni không hề gặp bất cứ một sự can thiệp nào từ những quốc gia khác. Chương VII: Những chứng cứ về việc triển khai chức năng của quốc gia và thẩm quyền của nhà nước 239) Đối với luật quốc tế hiện đại về quyền chiếm hữu (or attribution) lãnh thổ đòi hỏi những tiêu chuẩn sau: một sự thể hiện rõ ràng có chủ đích về sức mạnh và quyền hạn đối với những vùng đất này, bằng sự thể hiện về thẩm quyền và chức năng của quốc gia theo nguyên tắc liên tục và hòa bình. 243, 244) Không có bất cứ văn bản pháp lý nào chứng minh một cách rõ ràng rằng những hòn đảo là thuộc về chủ quyền của hai quốc gia, kể cả hiến pháp, sắc lệnh, những quy định về hàng hải Văn bản có tính pháp lý thuyết phục nhất đó là năm 1971 nêu ra bởi Eritrea chứng minh rằng “những hòn đảo nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Ethiopia”. Mặc dù đã xác định hai đảo Greater Hanish và jabal Zuqar là nằm trong “vùng” được nêu ra, và năm 1987, Bộ phòng vệ quốc gia cũng nhắc lại những hòn đảo này nhưng vẫn không nêu rõ, chỉ đích danh những đảo đó. Chương X: Kết luận 36 441) Đối với vấn đề “chủ quyền truyền thống”, tòa phán quyết rằng nếu đế chế Ottoman từ chối hoàn toàn quyền sở hữu đối với những hòn đảo theo hiệp ước Lausanne 1923 khi thất trận ở giai đoạn cuối CTTG I thì quyền này nghiễm nhiên “trở về” với Yemen. 442) Theo học thuyết uti possidetis, thì đế chế Ottoman, mà cụ thể là giai đoạn thứ hai của đế chế này trong giai đoạn 1872-1918, thực tế chỉ có quyền sở hữu chứ không thật sự sở hữu những hòn đảo này như vốn có của nó. 445) Hiệp ước Lausanne không quy định một cách rõ ràng, như hiệp ước Sèvres đã làm, rằng Thổ Nhĩ Kì từ bỏ chủ quyền lãnh thổ phục vụ lợi ích của phe Hiệp ước; theo kiểu loại trừ toàn bộ những khả năng thực hiện một học thuyết về trao trả quyền (a doctrine of reversion). Yemen không phải là một thành viên của hiệp ước Lausanne, đó là RES INTER ALIOS ACT. 456) Hơn nữa, cần phải nhớ lại rằng, cả Eritrea và Yemen không có nhiều cơ hội để chứng minh tham vọng của mình một cách thoải mái và tích cực về chủ quyền hoặc những hoạt động có tính chất nhà nước đối với những hòn đảo cho đến sau năm 1967, khi mà Anh quốc rời khỏi khu vực này; bởi vì Anh quốc luôn ý thức được việc phải canh chừng, duy trì vị trí của mình theo như quy định trong hiệp ước Lausanne rằng quan điểm pháp lý đối với những hòn đảo là chưa rõ ràng và xác định. 458) Có một lập luận cho rằng, căn cứ trên vị trí địa lý của những hòn đảo, đảo nhỏ và đảo đá đang tranh chấp đã hình thành nên một quần đảo có phạm vi vượt quá những vùng biển gần giữa bờ biển giữa hai quốc gia. Từ đó, có thể suy luận ra rằng, những đảo nào nằm ngoài cụm đảo này đương nhiên thuộc về quốc gia có đường 37 bờ biển gần nhất đối với đảo đó trừ khi quốc gia kia có khả năng chứng minh một cách rõ ràng hơn chủ quyền của nó đối với hòn đảo đó. 460) Cáo trạng của Yemen nhấn mạnh đến cái gọi là “nguyên tắc về sự thống nhất tự nhiên và địa lí” khi nói về những đảo trong cụm Hanish 461) Nguyên tắc này được miêu tả cẩn thận trong chương 5 bản kiến nghị của Yemen khi nước này đã viện dẫn một số tác gia nổi tiếng như Fiztmaurice, Waldock và Charles de Visscher. Tòa cho rằng một số quan điểm của các tác gia này là không cần tranh cãi nhưng đó không phải là những nguyên tắc tuyệt đối bởi vì các tác gia chủ yếu nói căn cứ trên những suy luận của chính họ. Mặc dù, Fiztmaurice đã giải quyết tương đối rõ rằng việc tuyên bố chủ quyền đối với một bộ phận lãnh thổ và được suy luận mở rộng đối với những lãnh thổ bên ngoài mà ở đó không hề có rất ít hoặc không hề có một sự tác động nào của Yemen. Tòa không phản đối những ý kiến của Fiztmaurice nhưng những đó vẫn chỉ là một nguyên tắc về sự thống nhất đơn giản. 463) Thuyết này được tòa nhìn nhận là con dao hai lưỡi khi mà nó gặp phải vấn đề đối với những hòn đảo được suy ra từ đảo gốc có thể nằm trong VII) Một vài nhận định Hai bản phán quyết trong vụ Eritrea/Yemen là một minh chứng rõ ràng cho vai trò giải quyết các tranh chấp của một tòa quốc tế trên 38 cơ sở luật, bao gồm công ước về luật biển của LHQ năm 1982 như là sự pháp điển hóa luật tập quán quốc tế. Phán quyết về “Chủ quyền lãnh thổ và phạm vi của tranh chấp” trong vụ này là một cột mốc đánh dấu sự phát triển của những nguyên tắc và thủ tục của luật pháp quốc tế điều chỉnh vấn đề chiếm hữu chủ quyền lãnh thổ. Học thuyết nổi tiếng về những chứng cứ về việc chiếm hữu xác thực và có hiệu lực được ghi trong phán quyết này đã được phát
File đính kèm:
- tieu_luan_nhung_van_de_chung_ve_pca.pdf