Tiểu luận Những vấn đề chung về PCA

pdf 48 trang yenvu 03/11/2024 40
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Những vấn đề chung về PCA", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Những vấn đề chung về PCA

Tiểu luận Những vấn đề chung về PCA
 1
TIỂU LUẬN 
Những vấn đề chung về PCA 
 2
I. GIỚI THIỆU CHUNG 
1. Lịch sử 
- Hội nghị hoà bình thế giới lần thứ nhất tổ chức tại Hague năm 
1899 đã thông qua công ước “giải quyết hoà bình các tranh chấp 
quốc tế, thiết lập nên một cơ quan giải quyết tranh chấp toàn cầu: 
Trọng tài quốc tế (PCA).PCA là tiền thân của các cơ quan giải 
quyết tranh chấp quốc tế hiện nay bao gồm cả ICJ.Công ước 1899 
được sửa đổi tại hội nghị hoà bình thế giới lần thứ 2 (còn gọi là 
công ước 1907) vào năm 1907 bằng việc thông qua công ước giải 
quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế thứ 2.Mặc dù đa số các quốc 
gia đều theo Công ước năm 1907,nhưng cả hai công ước này đều 
đang có hiệu lực.Hiện tại có 97 quốc gia thành viên. 
2. Non - State Parties (các chủ thể phi quốc gia) 
- Được hình thành ban đầu như một công cụ để giải quyết tranh 
chấp giữa các quốc gia,PCA đã được ủy quyền, vào những năm 
1930,sử dụng các khả năng để hòa giải, và làm trọng tài giải quyết 
tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia và các chủ thể độc lập, do đó 
nó có quyền giải quyết các tranh chấp về thương mại và đầu 
tư.Vào năm 1962,PCA đã soạn thảo bộ luật “Những nguyên tắc 
của Trọng tài và Hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế 
giữa 2 bên,trong đó chỉ có một bên là quốc gia”, sau đó dẫn tới 
việc thông qua Hiệp định năm 1965 thành lập nên Trung tâm quốc 
tế về giải quyết tranh chấp đầu tư tại ngân hàng thế giới. 
 3
(- Tuy nhiên,trong những năm sau đó, sau 2 cuộc chiển tranh thế 
giới và sự thành lập ICJ và tổ chức tiền nhiệm - tổ chức PCIJ, 
PCA đã bị cộng đồng quốc tế sử dụng không đúng mức.) 
3. Ủy ban LHQ về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL Link) 
- “The first stirrings of revitalization” của PCA bắt đầu vào những 
năm 1980.Vào năm 1976,Ủy ban LHQ về luật thương mại quốc tế 
(UNCITRAL), đã thông qua một bộ luật trọng tài phi nguyên tắc 
để sử dụng “trong việc giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong 
các mối quan hệ thương mại quốc tế,đặc biệt là các hợp đồng 
thương mại”.Luật này còn quy định việc chỉ định trọng tài và 
quyết định phản đối trọng tài. “Thẩm quyền chỉ định” được thiết 
lập bởi sự thoả thuận của các bên.Trong những trường hợp mà các 
bên không thể thống nhất về việc lựa chọn thẩm quyền chỉ định,thì 
cần thiết phải có một tổ chức quốc tế đáng tin cậy.Bởi vậy theo 
điều 6 khoản 2 và điều 7 khoản 2b của uỷ ban LHQ về luật thương 
mại quốc tế (UNCITRAL rules): 
 “ Nếu các bên không thống nhất được thẩm quyền chỉ định, 
hoặc nếu thống nhất được nhưng người có thẩm quyền chỉ định từ 
chối; hoặc không thể chỉ định trọng tài thì một trong các bên có 
thể yêu cầu Tổng thư ký của PCA chỉ định. 
4. Iran-United States Claims – Tribunal ( toà thành lập theo 
yêu cầu của Iran và Mỹ) (ví dụ ) 
 4
- Vào năm 1981 Tổng thư ký lần đầu tiên được yêu cầu bổ nhiệm 
một thẩm quyền chỉ định, không phải cho một trọng tài thương 
mại,mà cho Iran- Hoa Kỳ Claims Tribunal.Sự cung cấp điều kiện 
vật chất và sự giúp đỡ  đối với cơ quan đó trong quá trình hình 
thành cũng truyền sức sống mới cho PCA.Kể từ năm 1981, gần 
200 yêu cầu cho sự bổ nhiệm một thẩm quyền chỉ định đã được đệ 
trình lên Tổng thư ký,phần lớn trong số đó là từ giữa những năm 
1990.Sự tăng lên này,cũng như sự gia tăng của các trường hợp 
phức tạp,đã trực tiếp đưa PCA đến lĩnh vực trọng tài thương mại 
quốc tế.Tổng thư ký ngày càng được yêu cầu giải quyết trực tiếp 
như thẩm quyền chỉ định,hơn là chỉ đơn thuần bổ nhiệm tổ chức 
hoặc cá nhân khác. 
5. Revitalization_(tái hoạt động) 
- Sự tái hoạt động của PCA bắt đầu vào đầu những năm 1990.Vào 
năm 1991,PCA đã triệu tập một nhóm những chuyên gia làm việc 
với mục đích đưa ra những khuyến cáo để cải thiện chức năng của 
nó .Kể từ đó, PCA đã mở rộng và quốc tế hóa bộ phận nhân viên 
của nó,làm tăng thêm sự nhận thức toàn cầu về khả năng và vai trò 
của nó, và thúc đẩy và hiện đại hóa chức năng của hệ thống giải 
quyết tranh chấp căn bản bằng việc thông qua những nguyên tắc 
về thủ tục mà hầu như dựa trên các quy tắc của UNCITRAL.PCA 
nhận thấy rằng,mặc dù nhưng những nguyên tắc của 
UNCITRAL đã phản ánh thực tiễn và nguyên tắc hoạt động được 
thừa nhận trong văn hoá trọng tài trên toàn thế giới và sẽ “ quy 
 5
định những thủ tục có hiệu quả và công bằng trong việc hoà bình 
giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia về việc giải thích, áp 
dụng, thực hiện điều ước và những thoả thuận khác mặc dù những 
thủ tục này được dùng trong trọng tài thương mại.” 
- Kể từ năm 1990,nhân viên của PCA đã tăng lên gấp 5 và đại diện 
cho hơn 10 quốc gia. 
II. CƠ CẤU TỔ CHỨC (ORGANIZATIONAL ASPECTS) 
1.Trụ sở 
 PCA có trụ sở tại Hague.Các quá trình giải quyết tranh chấp 
được tiến hành dưới sự bảo trợ của nó có thể diễn ra tại bất kỳ nơi 
nào khác mà được các bên và toà chấp thuận trong một trường hợp 
nào đó. 
2. International Bureau_Ban quốc tế 
- Cơ cấu tổ chức cơ bản của PCA được thiết lập trong Công ước 
nămm 1899 và 1907. PCA không phải là một toà thực sự với các 
thẩm phán thường trực.Thay vào đó,một ban thư ký thường trực, 
ban quốc tế và đứng đầu là tổng thư ký,giúp đỡ các bên,trong mỗi 
vụ việc,thiết lập và quản lý một toà adhoc. Ban quốc tế là ban thư 
ký đang hoạt động của PCA.Nó duy trì danh sách thường trực 
những trọng tài tiềm năng,nhận những thông báo trực tiếp từ PCA 
(bao gồm những yêu cầu về quyền trọng tài), và quy định những 
 6
sự phục vụ hành chính đang diễn ra đối với các tòa trọng tài,bao 
gồm sự cung cấp các cơ sở cho việc xây dựng PCA. 
 3.Ủy ban (hội đồng) hành chính - Administrative Council 
- Chức năng giám sát của PCA được giao cho hội đồng hành 
chính,cơ quan bao gồm các đại diện ngoại giao của các bên được 
cử tới Hà Lan dự hội nghị 1899 và 1907.Hội đồng đưa ra sự chỉ 
đạo chung cho công việc của PCA, và giám sát sự quản lý, ngân 
sách và chi tiêu của nó(PCA).(Ngân sách của PCA là sự đóng góp 
của các quốc gia thành viên, số lượng mà dựa trên hệ thống các 
đơn vị được duy trì bởi Hiệp hội bưu chính toàn cầu ( một trong số 
ít các tổ chức liên chính phủ tồn tại từ 1899).Do đó,năm 2003,sự 
đóng góp cao nhất của quốc gia đơn lẻ là 24,450 euros ( 50 đơn vị 
) và thấp nhất là 244.50 euros (0.5 đv).)Tổng thư ký báo cáo 
thường niên với hội đồng hành chính về hoạt động của PCA,chức 
năng hành chính và chi tiêu của nó.(PCA). 
(- Vì thời kỳ tái hoạt động của PCA xảy ra đồng thời với một 
chính sách của chính phủ tuyên bố về sự phát triển không đáng kể 
trong các tổ chức quốc tế,phần lớn những sự phát triển và mở rộng 
mới đây của nó được tài trợ từ nguồn ngân sách dự trữ, bao gồm 
các khoản phí thu từ các tòa trọng tài.) 
4.Thành viên của toà 
- Các nhà dự thảo công ước 1899 và 1907 đã dự tính việc các bên 
lựa chọn trọng tài của mình thông qua một danh sách đóng.Bởi 
vậy,2 công ước đó quy định rằng mỗi quốc gia ký kết Công ước có 
 7
thể chỉ định lên tới 4 thành viên của tòa: những người có đủ 
chuyên môn trong lĩnh vực luật quốc tế,có đạo đức tốt và tự 
nguyện chấp nhận các nghĩa vụ của một trọng tài (Đ44 CƯ 
1907).Mặc dù công ước quy định rằng các trọng tài phải được lựa 
chọn từ danh sách thành viên (Đ45 CƯ1907), nhưng rõ ràng 
rằng,trong lịch sử của PCA,các bên muốn có sự tự do để chỉ định 
trọng tài ngoài cái danh sách đó. 
(- Ngoài việc thành lập một hội đồng trọng tài có khả năng, các 
thành viên của PCA từ mỗi nước ký kết chỉ định một nhóm quốc 
gia, mà các nhóm này có quyền cử các ứng viên tuyển vào ICJ.) 
5.Các văn kiện pháp lý cơ bản 
- Công ước năm 1899 và 1907 tạo thành những văn kiện cơ bản của 
PCA.Trong khi các công ước cũng quy định một khung thủ tục 
cho các cách giải quyết tranh chấp dưới sự bảo trợ của PCA,thì 
một loạt các nguyên tắc thủ tục mới đã được ấn định vào những 
năm gần đây.Những văn kiện đó phần lớn dựa trên các văn kiện 
pháp lý của UNCITRAL, để phản ánh sự nhất trí trong các thủ tục 
giải quyết tranh chấp trên toàn thế giới.Các bộ luật dưới đây đều 
đang có hiệu lực: 
• Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc giải quyết tranh chấp 
bằng hình thức trọng tài giữa 2 quốc gia.(1992) 
 8
• Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc giải quyết tranh chấp 
bằng trọng ttài giữa 2 bên mà chỉ có một bên là quốc gia (1993). 
• Các nguyên tắc không bắt buộc cho Trọng tài liên quan đến các 
tổ chức quốc tế và các quốc gia (1996) 
• Những nguyên tắc không bắt buộc cho trọng tài giữa các tổ chức 
quốc tế và các bên tư nhân.(1996) 
• Các nguyên tắc hòa giải không bắt buộc (1996) 
• Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc tìm hiểu tình hình 
thực tế của ủy ban điều tra (1997) 
• Các nguyên tắc của quy trình giải quyết tranh chấp bằng hình 
thức trọng tài liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường. 
• Các nguyên tắc không bắt buộc cho sự hòa giải tranh chấp liên 
quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường. 
According to the introduction to the 1992 Optional Rules for 
Arbitrating 
Disputes between Two States: 
“Experience in arbitrations since 1981 suggests that the 
UNCITRAL 
Arbitration Rules provide fair and effective procedures for 
peaceful 
resolution of disputes between States concerning the 
interpretation, 
application and performance of treaties and other agreements, 
although 
they were originally designed for commercial arbitration.” 
 9
- Ngoài việc áp dụng các nguyên tắc dựa trên UNCITRAL,PCA 
thường thực hiện việc xét xử theo các nguyên tắc xét xử của 
UNCITRAL,hoặc theo các nguyên tắc adhoc được các bên đưa ra 
cho việc xét xử liên quan. 
- Vì vậy,đối với thủ tục của PCA,dường như không có một bộ luật 
thủ tục riêng nào áp dụng cho tất cả các trường hợp.Bởi vì ưu thế 
của việc xét xử là một phương pháp giải quyết tranh chấp quốc tế 
nằm trong hệ thống của PCA, những tranh cãi về vấn đề thủ tục 
trong bộ luật này giới hạn tính xét xử của trọng tài.Hơn nữa,bởi vì 
các bên hiếm khi dựa vào các nguyên tắc không hợp thời và không 
chi tiết, các nguyên tắc thủ tục đầu tiên trong công ước 1899 và 
1907 nhấn mạnh vào các điều khoản trong các bộ luật hiện đại của 
PCA. 
6.Tòa 
- Vì vậy, không có một tòa thực sự nào.Một tòa án hoặc một bộ 
phận giải quyết tranh chấp khác được thiết lập theo từng vụ việc 
được đệ trình, và phương pháp thành lập của nó sẽ dựa trên luật áp 
dụng. 
7. Registry Services 
- Ban thư ký của PCA _ International Bureau_ có một nhóm nhân 
viên hành chính và pháp luật thông thạo nhiều thứ tiếng và có kinh 
nghiệm.Nó có thể cung cấp dịch vụ đăng ký và hỗ trợ pháp lý cho 
 10 
các tòa và các ủy ban,ví dụ, cung cấp các nguồn thông tin chính 
thức và đảm bảo sự an toàn của các tài liệuNgôn ngữ chính thức 
được sử dụng trong PCA là tiếng Anh và tiếng Pháp, nhưng các vụ 
kiện có thể tiến hành bằng bất kỳ một ngôn ngữ nào được các bên 
đồng ý. 
III. THẨM QUYỀN 
1. Jurisdiction of the Institution 
- PCA vốn được thiết lập để giải quyết các tranh chấp giữa các 
quốc gia, nhưng Các công ước La Hay lại cho phép sự linh hoạt 
trong việc thiết lập một “hội đồng trọng tài đặc biệt”(special Board 
of Arbitration). 
- Theo các quy định không bắt buộc, nói chung, những bên sau, có 
thể chấp thuận đưa vụ việc lên PCA: 
+ Giữa hai quốc gia trở lên 
+ Giữa Quốc gia và tổ chức quốc tế 
+ Giữa hai tổ chức quốc tế trở lên 
+ Giữa một quốc gia và một bên tư nhân 
+ Giữa một tổ chức quốc tế và một bên tư nhân 
- (Các nguyên tắc của PCA trong việc giải quyết các tranh chấp và 
các quy định hoà giải không bắt buộc liên quan đến tài nguyên 
 11 
thiên nhiên và môi trường không hề có yêu cầu một trong các bên 
phải là quốc gia hoặc tổ chức quốc tế.) 
2.Thẩm quyền của toà 
 Cơ sở cho việc xác định thẩm quyền của toà trọng tài do các 
bên thoả thuận.Các thoả thuận này có thể nằm trong các điều ước 
cụ thể liên quan đến tranh chấp đang diễn ra hoặc các điều ước ký 
kết,văn kiện pháp lý liên quan đến các tranh chấp trong tương. 
 (Toà trọng tài được trao quyền quyết định đối với bất cứ phản 
đối nào không chấp nhận thẩm quyền của toà và quy định rằng để 
quyết định thẩm quyền của toà, một thoả thuận về việc xét xử 
bằng trọng tài có thể xem là tách biệt đối với các văn kiện chứa 
đựng nó.) 
3.Thẩm quyền tư vấn/thẩm quyền tranh chấp. 
- Thực tiễn của PCA,không giống như ICJ, không có sự phân biệt 
giữa thẩm quyền tranh chấp và thẩm quyền tư vấn.Toà trọng tài 
luôn luôn có quyền xét xử và cần được phân biệt với các hình thức 
giải quyết tranh chấp không qua xét xử khác bằng những phán 
quyết cuối cùng và có tính ràng buộc. 
(.Vì thế những phương pháp giải quyết tranh chấp không mang 
tính ràng buộc bao gồm sự dàn xếp,hòa giải,và điều tra, có thể phù 
hợp hơn với các bên trong việc tìm kiếm một tuyên bố có tính tư 
 12 
vấn hoặc không ràng buộc đối với quyền và nghĩa vụ chung của 
các bên.) 
4. Subject Matter_Những vấn đề trọng tâm 
- Thẩm quyền xét xử của tòa PCA là không giới hạn.Tuy nhiên 
trong từng vụ việc,phạm vi của thẩm quyền xét xử bị hạn chế bởi 
cách diễn đạt trong thỏa thuận về việc xét xử bằng trọng tài.Những 
nguyên tắc thủ tục của PCA về giải quyết tranh chấp bằng trọng 
tài liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường quy định rõ 
ràng rằng “Sự mô tả tính chất của tranh chấp liên quan tới môi 
trường hoặc tài nguyên thiên nhiên là không cần thiết cho thẩm 
quyền xét xử,tất cả các bên đều đồng ý đặt một tranh chấp đặc biệt 
dưới sự điều chỉnh của các điều luật này”. 
5.Thời hạn 
Các nguyên tắc khác nhau về thủ tục không đặt ra một quy định về 
thời hạn cho việc đưa tranh chấp lên tòa PCA.Những sự hạn chế 
đó có thể thấy trong thỏa thuận về xét xử bằng phương pháp trọng 
tài. 
IV – NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG 
1. Luật áp dụng 
 13 
1.1 – Nguyên tắc thủ tục 
- Ban đầu, Luật áp dụng trong quá trình xét xử sẽ do các bên lựa 
chọn bằng việc chấp thuận áp dụng những nguyên tắc thủ tục cụ 
thể. 
- Các nguyên tắc thủ tục hiện nay, cũng như các nguyên tắc của 
PCA (xuất phát từ các nguyên tắc của UNCITRAL) tạo ra sự linh 
hoạt trong vấn đề thủ tục cho toà trọng tài và các bên. Có rất ít các 
điều khoản bắt buộc, nghĩa là, các bên có thể thông qua thoả thuận 
để thay đổi những quy định thủ tục. Tất cả các nguyên tắc của 
PCA đều quy định, toà có thể điều hành việc xét xử theo cách mà 
toà cho rằng là thích hợp, miễn là thoả mãn yêu cầu được quy định 
tại điều 15 khoản 1 Uncitral : “the parties are treated with equality 
and that, at any stage of the proceedings, each party is given a full 
opportunity of presenting its case” . Trong các vụ thương mại tư 
nhân, và cũng có thể hình dung trong các vụ khác, toà trọng tài có 
thể áp dụng hoặc tham khảo luật trọng tài của nơi diễn ra xét xử để 
bổ sung vào phần “luật áp dụng”. Trong việc xét xử giữa các quốc 
gia, thoả thuận xét xử hoặc các nguyên tắc adhoc sẽ được các bên 
thảo ra, trình lên trọng tài để bổ sung vào các nguyên tắc chính mà 
không tham khảo đến luật của địa phương. 
1.2 – Substantive 
- Một lần nữa, các bên lại có thể có sự linh hoạt trong việc quy 
định luật áp dụng giải quyết tranh chấp của họ. 
- Theo luật của PCA, toà án trọng tài sẽ áp dụng luật do các bên 
thoả thuận, nếu không có sự thoả thuận nào, toà sẽ áp dụng: hoặc 
là các nguyên tắc áp dụng của luật quốc tế thông thường, hoặc là 
bất cứ phần luật nào được quy định theo nguyên tắc chọn luật. 
 14 
- Trong trường hợp, vụ việc liên quan đến tổ chức quốc tế, toà sẽ 
áp dụng trực tiếp các quy định thích hợp của tổ chức có liên quan 
và luật của các tổ chức quốc tế; trong trường hợp các bên trong vụ 
việc là tư nhân, toà sẽ chú ý trực tiếp vào các thuật ngữ trong ký 
kết, thoả thuận được nhắc đến 
2. CÁC VẤN ĐỀ THỦ TỤC 
2.1- Lập thủ tục 
Theo nguyên tắc của PCA, phía nguyên đơn – bên đề xướng 
tranh chấp - phải có thông báo về việc tranh chấp cho phía bên kia 
- bên bị đơn. Thông báo phải bao gồm những thông tin sau: 
- Yêu cầu tranh chấp phải được giao cho trọng tài xét xử. 
- Tên và địa chỉ của các bên. 
- Liên hệ đến một điều khoản hay thoả thuận về tranh chấp. 
- Liên hệ tới điều ước, thoả thuận, ký kết hoặc các văn kiện pháp lý 
khác có liên quan đến tranh chấp phát sinh. 
- Bản chất chung của vụ việc và chỉ ra mức độ liên quan 
- Tìm kiếm sự hỗ trợ và biện pháp khắc phục. 
- Đề nghị số lượng trọng tài. 
 Những quy định trên gần như được dẫn nguyên văn các 
nguyên tắc giải quyết tranh chấp của UNCITRAL, bởi các quy 
định này được thực hiện trong tranh chấp thương mại, hướng tới 
 15 
thừa nhận giải quyết tranh chấp dựa trên điều khoản tranh chấp 
trong tương lai có trong hợp đồng thương mại. Trong trường hợp 
tranh chấp được đưa ra theo thoả thuận, đặc biệt liên quan đến các 
quốc gia, không bên nào được chỉ định là nguyên đơn hay bị đơn. 
2.2 – Thành lập trọng tài 
- Các bên có thể thoả thuận đưa ra quy định thành lập toà án trọng 
tài. Theo như Công ước 1899 và 1907, các bên chỉ có thể lựa chọn 
trọng tài theo danh sách mà PCA đưa ra. Tuy nhiên, quy định này 
đã không còn từ rất lâu. 
- Cách thành lập một toà án trọng tài cơ bản được phản ánh trong 
Công ước 1899 và 1907 và nhiều nguyên tắc của PCA liên quan 
đến sự sắp xếp của mỗi bên. Trong số các trọng tài mà các bên chỉ 
định sẽ lựa chọn ra một trọng tài chủ trì. Các bên có thể thoả thuận 
số lượng trọng tài (trọng tài duy nhất, ba trọng tài). Thường chỉ 
trong trường hợp tranh chấp giữa các quốc gia thì toà sẽ có 5 trọng 
tài. 
- Nếu các bên không thể lựa chọn, toà sẽ có 3 trọng tài. Nếu thiếu 
sự đồng tình của trọng tài thứ 3 hoặc do một trong hai bên không 
thể chỉ định trọng tài, các bên sẽ cùng xác định thẩm quyền lựa 
chọn trọng tài hoặc theo như quy định của UNCITRIAL, thư ký 
thường trực của PCA sẽ thực hiện vấn đề này. 
- Nếu các bên đồng ý giải quyết tranh chấp của họ trước trọng tài 
duy nhất, họ có thể lựa chọn dựa trên thoả thuận chung, nếu thoả 
thuận thất bại, họ sẽ uỷ thác cho người có thẩm quyền. Theo các 
nguyên tắc của UNCITRIAL, thẩm quyền trong việc sắp xếp trọng 
 16 
tài là việc sử dụng một “list procedure”, qua đó, các bên nhận 
được một danh sách chính có ít nhất tên của 3 người, và nhiệm vụ 
của họ là phải phản đối hoặc chấp nhận những ai trong danh sách 
đó. 
- Tuy nhiên, các bên có thể đưa ra một giải pháp khác trong việc 
lựa chọn các trọng tài. Các bên có thể quy định bất kỳ các trọng tài 
có chuyên môn đặc biệt trong lĩnh vực đang xảy ra tranh chấp và 
giới hạn quốc tịch của họ. Vấn đề quốc tịch đặc biệt quan trọng 
trong các trường hợp nhạy cảm về mặt chính trị, vì vậy, 
UNCITRIAL quy định, việc lựa chọn trọng tài phải được cân nhắc 
kỹ lưỡng để đảm bảo cho sự độc lập, công bằng của trọng tài. 
 Ví dụ, các quy định không bắt buộc trong giải quyết tranh 
chấp liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường năm 2001 
quy định thành lập hội đồng trọng tài có kinh nghiệm và chuyên 
môn về luật môi trường hoặc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên do các 
quốc gia hoặc Tổng thư ký bổ nhiệm, nhưng cũng không yêu cầu 
nhất thiết phải lựa chọn trọng tài từ hội đồng này. 
2.3 – Phản đối trọng tài 
 Theo quy định của PCA, một bên có thể phản đối một trọng 
tài nếu họ có nghi ngờ chính đáng về tính công bằng hay độc lập 
của trọng tài đó. Nếu bên kia cũng đồng tình với sự phản đối này, 
hoặc bản thân trọng tài đó tự rút khỏi vụ việc thì một trọng tài mới 
sẽ được chỉ định theo cách mà trọng tài trước đó đã được chỉ định. 
Mặt khác, phản đối sẽ được quyết định một lần nữa bởi người có 
 17 
thẩm quyền trong hội đồng trọng tài, cũng như sự chấp thuận lẫn 
nhau giữa các bên hoặc sự chấp nhận của Tồng thư ký PCA. 
2.4 – Các biện pháp tạm thời 
 Theo quy định của PCA, Toà có thể yêu cầu một bên áp dụng 
những biện pháp tạm thời cần thiết cho việc bảo đảm quyền lợi 
riêng của từng bên hoặc những vấn đề chính trong tranh chấp 
thông qua việc đưa ra các tuyên bố tạm thời. Hầu hết, các nguyên 
tắc của PCA đều quy định rằng, các bên đều có thể hạn chế quyền 
này của toà bằng những thoả thuận chung. 
 Trong các tranh chấp thương mại, các biện pháp tạm thời có 
thể bao gồm việc gửi hàng hoá nhờ một bên thứ 3 hoặc bán các 
loại hàng hoá có thể bị hư hại. Ví dụ, trong các quy phạm về Tài 
nguyên thiên nhiên và môi trường có quy định toà được phép đưa 
ra bất cứ yêu cầu nào về việc áp dụng “các biện pháp tạm thời để 
đảm bảo quyền lợi của mỗi bên và ngăn ngừa sự nguy hại nghiêm 
trọng đến môi trường nằm trong các vấn đề chính của vụ tranh 
chấp.” 
 Trong mọi trường hợp, toà có thể yêu cầu các bên phải đảm 
bảo đầy đủ chi phí liên quan tới việc thực hiện các biện pháp tạm 
thời đó. 
 Bởi toà án trọng tài thường gặp nhiều khó khăn trong việc ép 
buộc áp dụng các biện pháp tạm thời, tất cả các quy tắc giải quyết 
tranh chấp của PCA đều dựa vào các quy tắc giải quyết của 
UNCITRIAL: việc yêu cầu biện pháp tạm thời của bất cứ bên nào 
 18 
tới người có thẩm quyền xét xử sẽ không được xem là không hợp 
với thoả thuận xét xử hoặc sự từ bỏ thoả thuận đó. 
2.5 – Preliminary Objections 
 Các quy tắc của PCA có quy định thủ tục ban đầu về việc xác 
lập thẩm quyền xét xử. Những viện lẽ cho việc thiếu thẩm quyền 
xét xử của toà phải được đưa ra trước khi quá trình biện hộ hoặc 
được đề cập trong sự phản hồi đối với tuyên bố phản đối. 
2.6 – Nơi tiến hành xét xử 
 Việc xét sử sẽ diễn ra tại Hague, Hà Lan nếu các bên không có 
thoả thuận khác. Tuy nhiên, vẫn có sự linh hoạt đáng kể cho các 
bên và toà trọng tài trong việc quyết định cụ thể nơi xét xử cho các 
phiên điều trần, phiên gặp gỡ, tranh cãi. Như đã được nhắc tới ở 
trên, trong các vụ việc cụ thể, nơi xét xử có thể ảnh hưởng tới luật 
thủ tục áp dụng. 
2.7 – Tranh tụng viết (written pleadings) 
 Nguyên đơn sẽ phải trình đơn kiện và sau đó thì bị đơn đưa ra 
ý kiến phản bác. Đơn kiện phải bao gồm những thông tin sau: 
a. Tên và địa chỉ của các bên 
b. Trình bày sự việc 
 19 
c. Các vấn đề đang tranh cãi 
d. Hỗ trợ và biện pháp khắc phục 
 Kèm theo đơn kiện là những văn kiện có liên quan, bao gồm cả 
việc chấp thuận thẩm quyền xét xử của toà. 
 Ý kiến phản bác của bị đơn phải bao gồm các mục b, c, d như 
trong đơn kiện của nguyên đơn, kèm theo các văn kiện, chứng cớ 
có liên quan mà bị đơn có ý định đưa ra. Đơn phản bác cũng có thể 
có một “counter – claim” phát sinh từ một điều ước, thoả thuận, ký 
kết hoặc các văn kiện pháp lý tương tự hoặc một tuyên bố phản 
kiện. Cả hai đều phải thoả mãn những yêu cầu thủ tục của một 
tuyên bố phản bác bình thường. 
 Các bên có thể sửa đổi, bổ sung văn bản đệ trình bất cứ lúc nào 
trừ khi toà thấy việc sửa đổi, bổ sung là không thích đáng và làm 
chậm trễ sự trình bày của các bên, gây thiệt hại cho các bên. 
Không có trường hợp việc sửa đổi, bổ sung vượt quá thẩm quyền 
xét xử của toà. Toà có thẩm quyền quyết định có nên bổ sung thêm 
một văn bản đệ trình nào không. 
 Mặc dù PCA có quy định thời hạn của việc trình lên các văn 
bản tranh tụng, nhưng trong vấn đề này, toà thường họp các bên 
lại, tham khảo ý kiến để đưa ra quyết định. Điều này không được 
quy định trong luật nhưng trong thực tế vẫn thường được áp dụng. 
Nếu tranh tụng viết có quá nhiều phần, các bên thường hỏi ý kiến 
toà và xin đăng ký quyết định có đưa trực tiếp các pleadings cho 
nhau và các thành viên của toà hay không. 
2.8 - Thẩm vấn trước toà (phiên điều trần) 
 20 
 Các bên được phép yêu cầu một phiên thẩm vấn trước toà. 
Trong trường hợp không có yêu cầu nào, toà sẽ quyết định có tổ 
chức thẩm vấn hay không hay là chỉ xét xử đơn độc hoặc hướng 
dẫn thủ tục dựa trên các văn bản đệ trình, các tài liệu và văn kiện 
liên quan. Tuy nhiên, trên thực tiễn, hiếm khi nào các bên hoặc toà 
bỏ qua phần “hearings”. 
 Những chi tiết cụ thể về thủ tục trong phiên điều trần thường 
được các bên, toà án trọng tài đưa ra tỉ mỉ trong cuộc họp trước 
phiên điều trần. Toà có thể linh hoạt điều khiển các thủ tục đó. 
 Điều 15: “provided that the parties are treated with equality 
and that at any stage of the proceedings each party is given a full 
opportunity of presenting its case.” 
 Luật cũng quy định về việc trình bày của các nhân chứng và 
các chuyên gia. Nếu một bên có nhân chứng, thì họ phải báo cho 
toà và bên kia ít nhất là sớm trước 30 ngày về tên tuổi và địa chỉ 
của nhân chứng cũng như vấn đề mà họ làm chứng. 
2.9 – Language of the Proceedings 
 Có thể được các bên thoả thuận. Nếu không có thoả thuận nào, 
toà sẽ tự quyết định. 
2.10. Sự can thiệp của bên thứ ba 
 21 
 Mặc dù, trong thủ tục xét xử của PCA không có quy định về sự 
can thiệp của bên thứ ba, tuy nhiện, nếu tranh chấp xảy ra giữa hai 
bên trở lên, các bên có thoả thuận, tranh chấp sẽ được giải quyết 
tại PCA. 
3 – PHÁN QUYẾT CỦA TOÀ 
3.1 – Phán quyết 
 Phán quyết cuối cùng của toà được thông qua bởi đa số thành 
viên trong hội đồng trọng tài, được thể hiện trên văn bản, phải bao 
gồm lý do của phán quyết trừ khi các bên không có yêu cầu. Trong 
khi các Công ước 1899, 1907 đều quy định rằng, phán quyết phải 
công khai thì PCA lại yêu cầu các bên phải có thoả thuận về vấn 
đề các lý do có cần phải công khai hay không. 
 Phán quyết là cuối cùng và ràng buộc các bên, các bên phải thi 
hành mà không có sự trì hoãn nào. 
 Nếu các bên đã đạt được một thoả thuận nào đó trước khi toà 
kết thúc xét xử thì họ có thể yêu cầu toà ghi lại thoả thuận đó dưới 
dạng quyết định về những điều kiện đã thoả thuận. 
3.2 - Giải thích và sửa đổi 
 Sau khi phán quyết được đưa ra, các bên có thể yêu cầu toà 
giải thích phán quyết hoặc sửa các lỗi trong tính toán, biên chép, 
lỗi in hoặc yêu cầu một phán quyết bổ sung được đưa ra trong quá 
trình xét xử nhưng đã bị bỏ sót trong phán quyết. Toà cũng có 
quyền chủ động sửa lại các lỗi trong phán quyết trong vòng 30 
ngày kể từ ngày đưa ra phán quyết. 
 22 
3.3 - Kháng án 
 Phán quyết là cuối cùng và có tính ràng buộc, vì vậy các bên 
không có quyền kháng án. 
3.4 - Thi hành phán quyết 
 Các bên phải đảm bảo thi hành phán quyết mà không có sự trì 
hoãn nào. 
 Các phán quyết trong các vụ liên quan đến các bên tư nhân 
cũng được thi hành giống như các phán quyết giải quyết tranh 
chấp thương mại quốc tế. 
 Trong một chừng mực nào đó, luật giải quyết tranh chấp tại 
nơi xảy ra tranh chấp có quy định rằng, phán quyết phải được 
trình lên hoặc được đăng ký, các quy phạm có liên quan quy định 
rằng toà án phải có trách nhiệm trong vấn đề này. 
 Việc từ bỏ quyền miễn trừ xét xử bởi các quốc gia và các tổ 
chức phi chính phủ đạt được từ một thoả thuận giải quyết bằng 
trọng tài theo quy chế của PCA không dẫn tới việc từ bỏ sự miễn 
trừ thi hành. 
B. Những case cụ thể 
B1. Eritrea/Yemen 
I) Giới thiệu chung 
Vụ Eritrea/Yemen là một trong số những vụ có tính chất quan 
trọng nhất trong lịch sử trọng tài thế giới. Tòa trọng tài gồm 5 
thẩm phán trong vụ việc này đã đưa ra hai phán quyết trong hai 
giai đoạn: 
 23 
Một là, phán quyết về “Chủ quyền lãnh thổ và phạm vi của tranh 
chấp” đưa ra ngày 9/10/1998. 
Hai là, phán quyết về “Phân định biên giới biển” đưa ra ngày 
17/12/1999. 
II) Xác lập tòa trọng tài 
Dựa trên thỏa thuận trọng tài giữa chính phủ Eritrea và chính phủ 
Cộng hòa Yemen vào ngày 3/10/1996, thỏa thuận này là sự tiếp 
nối của thỏa thuận về những nguyên tắc chung giữa Eritrea/Yemen 
tại Paris ngày 21/5/1996. 
III) Thủ tục xét xử 
Eritrea và Yemen, hai bên cam kết không sử dụng vũ lực để giải 
quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và đường biên giới biển; đã 
quyết định thông qua thoả thuận trọng tài và thành lập Toà trọng 
tài. 
Toà mở phiên họp đầu tiên vào ngày 14 tháng 1 năm 1997 tại 
Luân đôn, Anh. 
 [Phần 5, Phán quyết ] Bốn trọng tài viên của Toà trọng tài 
bàn bạc, trao đổi, phê chuẩn, thông qua các hoạt động được uỷ 
quyền. Theo điều 7.2 Thoả thuận trọng tài, Toà chỉ định Tổng thư 
ký Mr Jonkman của Toà trọng tài Thường trực (PCA) tại Hague và 
Thư ký thứ nhất của PCA, Ms Bette E. Shifman lần lượt là người 
 24 
lưu trữ hồ sơ và thư ký của Toà. Địa điểm đăng ký hồ sơ của Tòa 
là tại Ban Quốc tế của PCA. 
 [Phần 6, Phán quyết ] Toà thông báo với hai đại diện của 
Eritrea và Yemen về việc thành lập Toà và thảo luận một vài vấn 
đề thực tế liên quan đến quá trình tố tụng trọng tài. 
 [Phần 7, Phán quyết] Điều 2 Thoả thuận trọng tài quy định: 
1. Quyết định của Toà trọng tài phải phù hợp với những điều 
khoản của Luật quốc tế, theo 2 giai đoạn. 
2. Giai đoạn 1, Toà sẽ đưa ra phán quyết về chủ quyền lãnh thổ và 
định nghĩa về phạm vi tranh chấp giữa Eritrea và Yemen. Toà sẽ 
quyết định chủ quyền lãnh thổ phù hợp với những nguyên tắc, quy 
định và thực tiễn luật quốc tế áp dụng trong vụ việc này; cụ thể 
trên cơ sở các danh nghĩa lịch sử. Toà sẽ quyết định về định nghĩa 
phạm vi tranh chấp trên cơ sở quan điểm của 2 bên. 
3. Giai đoạn 2, Toà sẽ đưa ra phán quyết về phân định đường biên 
giới biển. Toà sẽ quyết định cân nhắc quan điểm của mình về các 
vấn đề chủ quyền lãnh thổ, Công ước Luật biển của Liên Hợp 
quốc và những nhân tố phù hợp khác. 
 [Phần 8, Phán quyết ] Các bên cùng nộp Bản tranh tụng liên 
quan đến chủ quyền lãnh thổ và phạm vi tranh chấp vào ngày 1 
tháng 9 năm 1997 và Bản phản biện vào ngày 1 tháng 12 năm 
1997. Phiên tranh tụng giai đoạn 1 sẽ diễn ra tại Luân đôn từ ngày 
26 tháng 1 đến ngày 06 tháng 2 năm 1998. Theo bốc thăm, Eritrea 
sẽ trình bày trước. 
 [ Phần 9, Phán quyết ] Vào cuối phiên họp ngày 6 tháng 02 năm 
1998, theo điều 8.3 của Thoả thuận trọng tài, Toà kết thúc phần 
tranh tụng trong giai đoạn 1 của quá trình tố tụng trọng tài giữa 
 25 
Eritrea và Yemen. Tuy nhiên, vào cuối phiên tranh tụng, toà yêu 
cầu 2 bên phải nộp văn bản trả lời những câu hỏi của Toà trước 
ngày 23 tháng 02 năm 1998, trong đó bao gồm câu hỏi liên quan 
đến sự tồn tại của các thỏa thuận về thăm dò và khai thác dầu mỏ. 
Cũng theo điều 8.3, Toà có quyền yêu cầu các bên thể hiện quan 
điểm của mình bằng văn bản để làm sáng tỏ bất kỳ khía cạnh nào 
của các vấn đề trước Toà. 
 [Phần 10, 11 Phán quyết ] Theo thoả thuận của 2 bên, 
Yemen sẽ trình bày lập luận trước liên quan đến nhượng quyền 
thăm dò và khai thác dầu mỏ liên đới tới phán quyết về chủ quyền 
lãnh thổ trong các phiên tranh tụng . 
+ Toà đặt ra một loạt câu hỏi về việc giải thích bằng chứng 
nhượng quyền và yêu cầu 2 bên trả lời bằng văn bản trong vòng 7 
ngày kể từ khi kết thúc phiên tranh tụng. Và như vậy, theo quy 
định, 2 bên phải nộp văn bản trả lời vào ngày 17 tháng 7 năm 
1998. Nhưng trên thực tế, Eritrea đã nộp muộn vì có bản phụ lục 
đi kèm. Ban Quốc tế của PCA đã nhận được bản phụ lục vào ngày 
22 tháng 7 năm 1998; còn Yemen nộp văn bản muộn hơn nữa: 
ngày 30 tháng 7 năm 1998. Eritrea phản đối việc nộp hồ sơ muộn 
này của Yemen. 
 [Phần 12, Phán quyết ] Trong quá trình tranh tụng bổ sung 
vào tháng 11 năm 1998, Toà thông báo cho các bên ý định liên hệ 
với Tổng thư ký Liên đoàn Ả Rập để đảm bảo cho sự tồn tại và 
muốn lấy bản copy của bất kỳ báo cáo chính thức nào của Liên 
đoàn về các chuyến viếng thăm đến một vài hòn đảo đang bị tranh 
chấp, đặc biệt vào những năm 70. 
+ Ngày 20 tháng 7, Toà gửi fax đến Tổng thư ký Liên đoàn Ả Rập. 
 26 
+ Ngày 28 tháng 7, Văn bản trả lời của Tổng thư ký đã được 
chuyển tới các đồng đại diện của 2 nước và các thành viên của 
Toà. 
I 
IV) Cơ cấu của hội đồng xét xử 
Theo điều 1 của thỏa thuận trọng tài, Eritrea đã chỉ định hai trọng 
tài viên là thành viên là chủ tịch và thẩm phán của ICJ là ngài 
Stephen M.Schwebel và Rosalyn Higgins, phía Yemen chỉ định 
hai luật sư đó là ngài Keith Highet và tiến sĩ Ahmed Sadek El-
Kosheri. 
Ngày 14/1/1997 bốn trọng tài viên đã đề cử cựu chủ tịch của ICJ 
Sir Robert Y.Jennings là chủ tịch của tòa trọng tài. Ngài tổng thư 
kí của tòa PCA (Permanent Court of Arbitration) Hans Jonkman 
được đề cử là người lưu trữ các tài liệu và thư kí tòa là cô Bette 
Shifman. London được chọn là nơi diễn ra quá trình xét xử của tòa 
trọng tài. 
V) Yêu cầu của các bên 
Theo quy định của điều 2 thỏa thuận trọng tài, Eritrea và Yemen 
yêu cầu tòa phân định tranh chấp theo hai giai đoạn. Giai đoạn 1, 
tòa được yêu cầu quyết định xem những vấn đề về chủ quyền lãnh 
thổ trên cơ sở những chủ quyền có tính chất lịch sử theo những 
quy định, thủ tục và thực tiễn luật pháp quốc tế có thể được áp 
 27 
dụng cho vụ việc đồng thời xác định phạm vi của tranh chấp trên 
cơ sở quan điểm rõ ràng của các bên. 
VI) Phán quyết về vụ Eritrea/Yemen giai đoạn 1: 
Bản phán quyết này được nhiều chuyên gia đánh giá là một “kiệt 
tác” về luật với 157 trang chia thành 528 đoạn được phân bổ trong 
11 chương. 
Chương I: Việc tổ chức toà trọng tài và lập luận của các bên 
Mở đầu 
1. Phán quyết này được đưa ra theo thỏa thuận về việc thành lập 
tòa trọng tài ngày 3 tháng 10 năm 1996 giữa chính phủ Eritrea và 
chính phủ Yemen. 
2. Eritrea và Yemen đã kí trước đó thỏa thuận về các nguyên tắc 
chung tại Paris ngày 21 tháng 5 năm 1996, có chính phủ CH Pháp, 
Ethiopia và CH Arab Ai Cập. Các bên đã tuyên bố sẽ nhờ vậy vào 
luật pháp để bảo đảm với nhau việc hòa giải các tranh chấp về các 
vấn đề chủ quyền lãnh thổ và việc giới hạn biên giới trên biển một 
cách hòa bình. Các bên đã đồng ý thiết lập một thỏa thuận về việc 
thành lập một tòa trọng tài. Thỏa thuận về các nguyên tắc chung 
còn quy định rằng: 
1) Tòa trọng tài được yêu cầu đưa ra những quyết định phù hợp 
với luật quốc tế theo hai giai đoạn. 
 28 
2) Giai đoạn đầu tiên sẽ đi đến một quyết định về chủ quyền lãnh 
thổ và về việc xác định phạm vi tranh chấp giữa Eritrea và Yemen. 
Tòa phải quyết định chủ quyền lãnh thổ theo các nguyên tắc, luật 
định và thực tiễn của luật quốc tế có thể được áp dụng với vấn đề 
đó và đặc biệt là trên cơ sở những văn tự có giá trị lịch sử (historic 
titles). Tòa phải quyết định về việc xác định phạm vi của tranh 
chấp trên cơ sở quan điểm tương ứng của mỗi bên (on the basis of 
the respective positions of the two Parties). 
3) Giai đoạn thứ hai phải đi đến một quyết định về giới hạn biên 
giới trên biển. Tòa phải quyết định tính đến ý kiến 
8) Theo bảng thời gian đã quy định trong thỏa thuận trọng tàu cho 
những giai đoạn khác nhau của xét xử, các bên trình bản kiến nghị 
liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và phạm vi tranh chấp đồng thời 
vào ngày 1/9/1997 và bản phản-kiến nghị vào 1/12/1997. Theo 
quy định trong điều 7.1 thỏa thuận trọng tài, tòa trọng tài đặt tại 
London. 
Lập luận của các bên về chủ quyền lãnh thổ 
13) Eritrea dựa trên những tuyên bố của họ về chủ quyền lãnh thổ 
đối với những hòn đảo trên biển Đỏ theo một loạt những tuyên bố 
trải dài hơn 100 năm và những nguyên tắc về chiếm giữ hữu hiệu 
(effective occupation) của luật quốc tế. Eritrea quả quyết rằng 
quốc gia này kế thừa quyền sở hữu những hòn đảo này vào năm 
1993 khi mà Eritrea tuyên bố độc lập hợp pháp từ Ethiopia. 
Ethiopia về phần mình đã thừa kế quyền sở hữu của chính nó từ 
 29 
Italy, mặc cho một giai đoạn bị quân Anh chiếm đóng Eritrea 
trong toàn bộ CTTG II. Quyền sở hữu của Italy được tuyên bố 
15) Eritrea quả quyết rằng, không tranh chấp chủ quyền của đế chế 
Ottaman, Italy cũng đã duy trì một sự có mặt tích cực (active 
presence) ở những hòn đảo trên biển Đỏ khác vào thời gian đó. 
Những con tàu lớn của Italy đã tuần tiễu ở những vùng nước xung 
quanh khu vực đó để truy quét hải tặc, bọn buôn bán nô lệ và 
những nhóm phiến loạn và quyền quản lý thuộc địa có vẻ đã gây 
ra sự nhượng bộ cho việc khai thác thương mại. Theo Eritrea, lúc 
đó không có một tuyên bố hoặc sự hiện diện nào của Yemen trên 
và xung quanh những đảo đó trong suốt thời gian đã nêu. Iman 
Yahya, người đã thành lập nhà nước Yemen hiện đại đã chiếm cứ 
một vùng cao nguyên có tên là Gebel và theo Eritrea, Iman Yahya 
đã công khai thừa nhận những vùng đất thấp duyên hải có tên là 
Tiham không phải thuộc chủ quyền của ông ta. Việc dàn xếp về 
đất đai đã được xác nhận thông qua “Hiệp ước Da’an” vào năm 
1911, một biên bản hiểu biết giữa Đức vua và Đế chế Ottaman. 
16) Eitrea quả quyết rằng sự suy yếu của Đế chế Ottoman trong 
nhiều năm bởi CTTG I đã khiến cho Italy lên kế hoạch xâm chiếm 
một tập hợp các đảo có tên gọi là “Zuqar-Hanish”. Những mưu đồ 
này đã không trở thành hiện thực bởi việc chiếm đóng của quân 
đội Anh namư 1915 
17) Vấn đề về chủ quyền đối với những hòn đảo được hình thành 
trong thời kì hậu CTTG I đã lên đến cực điểm khi Hiệp ước 
Lausanne được kí kết vào năm 1923. Trong khi các vùng đất cũ 
của Đế chế Ottoman bại trận được chia đều cho những kẻ thống trị 
bản địa đã có công ủng hộ Đồng Minh, Eritrea cho rằng không 
một nhà cầm quyền nào ở bán đảo Arab đã ủng hộ Đồng Minh có 
 30 
sự gần gũi thích hợp về mặt địa lý đối với những hòn đảo này để 
được xem xét như những người nhận đất hợp pháp. 
18) Eritrea chỉ ra rằng sự thất bại của Anh trong việc thuyết phục 
những nước Đồng Minh còn lại để chuyển giao những hòn đảo 
này cho những kẻ thống trị Arab được nước Anh lựa chọn hoặc 
cho chính bản thân quôc gia này thông qua hiệp ước Sèvres chưa 
được phê chuẩn năm 1920 và những cuộc đàm phán đã dẫn đến 
việc kí kết Hiệp ước Lausanne vào năm 1923. Eritrea tin rằng điều 
6 và 16 Hiệp ước Lausanne đã mở đường cho việc Italy chiếm 
đóng những hòn đảo này. Điều 6 đã thiết lập một quy tắc chung 
rằng trong những điều khoản của Hiệp ước, “những đảo lớn và đỏa 
nhỏ nằm trong phạm vi 3 dặm tính từ bờ biển là thuộc chủ quyền 
của quốc gia duyên hải”. Eritrea giải thích điều khoản này 
19) Điều 16 của Hiệp ước Lausanne chứa đựng một sự từ chối rõ 
ràng của Thổ Nhĩ Kì về mọi quyền lợi và sở hữu đối với những 
vùng đất đai và đảo của Đế chế Ottoman cũ và đã quy định rằng 
tương lai của những lãnh thổ đó sẽ được dàn xếp bởi các bên có 
liên quan. Eritrea lập luận rằng bởi vì điều 16 không hề chuyển 
những hòn đảo này cho bất cứ một nhà nước đặc biệt nào và 
không chỉ rõ bất cứ một thủ tục nào để chuyển nhượng quyền sở 
hữu đối với những hòn đảo này, việc này hoàn toàn thuộc về 
những tiêu chuẩn chung của luật quốc tế về chiếm hữu lãnh thổ 
bao gồm chinh phục, chiếm hữu hữu hiệu và sự định vị trong lãnh 
hải. 
22) Hiệp định giữa Anh và Italy năm 1938 cũng chứa đựng một 
cam kết rõ ràng về cả hai phía với sự tôn trọng những hòn đảo trên 
biển Đỏ của Đế chế Ottoman rằng không được phép thiết lập chủ 
quyền và có những hành động mạnh mẽ hoặc tự vệ. Trong quan 
 31 
điểm của Eritrea, điều này không phải đã cấu thành một sự từ bỏ 
(relinquishment) của những quyền đang tồn tại mà đơn giản đó chỉ 
là một thỏa ước về cách cư xử trong tương lai. Eritrea còn chứng 
minh vào thời điểm thỏa thuận Anh-Italy được kí kết, chủ quyền 
của Italy đã được thiết lập thông qua những sắc lệnh số 1446 vào 
tháng 12 năm 1938 
23) Eritrea cho rằng việc quân Anh chiếm đóng nước này trong 
thời gian đầu của CTTG II là hoàn toàn phù hợp với luật chiếm 
đóng trong quá trình xung đột. Mọi biên giới lãnh thổ của Eritrea, 
bao gồm các hòn đảo là không đổi và quyền sở hữu của chúng đơn 
giản là chuyển giao cho Ethiopia khi hai thực thể sáp nhập thành 
nhà nước liên bang. 
24) Eritrea còn cho rằng Hiến pháp 1952 của mình đã xác nhận 
các hòn đảo đó là thuộc về lãnh thổ của Eritrea. Hơn nữa, người 
viết câu “Eritrea bao gồm các hòn đảo” là một cố vấn pháp lý của 
Ethiopia, ông John Spencer. 
25) Một căn cứ pháp lý khác mà Eritrea căn cứ vào đó là luật tập 
quán quốc tế. Rằng tất cả các hòn đảo đều nằm trong lãnh hải của 
Eritrea. Các hòn đảo này đều nằm trong lãnh hải 12 hải lý của 
Eritrea và đương nhiên thuộc về chủ quyền lãnh thổ của nước này. 
26) Trong vòng 35 năm từ 1953 cho đến khi Eritrea tuyên bố độc 
lập vào năm 1991, nước này cho rằng mình đã có những hành 
động thể hiện chủ quyền đối với những hòn đảo này. Bao gồm rất 
nhiều tàu tuần tiễu trên vùng biển này tăng một cách liên tục có hệ 
thống mà không hề gặp một cản trở nào, thêm vào đó vào năm 
1967, căn cứ theo việc chuyển giao quyền quản lý những hải đăng 
cho Asmara bởi Ban thương mại Anh, Ethiopia đã tiến một bước 
dài trong việc củng cố chủ quyền của mình lên các đảo này 
 32 
27) Eritrea cho rằng trong suốt những năm 1970 cả hai nước 
Yemen và những đồng minh trong khu vực đều thừa nhận sự kiểm 
soát ccủa Ethopia đối với những hòn đảo bằng những tuyên bố và 
hành động. Nước này viện dẫn rằng, mãi đến những năm 70 của 
thế kỉ XX, Bắc Yemen và Nam Yemen mới có những thể hiện về 
quyền lợi của hai nước này đối với những hòn đảo Để chứng 
minh cho những quan điểm của mình, Eritrea đưa ra lập luận rằng 
những quốc gia arab này không cáo buộc Ethiopia “dâng” những 
hòn đảo này cho Israel nhưng đã cho phép Ethiopia xem xét những 
hòn đảo để thanh tra những hoạt động quân sự của Israeli. 
28) Eritrea nhận định rằng trong những năm cuối trong giai đoạn 
1970 trước khi Eritrea tuyên bố độc lập, đã có những cuộc thanh 
sát bằng đường không và đường thủy bởi quân đội Ethiopia một 
cách rõ ràng. 
29) Eritrea cho rằng mãi đến tháng 12/1995, nước này mới nhận 
thấy sự “hiện diện chính thức” của một số ít hải quân của Yemen 
và điều này đã làm nổ ra xung đột giữa hai quốc gia và kết quả 
cuối cùng là mỗi quốc gia chiếm một trong những đảo chính ở 
vùng biển này. Điều này chứng tỏ bất chấp những hoạt động có 
tính truyền thống và lâu đời của những ngư dân Eritrea cũng như 
lực lượng chức năng của nước này nhằm duy trì an ninh và sự ổn 
định cho vùng biển có những hòn đảo thì Yemen vẫn có chủ quyền 
thông qua chiến tranh 
31) Về phần mình, Yemen chủ yếu dựa trên những lập luận về 
những tuyên bố có tính chất lịch sử, truyền thống và riêng biệt của 
mình. Yemen viện dẫn điều 2(2) của thỏa thuận trọng tài trong đó 
nhấn mạnh tính quan trọng của những “tuyên bố có tính chất lịch 
sử” (historic titles) từ thế kỉ thứ VI trước công nguyên căn cứ vào 
 33 
những chứng cứ về hải đồ, tuyên bố của vua Iman xứ Yemen và 
“thái độ của những quốc gia thứ ba trong suốt một thời gian dài.” 
32) Yemen cho rằng bất chấp những lần sáp nhập của nước này 
vào đế chế Ottoman, bao gồm hai lần vào giai đoạn 1538 circa 
1635, và 1872 đến 1918 không hề làm mất đi những chủ quyền 
lịch sử của nước này đối với những hòn đảo. Yemen quả quyết 
rằng việc đế chế Ottoman thành lập một tỉnh (vilayet) Yemen 
đồng nghĩa với việc Ottoman thừa nhận tính chất riêng biệt của 
Yemen như một đơn vị hành chính và lãnh thổ đơn lẻ, không dính 
líu tới đế chế này. Lập luận này có cơ sở khoa học là những văn 
của thế kỉ 17, 18, 19 và một số bản đồ. 
33) Để tăng thêm tính thuyết phục cho những khẳng định của 
mình, Yemen còn dẫn ra việc vua Imam đã bị Anh quốc từ chối lời 
đề nghị bổ sung một phần phụ lục bí mật liên quan đến những hòn 
đảo này trong hiệp định với Anh quốc năm 1934. Và yêu cầu rằng 
vấn đề liên quan đến những hòn đảo này sẽ được giải quyết theo 
điều 16 của hiệp ước Lausanne. 
34) Yemen cho rằng điều đó không cấu thành sự từ chối chủ 
quyền mang tính truyền thống của mình bởi những tài liệu nêu trên 
trong giai đoạn 1933 đến 1937 của nhà cầm quyền Anh quốc chỉ 
là một sự miễn cưỡng không thừa nhận chủ quyền của Yemen. 
Yemen còn cho rằng hiệp ước Lausanne không có ảnh hưởng đến 
chủ quyền của mình đối với những hòn đảo bởi vì Yemen không 
phải là một thành viên của hiệp wocs này và sự từ bỏ quyền của 
Thổ Nhĩ Kì không thể làm thay đổi lợi ích của những quôc gia thứ 
3. Yemen cho rằng những quy định trong điều 16 hiệp ước 
Lausanne không làm cho những hòn đảo terra nullius, và chủ 
quyền đối với những hòn đảo này là chưa rõ ràng. Hơn nữa, điều 
 34 
16 của hiệp ước đã ngừng tác động đến các quốc gia có liên quan 
bởi vì những lý do chủ quan của các bên và các nước thứ 3. 
35) Một nguyên tắc ủng hộ tuyên bố về chủ quyền duy nhất của 
Yemen đối với những hòn đảo là “nguyên tắc về đơn vị tự nhiên 
và địa lý”. Yemen lập luận rằng đây là một hệ luận (corollary) của 
quan điểm về chủ quyền truyền thống. Căn cứ khoa học của 
Yemen về lập luận này đó là tài liệu về “Biển Đỏ và vịnh của 
Aden Pilot” đưa ra bởi Cục thủy văn học Anh quốc và bách khoa 
thư Britannica. 
37) Chủ yếu nói về những chủ quyền lịch sử căn cứ trên những 
hoạt động liên quan đến những ngư dân và hoạt động của họ 
38) Yemen cho rằng những hòn đảo này có những ngôi mộ của 
những nhà tu hành và nhiều nơi thờ cúng linh thiêng khác của 
người Yemen. Và những ngư dân Yemen ở đây còn hình thành 
phong tục là để lương thực vào mộ những người đã mất. 
39) Thêm vào đó, Yemen cũng chỉ rõ ra rằng thẩm quyền về 
những hệ thống giải quyết những tranh chấp có tính truyền thống 
giữa những ngư dân bằng cách “ride the circuit” dọc theo những 
bờ biển và giữa hòn đảo này, để đảm bảo việc tiếp cận pháp lý đối 
với những những ngư dân không thể ra khơi. 
40) Yemen nhấn mạnh mối liên hệ kinh tế giữa những hòn đảo này 
và ngư dân của Yemen, những người sống phụ thuộc vào vùng 
nước này, họ chỉ bán cá cho Yemen nội địa. Yemen đối sánh tình 
hình này với những ngư đân Eritrea và cho rằng bởi vì những khó 
khăn trong việc vận chuyển cá tươi về Eritrea nội địa (bao gồm thủ 
đô Asmara) nên Eritrea không có truyền thống ăn thủy sản. Theo 
Yemen, những ngư dân Eritrea vì lợi ích của mình đã tìm kiếm 
 35 
một thị trường tốt hơn, và đó chính là những khu vực dọc theo bờ 
biển của Yemen. Yemen tin rằng qua nhiều thế kỉ, việc sử dụng 
những hòn đảo trong suốt một thời gian dài và gần như là riêng 
biệt (the long-standing, intensive and virtually exclusive use of the 
Islands) của những ngư dân Yemeni không hề gặp bất cứ một sự 
can thiệp nào từ những quốc gia khác. 
Chương VII: Những chứng cứ về việc triển khai chức năng của 
quốc gia và thẩm quyền của nhà nước 
239) Đối với luật quốc tế hiện đại về quyền chiếm hữu (or 
attribution) lãnh thổ đòi hỏi những tiêu chuẩn sau: một sự thể hiện 
rõ ràng có chủ đích về sức mạnh và quyền hạn đối với những vùng 
đất này, bằng sự thể hiện về thẩm quyền và chức năng của quốc 
gia theo nguyên tắc liên tục và hòa bình. 
243, 244) Không có bất cứ văn bản pháp lý nào chứng minh một 
cách rõ ràng rằng những hòn đảo là thuộc về chủ quyền của hai 
quốc gia, kể cả hiến pháp, sắc lệnh, những quy định về hàng hải 
Văn bản có tính pháp lý thuyết phục nhất đó là năm 1971 nêu ra 
bởi Eritrea chứng minh rằng “những hòn đảo nằm trong phạm vi 
ảnh hưởng của Ethiopia”. Mặc dù đã xác định hai đảo Greater 
Hanish và jabal Zuqar là nằm trong “vùng” được nêu ra, và năm 
1987, Bộ phòng vệ quốc gia cũng nhắc lại những hòn đảo này 
nhưng vẫn không nêu rõ, chỉ đích danh những đảo đó. 
Chương X: Kết luận 
 36 
441) Đối với vấn đề “chủ quyền truyền thống”, tòa phán quyết 
rằng nếu đế chế Ottoman từ chối hoàn toàn quyền sở hữu đối với 
những hòn đảo theo hiệp ước Lausanne 1923 khi thất trận ở giai 
đoạn cuối CTTG I thì quyền này nghiễm nhiên “trở về” với 
Yemen. 
442) Theo học thuyết uti possidetis, thì đế chế Ottoman, mà cụ thể 
là giai đoạn thứ hai của đế chế này trong giai đoạn 1872-1918, 
thực tế chỉ có quyền sở hữu chứ không thật sự sở hữu những hòn 
đảo này như vốn có của nó. 
445) Hiệp ước Lausanne không quy định một cách rõ ràng, như 
hiệp ước Sèvres đã làm, rằng Thổ Nhĩ Kì từ bỏ chủ quyền lãnh thổ 
phục vụ lợi ích của phe Hiệp ước; theo kiểu loại trừ toàn bộ những 
khả năng thực hiện một học thuyết về trao trả quyền (a doctrine of 
reversion). Yemen không phải là một thành viên của hiệp ước 
Lausanne, đó là RES INTER ALIOS ACT. 
456) Hơn nữa, cần phải nhớ lại rằng, cả Eritrea và Yemen không 
có nhiều cơ hội để chứng minh tham vọng của mình một cách 
thoải mái và tích cực về chủ quyền hoặc những hoạt động có tính 
chất nhà nước đối với những hòn đảo cho đến sau năm 1967, khi 
mà Anh quốc rời khỏi khu vực này; bởi vì Anh quốc luôn ý thức 
được việc phải canh chừng, duy trì vị trí của mình theo như quy 
định trong hiệp ước Lausanne rằng quan điểm pháp lý đối với 
những hòn đảo là chưa rõ ràng và xác định. 
458) Có một lập luận cho rằng, căn cứ trên vị trí địa lý của những 
hòn đảo, đảo nhỏ và đảo đá đang tranh chấp đã hình thành nên một 
quần đảo có phạm vi vượt quá những vùng biển gần giữa bờ biển 
giữa hai quốc gia. Từ đó, có thể suy luận ra rằng, những đảo nào 
nằm ngoài cụm đảo này đương nhiên thuộc về quốc gia có đường 
 37 
bờ biển gần nhất đối với đảo đó trừ khi quốc gia kia có khả năng 
chứng minh một cách rõ ràng hơn chủ quyền của nó đối với hòn 
đảo đó. 
460) Cáo trạng của Yemen nhấn mạnh đến cái gọi là “nguyên tắc 
về sự thống nhất tự nhiên và địa lí” khi nói về những đảo trong 
cụm Hanish 
461) Nguyên tắc này được miêu tả cẩn thận trong chương 5 bản 
kiến nghị của Yemen khi nước này đã viện dẫn một số tác gia nổi 
tiếng như Fiztmaurice, Waldock và Charles de Visscher. Tòa cho 
rằng một số quan điểm của các tác gia này là không cần tranh cãi 
nhưng đó không phải là những nguyên tắc tuyệt đối bởi vì các tác 
gia chủ yếu nói căn cứ trên những suy luận của chính họ. Mặc dù, 
Fiztmaurice đã giải quyết tương đối rõ rằng việc tuyên bố chủ 
quyền đối với một bộ phận lãnh thổ và được suy luận mở rộng đối 
với những lãnh thổ bên ngoài mà ở đó không hề có rất ít hoặc 
không hề có một sự tác động nào của Yemen. Tòa không phản đối 
những ý kiến của Fiztmaurice nhưng những đó vẫn chỉ là một 
nguyên tắc về sự thống nhất đơn giản. 
463) Thuyết này được tòa nhìn nhận là con dao hai lưỡi khi mà nó 
gặp phải vấn đề đối với những hòn đảo được suy ra từ đảo gốc có 
thể nằm trong 
VII) Một vài nhận định 
Hai bản phán quyết trong vụ Eritrea/Yemen là một minh chứng rõ 
ràng cho vai trò giải quyết các tranh chấp của một tòa quốc tế trên 
 38 
cơ sở luật, bao gồm công ước về luật biển của LHQ năm 1982 như 
là sự pháp điển hóa luật tập quán quốc tế. 
Phán quyết về “Chủ quyền lãnh thổ và phạm vi của tranh chấp” 
trong vụ này là một cột mốc đánh dấu sự phát triển của những 
nguyên tắc và thủ tục của luật pháp quốc tế điều chỉnh vấn đề 
chiếm hữu chủ quyền lãnh thổ. Học thuyết nổi tiếng về những 
chứng cứ về việc chiếm hữu xác thực và có hiệu lực được ghi 
trong phán quyết này đã được phát

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_nhung_van_de_chung_ve_pca.pdf